Do tính cách đọc thơ hoàn toàn chủ quan như đă nói ở trên, xin bạn đừng xem đây như một thiên khảo cứu hay một bộ sưu tập về thi ca Việt-nam. Tôi đọc bằng cảm xúc, không đọc bằng kiến thức. Nếu những lời bàn nào đó của tôi đối với một bài thơ mà không đúng ư tác giả th́ chẳng có nghĩa rằng tôi hiểu sai đâu, mà chỉ v́ tôi đọc thơ tác giả đó bằng cái hồn, cái giọng, cái cảm xúc của tôi đấy thôi. Xin đừng càm ràm, phiền trách. (Vả chăng, này các thi nhân, các bạn có thể nào chỉ tôi làm thơ cách sao mà không bị người khác hiểu sai ư không?) (trích LỜI THƯA của Vĩnh Hảo viết cho các trang "Đọc thơ")

 

 

 

Cao Tần

 

 

 

 

Bỗng dưng bị đặt vào một hoàn cảnh không c̣n chọn lựa nào khác, họ lên đường, ly hương, bắt đầu đời sống của những kẻ lưu vong. Từ mảnh đất mới, với hai tay trắng, cố gắng gầy dựng nên cơ nghiệp mới. Cơ nghiệp thành tựu lớn lao hay chỉ là những mảnh đời chắp vá th́ cũng tùy khả năng, tuổi tác, sự xông xáo hay thụ động, lanh lợi hay chậm chạp, và đôi khi, vận may hay số rủi của mỗi người mà thành khác nhau. Nhưng điểm giống nhau nhất là ai cũng quay quắt, nhớ nước nhớ non, và bỗng thấy yêu vô cùng tiếng mẹ đẻ... Hoài vọng về quê hương, hoài niệm về dĩ văng, hoài băo một ngày xán lạn cho đất nước... người di tản cảm thấy miền đất mới chỉ là chỗ "tạm dung." Họ vẫn mong đợi một ngày nào đó được trở về cố quốc. Và người di tản, bỗng thấy "buồn". Thơ lưu vong từ đó xuất hiện. Nhiều lắm. H́nh như ai biết chữ cũng làm thơ được trong cái cảnh trạng và tâm trạng "nhớ nước đau ḷng" ấy. Nhưng trong số những người di tản làm thơ "bất đắc dĩ", Cao Tần lên tiếng sớm nhất, thành công nhất, nổi bật nhất; và không như những nhà thơ khác phải trải qua nhiều năm bị ngắm nghía, coi gị... của văn thi hữu và bạn đọc, ông nghiễm nhiên trở thành một nhà thơ rất nhanh, rất tự nhiên. Là v́ không ai vào lúc ấy có thể trải được cái tâm trạng bất đắc chí, hụt hẫng, dở khóc dở cười của ḿnh... một cách thấu đáo, ư nhị, hào hùng, cảm động mà lại lạc quan tếu kiểu như ông. Tửng tửng, tếu, tự biếm, mà thâm sâu làm sao. Đọc thơ ông, người ta vừa cười, vừa khóc. 

 

Mai mốt anh về

Mai mốt anh về có thằng túm hỏi

Mày qua bên Mỹ học được củ ǵ

Muốn biết tài nhau đưa ông cây chổi

Nói mày hay ông thượng đẳng cu li

 

Ông rửa bát ch́ hơn bà nội trợ

Ông quét nhà sạch hơn em bé ngoan

Ngày ngày phóng xe như thằng phải gió

Đêm về nằm vùi nước mắt chứa chan

 

Nghệ thuật nói bỗng hóa tṛ lao động

Thằng nào nói nhiều, thằng ấy tay to

Tiếng mẹ đẻ thường chỉ dùng chửi đổng

Hay những đêm sầu tí toáy làm thơ

 

Ông học được Mỹ đất trời bát ngát

Nhưng t́nh người nhỏ hơn que tăm

Nhiều đứa hồn nhiên giống bầy trẻ nít

C̣n hồn ông: già cốc cỡ ngh́n năm

 

Bài học lớn từ khi đến Mỹ

Là ngày đêm thương nước mênh mang

Thù hận bọn làm nước ông nghèo xí

Hận gấp ngh́n lần khi chúng đánh ông văng

 

Nếu mai mốt bỗng đổi đời phen nữa

Ông anh hùng ông cứu được quê hương

Ông sẽ mở ra ngh́n ḷ cải tạo

Lùa cả nước vào học tập yêu thương

 

Cuộc chiến cũ sẽ coi là tiền kiếp

Phản động ǵ cũng chỉ sống trăm năm

Bồ bịch hết không đứa nào là Ngụy

Thắng vinh quang mà bại cũng anh hùng.

(tháng 3, 77)

 

Những nỗi niềm thương non nhớ nước, lo nghĩ về tương lai tiếng mẹ đẻ trên đất người, thao thức về vận hội thanh b́nh nơi quê xa... là ưu tư chung của người tị nạn xa xứ; nhưng ghi lại thành những câu thơ, những bài thơ để cho ai cũng thấm thía và có thể thuộc ḷng th́ hầu như chỉ có thơ Cao Tần.

 

 

Chốn tạm dung

Nhà tôi ở tọng teng đỉnh đồi

Buổi mai đi làm thấy đời xuống dốc

Sau lưng sương ngập cao lưng trời

Trước mặt thông sầu reo đáy vực

 

Bắt đầu ngày bằng một chút vui

Hát nghêu ngao trong ḷng xe rỗng tuếch

Bài ca quen bỗng chợt quên lời

Chút kỷ niệm c̣n lại mất khơi khơi

 

Tiếng Việt trong ta ngày mỗi héo

Hồn Việt trong ta ngày mỗi khô

Dốc mở như đời ta trước mặt

Sương kín như đời ta hôm xưa

 

Giang hồ một túi bài ca cũ

Hát nhảm cho qua nốt tuổi già

Qua những b́nh minh c̣n ngái ngủ

C̣n như chưa lạc mất quê ta

 

Giữa đỉnh sương mù thông đáy vực

Trên đường chênh chếch nắng mênh mang

Trôi xuôi một mảnh hồn lưu lạc

Đă chán nhân gian ở cuối đường

 

Chiều về lên dốc thân tơi tả

Một quả hoàng hôn đỏ kín trời

Ḿnh mới ngoi lên ngày đă ngă

Đêm phờ lăn lóc ngủ thay chơi

 

Giữa đỉnh sương mù thông đáy vực

Ngược xuôi ngơ ngẩn một linh hồn

C̣ng lưng gánh nốt đời lưu lạc

Nặng trĩu ngh́n cân nhớ nước non.

(tháng 5, 77)

 

Thi vị hóa đời ḿnh qua đời sống thường nhật, với cái giọng nửa chua xót nửa ngạo nghễ, hiếm thấy bài thơ nào thâm trầm sâu sắc như của ông. Đọc mấy câu thơ đầu bài Chốn Tạm Dung, tôi giật ḿnh ngay:

Nhà tôi ở tọng teng đỉnh đồi

Buổi mai đi làm thấy đời xuống dốc

Nội tâm phải thật thâm thúy và sống triền miên trong thơ mới nẩy ra được hai câu với h́nh ảnh tỉ dụ ví von tuyệt khéo như vậy.

Mặc dù ông cố ư dùng cái giọng cà rửng ở câu đầu, chẳng hạn nói "tọng teng" thay v́ "chênh vênh" hay "cheo leo," nhưng đến câu thứ hai, và các câu kế tiếp, ông vẫn không thể giấu được ư và lời đầy ắp chất "thơ." 

Buổi mai đi làm thấy đời xuống dốc

Sau lưng sương ngập cao lưng trời

Trước mặt thông sầu reo đáy vực

 

Nơi ở th́ tọng teng, đường đi th́ xuống dốc, sau lưng th́ mờ mịt sương, trước mặt th́ những cây thông reo buồn nơi đáy vực, lên xe th́ thấy rỗng tuếch, bài ca quen thuộc th́ bỗng quên lời, kỷ niệm đẹp th́ tự dưng lạc mất... Diễn tả như thế là đă đẩy ngôn ngữ đến chỗ tận cùng, không c̣n phải nói ǵ thêm, về vẻ ngơ ngẩn lạc loài của một linh hồn lưu vong tội nghiệp.

Ông c̣n chứng tỏ là một người giàu từ tâm, rộng lượng, đầy ắp t́nh cảm, luôn nhớ nghĩ đến những người khác, dù rằng đời ḿnh cũng xuống dốc, cũng rách nát tan tành. Mà sức tưởng tượng của ông mới thật là tràn trề! Ngồi nhúng chân bên bờ biển này mà thả hồn theo nước về đến bờ bên kia, cách xa vạn dặm; chưa hết, hơi thở dài cũng muốn gửi theo về chốn xưa, khua động cây lá nơi rừng già, an ủi và ca ngợi những tráng sĩ ĺ lợm c̣n nuôi mộng quang phục quê hương...

 

Biển chiều

Chiều nay ra biển ngồi ngơ ngẩn

Nhúng hai gị trong nước Thái B́nh Dương

Để hơi ta dạt về bờ Ô Cấp

Chạm thân ái vào lưng đất mẹ tang thương

 

Có bạn nào đang rắp tâm vượt thoát

Nhớ rằng ta luôn cầu nguyện cho người

Láng đời chót đă tan trên chiếu bạc

Th́ sá ǵ thêm một chuyến ra khơi

 

Thở thật dài vào thinh không bát ngát

Theo gió về động lá cánh rừng xa

Này thằng ĺ c̣n chơi miền gió cát

Trong kiêu dũng mày cho gửi chút hồn ta

 

Có thằng bạn nào tàn đời học tập

Cơng gông xiềng lê lết một thân đau

Này biển chiều sóng xô ào lớp lớp

Những tiếng đời phiêu bạt khóc thương nhau.

(tháng 6, 77)

 

Có thể nói không ngần ngại, rằng thơ ông xứng đáng là tiếng nói tiêu biểu, ghi lại ư hồn chung của một thời chạy loạn di tản, của những người tị nạn ly hương, đánh dấu một trời kỷ niệm lưu vong bi lệ, hùng tráng.

 

Câu cá

Ta đă vượt muôn dặm dài biển cả

Đường tử sinh lui tới cũng đôi lần

Bỗng b́nh minh này ngồi thuyền, câu cá

Trôi dật dờ như lá trên hồ xanh

 

Hỡi chú cá rong chơi miền nước biếc

Ta vượt đường muôn dặm chẳng t́m nhau

Bày đặt buông cần mà quên thương tiếc

Cho đời êm, qua được mấy giờ đau

 

Nói nghe coi này cổ thụ ven hồ

Kể từ những trăm năm dài đứng đó

Có gặp khi nào một kẻ xác xơ

Ḷng sầu hận hơn kiếp người da đỏ

 

Đời đang băo khi không ch́m lặng ngắt

Như cành khô nằm chết đáy sông sâu

Đời đang dậy sóng thần lên bát ngát

Bỗng vùi yên đáy biển một thân tàu

 

Và móc đời lên cần câu vớ vẩn

Đem d́m chơi trong đáy nước rong rêu

Tuổi chưa nặng hồn đă chừng ngơ ngẩn

Ḷng vàng khô hơn chiếc lá đưa vèo?

(tháng 11, 77)

 

Phiêu bồng

Cho ta làm lại cuộc đời

Th́ ta lại vẫn ra khơi như thường

Vật vờ vượt sóng trùng dương

Kiếm đời di tản ngh́n cơn nhục nhằn

Mai này tính sổ trăm năm

May chăng lời được cái thân phiêu bồng.

(tháng 12, 77)

 

Bông giấy

Tưởng ta nhớ chú lắm sao

Này cây bông giấy bên rào năm xưa

Chẳng qua trời đổ cơn mưa

Th́ thương cành mọn đong đưa một ḿnh.

(tháng 12, 77)

 

Thơ ông là lịch sử chép gọn. Trang trải tâm t́nh và ước vọng của người Việt trong một giai đoạn buồn thảm khó quên. Tâm t́nh ấy, không biết hận thù và trả thù; chỉ biết tự vệ và mơ ước những ǵ tốt đẹp nhất cho đồng loại của ḿnh. (Có cần phải chứng minh "cụ thể" chăng? Th́ đây: dù là một trong những nạn nhân bị trù dập, trả thù, đày ải trong các trại tập trung cải tạo--bởi chính sách không hề mang một chút ǵ tinh thần nhân ái, độ lượng, vốn là đặc tính của tộc Việt; mà cũng chẳng có chút tinh thần mă thượng, văn hóa hay văn minh ǵ của con người thời đại--Cao Tần cũng không lên giọng nguyền rủa phía những người "anh em" hành hạ ḿnh bằng ḷng thù hận; trái lại, ông ước mơ có cơ hội để trải tâm t́nh yêu thương đến họ, "lấy t́nh thương xóa bỏ hận thù":

Nếu mai mốt bỗng đổi đời phen nữa

Ông anh hùng ông cứu được quê hương

Ông sẽ mở ra ngh́n ḷ cải tạo

Lùa cả nước vào học tập yêu thương...

(Mai mốt anh về)

 

Tâm t́nh ấy thật đẹp, thật nhân ái và nồng nàn t́nh tự quê hương, là nét văn minh tinh thần được gieo sâu trong mỗi người để mang theo, khắp những phương trời. Chỉ ngần ấy thôi, thơ ông đă vạch ra biên giới rạch ṛi giữa thiện và ác, chính nghĩa và phi chính nghĩa. Người ta sẽ thấy ngay phần chính nghĩa thuộc về phía nào. Không phải cứ thắng là có chính nghĩa. Cũng không phải lưu vong là mất tất cả. Những người lưu vong như Cao Tần, đă quên dần mọi thứ, nhưng vẫn c̣n giữ lại một trời quê hương, một trời thơ.

Cám ơn ông đă thay mọi người, nói tất cả.

 

(tháng 4.2002)

 

 

 

 

 

Trở về mục Đọc Thơ