Nàng có ba người anh
Đi bộ đội
Những em nàng có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh
Tôi người Vệ quốc quân
Xa gia đ́nh
Yêu nàng
Như t́nh yêu em gái
Ngày hợp hôn
Nàng không đ̣i may áo cưới
Tôi mặc đồ quân nhân
Đôi giày đinh
Bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
Bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi.
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng đời chiến chinh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi ḿnh không về
Th́ thương người vợ chờ
Bé bỏng chiều quê...
Nhưng không chết người trai khói lửa
Mà chết người em gái nhỏ hậu phương
Tôi về không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con
Đầy bóng tối
Chiếc b́nh hoa ngày cưới
Thành b́nh hương
Tàn lạnh vây quanh...
Tóc nàng xanh xanh
Ngắn chưa đầy búi
Em ơi!
Giây phút cuối
Không được nghe em nói
Không được trông thấy nhau một lần
Ngày xưa...
Nàng yêu hoa sim tím
Nàng vá cho chồng tấm áo ngày xưa.
Một chiều rừng mưa
Ba người anh
Từ chiến trường Đông Bắc
Được tin em gái mất
Trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về
Rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng trông ảnh chị
Khi gió sớm thu về
Cỏ vàng chân mộ chị
Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim...
Những đồi hoa sim...
Màu tím hoa sim
Tím cả chiều hoang biền biệt
Nh́n áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa
"Áo tôi sứt chỉ đường tà
Vợ tôi mất sớm mẹ già chưa khâu..."
Đèo
Cả
Núi cao vút
Mây trời Ai Lao
sầu
đại dương
Dặm về heo hút
Đá bia mù sương
Bên quán Hồng Quân
người
ngựa
mỏi
Nh́n dốc ngồi than
thương ai
lên đường
Chầy ngày
lạc
giữa suối
Sau lưng
suối vàng
xanh
tuôn
Dưới khe
bên suối độc
cheo leo
cḥi canh
ven
rừng hoang
Những người
đi
Nam Tiến
Dừng lại đây
giữa
đèo núi quê hương
Tóc tai
trùm
vai rộng
Không nhận ra
người làng
Rau khe
cơm vắt
áo
pha màu
sa trường
Ngày thâu
vượn hót
Đêm canh
gặp hùm
lang thang
Gian nan ḷng không nhợt
Căm hờn trăm năm xa
Máu thiêng trôi dào dạt
Từ nguồn thiêng ông cha
Giặc
từ trong
tràn tới
Giặc
từ Vũng Rô
bắn qua
Đèo Cả
vẫn
giữ vững
Chân đèo
máu giặc
mấy lần
nắng khô
Sau mỗi trận thắng
Ngồi bên suối đánh cờ
Kẻ hái cam rừng ăn nheo mắt
Người vá áo thiếu kim mài sắt
Người đập mảnh chai vểnh cằm cạo râu
Suối mang
bóng người
Trôi những về đâu
Hoa Lúa
Em là con gái đồng xanh
Tóc dài vương hoa lúa
Đôi mắt em mang chân trời quê cũ
Giếng ngọt, cây đa
Anh khát t́nh quê ta trong mắt em thăm thẳm
Nhạc quê hương say đắm
Trong lời em từng lời
Tiếng quê hương muôn đời và tiếng em là một
Em ca giữa đồng xanh bát ngát
Anh nghe quê ta sống lại hội mùa
Có vật trụi, đánh đu, kéo hẹ, đánh cờ
Có dân ca quan họ
Trai thôn Thượng, gái thôn Đoài hai bên gặp gỡ
Cầm tay trao một miếng trầu
Yêu nhau cởi áo cho nhau
Về nhà dối mẹ qua cầu gió bay
Quê hương ta núi ngất, sông đầy
Bát ngát làng tre, ruộng lúa
Em gái quê hương mang h́nh ảnh quê hương
Xa em năm nhớ, gần em mười thương
C̣n bàn tay em c̣n quê hương măi
Em mang nguồn ân ái
Căng ngực trẻ hai mươi
Và trong mắt biếc nh́n anh
Em gái quê si t́nh
Chưa bao giờ được yêu đương trọn vẹn…
Anh yêu em muôn vàn như quê ta bất diệt
Quê hương ta ơi từ nay càng đẹp
T́nh yêu ta ơi từ nay càng sâu
Ta đi đầu sát bên đầu
Mắt em thăm thẳm đựng màu quê hương.
(1955)
Đêm
Những đêm Hà Nội ngày xưa
Trằn trọc
Không yên
Những cửa
Từ đầu hôm
Như những mắt nhắm nghiền
Bóng nhà bóng cây
Ôm nhau
Run sợ
Đêm Hà Nội ngày xưa
Như con bệnh hạ xoài
Nung mủ
Như một nhà thương điên
Lên cơn hôn mê
Thiết giáp
Xe tăng
Lính tẩy
Pḥng Nh́.
Tiếng rú của người
Tiếng rít của xe
Những chiếc jeep điên
Đuổi gái
Nghiến người
Quắc mắt đèn pha
Đỏ tia đ̣ng đọc
Đêm Hà Nội ngày xưa
Đầu người
Và t́nh yêu
Treo
Trên đầu sợi tóc
Và sau từng đêm
Mệt nhọc
Hốc hác
Hồ Gươm
Như mắt thâm quầng
Hốt hoảng gọi nhau
Không kịp vớ áo quần
Những đêm Hà Nội ngày xưa
Loă lồ
Ḿnh đầy ung độc
Đă xuống tàu đêm
Vào Sài G̣n
Tất cả
Những đêm Sài G̣n
Ngày mai
Đêm giang mai
Tẩu mă
Đang mâng
Cấp cứu gấp vạn lần
Những đêm xưa Hà Nội
“10$ 1 cốc cà phê
100$ con gái…”
Quảng cáo đóng đầy
Ngực đêm
Như áo ngủ Sài G̣n
Đêm Hà Nội
Ngày nay
Như em nhỏ nằm tṛn
Ru trong nôi chế độ
Những đèn dài đại lộ
Như những tràng hoa đêm
Nở long lanh
Trong giấc ngủ
B́nh yên
Ngă Tư Sở, Cống Vọng, Khâm Thiên
Nằm ngủ
Những đêm
Giữa t́nh cảm lớn
Gió đêm về
Thơm hoa rừng, lúa ruộng
Đặt bàn tay
Lên những cửa ô nghèo
Khi chúng ta về
Ánh sáng
Đă về theo
Và từng cặp người yêu
Đem về trong giấc mơ
H́nh ảnh hồ Gươm
Đẹp như hồ thần thoại
In bóng người yêu
Chung thuỷ
Đợi chờ.
(6-56)
Ngày Mai
Khi nắng chiều tắt thở
Trên hàng cau úa vàng
Bóng từng đoàn nạng gỗ
Đi kêu trên đường làng
Đàn ai
Trong chiều tàn
Tiếng âm rơi
Tan vỡ
Có đem dư hưởng về
Xa thẳm
Em đến
Mồ xưa biếc cỏ vàng
Em hiền như chị
Mắt ngời xanh lam
Em mang trong tóc
Nắng thơm hoa ngàn
Em là đôi mắt
Xưa ngời xanh lam
Của chàng lính trẻ
Say em hát
Ngồi lặng h́nh dung
Mắt một nàng
Em là chân mất
Là tay mất
Của một chàng trai
Của một chàng
Áo quần loang vết mủ
Vết thương nhày
Hôi tanh
Em đem về giặt giũ
Chong đèn
Vá thâu canh
Mai những người vui
Có áo lành
Bờ ao vang tiếng cú
Một bông hoa
Ĺa cành
Kim chùng
Tay rớm máu
Long lanh
Ngày mai em đi khỏi
Ai thương người
Thương binh?
Rằng:
- Em từ đâu lại?
Mắt lam màu
Xa vời
Ngày xưa có
Chuyện đẹp
Nàng tiên đi
Thử người!
oOo
(Mời
đọc tự truyện của nhà thơ Hữu Loan. Trích lại từ Thông Luận
www.thongluan.org)
Chuyện kể về một cây gỗ vuông chành
chạnh
Hữu Loan
"Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng có em chưa biết nói Khi tóc nàng đang xanh..."
Tôi sinh ra trong một gia đ́nh nghèo, hồi nhỏ không có cơ duyên được
cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa, chỉ được cha dạy cho
dăm chữ bữa có bữa không ở nhà. Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất
lại thông minh hơn người, nhờ ông mà năm 1938 - lúc đó tôi cũng đă
22 tuổi - tôi chơi ngông vác lều chơng ra Hà Nội thi tú tài, để
chứng tỏ rằng con nhà nghèo tự học cũng có thể đỗ đạt như ai. Tuyệt
nhiên tôi chẳng có ư định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng
biết thi tú tài Pháp thời đó rất khó khăn. Số người đỗ trong kỳ thi
đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5, 6 chục năm sau những người cùng thời
c̣n nhớ tên những cậu khóa ấy, trong số có Nguyễn Đ́nh Thi, Hồ Trọng
Gin, Trịnh Văn Xuân, Đỗ Thiện và tôi... (theo Lê Thọ B́nh, báo Pháp
Luật số Xuân Giáp Thân)
Với mảnh bằng tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa dạy học.
Nhăn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà Tham Kỳ chú ư, vời
về nhà dạy kèm cho hai đứa con nhỏ. Tên thật của bà Tham Kỳ là Đái
thị Ngọc Chất, bà là vợ của ông Lê Đỗ Kỳ, tổng thanh tra canh nông
Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên. Ở Thanh
Hóa, bà Tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé
lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt đến (theo Lê Thọ
B́nh, báo đă dẫn).
Bà Tham Kỳ là một người hiền lành tốt bụng, đối xử với tôi rất đàng
hoàng tử tế, coi tôi chẳng khác người nhà. Nhớ lại ngày đầu tiên
khoác áo gia sư, bà gọi măi, đứa con gái - lúc đó mới 8 tuổi - mới
chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay miệng lí nhí: "Em chào thầy ạ!" Chào
xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nh́n thẳng vào tôi. Đôi mắt to,
đen láy, tṛn xoe như có ánh chớp ấy đă hằn sâu vào tâm trí tôi,
theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi dạy em đọc, viết. Tên em là Lê
Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài G̣n nên sinh ở trong
ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu đó nhưng
ít nói và mỗi lần mở miệng là cứ y như một "bà cụ non". Đặc biệt em
chăm sóc tôi hàng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chỗ
tôi ngồi ăn lúc th́ vài quả ớt đỏ au, lúc th́ quả chanh mọng ướt em
vừa hái ở vườn; những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén
lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà đem ra giếng giặt...
Có lần tôi kể chuyện "bà cụ non" ít nói cho hai người anh của em
Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em dỗi! Suốt một tuần
liền, em nằm ĺ ở buồng trong, không chịu học hành... Một hôm bà
Tham Kỳ dẫn tôi vào pḥng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đă
nói ǵ, tôi không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đă nói rất nhiều, đă kể
chuyện cho em nghe; rồi tôi đọc thơ... Trưa hôm ấy, em ngồi dậy, ăn
một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em nằng
nặc đ̣i tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng ư: "Mới ốm
dậy, c̣n yếu lắm, không đi được đâu!" Em không chịu, nhất định đ̣i
đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà
Tham Kỳ đưa em lên núi chơi...
Xe kéo chạy chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh
như một con sóc con, tôi đuổi theo muốn đứt hơi! Lên tới đỉnh đồi,
em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em. Chúng tôi ngồi thế một
hồi lâu, chẳng nói ǵ. Bất chợt em nh́n tôi, rồi ngước mắt nh́n ra
tận chân trời. Không biết lúc đó em nghĩ ǵ. Bất chợt em hỏi tôi:
- Thầy có thích ăn sim không?
Tôi nh́n xuống sườn đồi: tím ngắt một màu sim. Em đứng lên, đi xuống
sườn đồi, c̣n tôi v́ mệt quá nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ... Khi
tỉnh dậy, em đă ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim
đen nhánh, chín mọng.
- Thầy ăn đi!
Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng và trầm trồ:
- Ngọt quá!
Như đă nói, tôi sinh ra trong một gia đ́nh nông dân, quả sim đối với
tôi chẳng lạ lẫm ǵ, nhưng thú thật chưa bao giờ tôi được ăn những
quả sim ngọt đến thế!
Cứ thế, chúng tôi ăn hết quả này đến quả khác. Tôi nh́n em, em cười.
Hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi cũng đỏ tím, hai bên má th́... tím
đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo!
Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp
của ông bà Tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em
theo măi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nh́n theo. Tôi đi... Lên
tới bờ đê, nh́n xuống đầu làng, em vẫn đứng đó, nhỏ bé và mong manh.
Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và
lầm lũi đi... Tôi quay đầu nh́n lại... Em vẫn đứng yên đó...Tôi lại
đi và nh́n lại cho tới khi không c̣n nh́n thấy em nữa...
Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi có nhận được tin tức
từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đă khôn lớn. Sau này, nghe bạn
bè kể lại, khi em mới 15 đă có nhiều chàng trai đến ngỏ lời cầu hôn
nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ...
Chín năm sau, tôi trở lại nhà... Về Nông Cống t́m em. Hôm gặp em ở
đầu làng, tôi hỏi em, hỏi rất nhiều, nhưng em không nói ǵ, chỉ bẽn
lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không c̣n là cô học tṛ Ninh bướng
bỉnh nữa rồi. Em đă gần 17 tuổi, đă là một cô gái xinh đẹp...
Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sợ v́ hai gia đ́nh không "môn đăng hộ
đối" một chút nào. Măi sau mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành
công là do bố mẹ em ngấm ngầm "soạn kịch bản".
Một tuần sau đó chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới th́ em
gạt đi, "không đ̣i may áo mới trong ngày hợp hôn", bảo rằng là: "Yêu
nhau, thương nhau cốt cái tâm và cái t́nh bền chặt là hơn cả". Tôi
cao ráo, học giỏi, làm thơ hay lại... đẹp giai nên em thường gọi đùa
là ông chồng độc đáo.
Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa
của gia đ́nh em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng. Đám cưới
rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết!
Hai tuần phép của tôi trôi đi thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường
hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ. Hôm tiễn tôi
lên đường, em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đă đứng.
Chỉ có giờ đây em không c̣n là cô bé Ninh nữa mà đă là người bạn đời
yêu quư của tôi. Tôi bước đi, tôi lại quay đầu nh́n lại... Nếu như
chín năm về trước, nh́n lại chỉ cảm thấy một nỗi buồn man mác th́
lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống.
Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật
thảm thương: hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần
áo ra giặt ngoài sông Chuồng (thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), v́ muốn
chụp lấy tấm áo bị nước cuốn đi nên trượt chân té xuống sông chết
đuối! Con nước lớn đă cuốn em đi vào ḷng nó, cướp đi của tôi người
bạn ḷng tri kỷ, để lại cho tôi nỗi đau không ǵ có thể bù đắp nổi!
Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sâu thẳm trong trái tim tôi.
Nỗi đau ấy tôi phải giấu kín trong ḷng, không được cho đồng đội biết để
tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác
không hồn... Dường như càng ḱm nén th́ nỗi đau càng dữ dội hơn. May
sao sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm tư ǵ cứ nói ra,
nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong tôi được dịp bung ra. Khi
ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, tôi ngồi lặng đi ở đầu làng.
Hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi, chép.
Chẳng cần phải suy nghĩ ǵ, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra:
Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng có em chưa biết nói
Khi tóc nàng đang xanh...
...Tôi về không gặp nàng...
Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc b́nh hoa ngày cưới làm b́nh hương, viết lại
bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại nhà một người bạn ở Thanh Hóa.
Anh bạn này đă chép lại và chuyền tay nhau suốt những năm chiến
tranh. Đó là bài thơ “Màu Tím Hoa Sim”. [1]
Đến đây, chắc bạn đọc đă biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày
2-4-1916, hiện tại đang "ở nhà trông vườn" ở làng Nguyên Hoàn - nơi
tôi gọi là chỗ "quê đẻ của tôi đấy" thuộc Xă Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn
tỉnh Thanh Hóa.
Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay nơi em bị nước cuốn
trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím.
Cho nên tôi mới viết nổi những câu:…“chiều hành quân/ qua những đồi
hoa sim /những đồi hoa sim/ những đồi hoa sim dài trong chiều không
hết /màu tím hoa sim /tím chiều hoang biền biệt và chiều hoang tím
có chiều hoang biết/ chiều hoang tím tím thêm màu da diết”.
Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng đội;
từ giă văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng v́ tính tôi "hay căi,
thích chống đối, không thể làm những ǵ trái với suy nghĩ của tôi".
"Bọn nó" nhiếc móc, chê tôi ủy mị, hoạnh họe tôi đủ điều, không chấp
nhận đơn từ bỏ kháng chiến của tôi. Tôi chẳng cần, mặc kệ chúng! Tôi
thương, tôi nhớ Hoa Sim của tôi quá rồi! Với lại, tôi cũng đă chán
ngấy cái mặt nạ yêu nước của "bọn nó" rồi!
Tôi về quê chúng chẳng buông tha, theo dơi quản thúc, thường xuyên
kiếm chuyện gây khó dễ tôi cũng chẳng cần biết! Sau bao nhiêu năm
trời ngậm cay nuốt đắng, tôi đă được dịp phơi bày tâm sự trong hai
kỳ phỏng vấn của Hương Ly, phóng viên BBC tiếng Việt phát thanh
trong hai ngày 5 và 12-10-2002. Theo tôi th́ t́nh h́nh chung của đất
nước bây giờ là thằng nào cũng lợi dụng trèo đầu cỡi cổ thằng dân
chứ có cái ǵ đâu... Sau phần đầu nói về nguồn gốc của Màu Tím Hoa
Sim và những hệ lụy của bài thơ này, trong phần II tôi đă nói về
cuộc sống cơ hàn và những âm mưu ám sát, chế ngự của đảng đối với
tôi và gia đ́nh tôi từ năm 1956. Dù gian khổ và chết hụt nhiều lần,
tôi nhất định không chịu quỵ lụỵ.
Hồi ấy, ra làm ở ngoài Trung Ương th́ bắt phải theo cộng sản nên tôi
bỏ tôi về. Tôi bỏ về nó không cho về... Nó làm tôi tam t́nh, tứ tội,
làm đủ cách đễ thủ tiêu nhưng mà tôi vẫn tin là tôi có sự che chở
của Trời - Phật cho nên nó không thủ tiêu nổi, bao nhiêu lần đầu độc
không xong... Đó là cái thời 1955 - 1956 khi phong trào Văn nghệ sĩ
chống Đảng bắt đầu bùng lên với sự xuất hiện của nhóm Nhân Văn Giai
Phẩm chống chính sách độc tài, và đồng thời chống những Văn nghệ sĩ
bồi bút đang tâm lừa thầy phản bạn, dốc tâm ca tụng Đảng để kiếm
chút cơm thừa canh cặn của chế độ. Làm thơ phải có cái tâm mà phải
là cái tâm linh thật thiêng liêng th́ mới có thơ hay. Thơ hay th́
sống măi. Làm thơ mà không có t́nh, có tâm th́ chả ra ǵ! Làm thơ
lúc bấy giờ là phải làm về Đảng, ca tụng Đảng, ca tụng cộng sản, ca
tụng cái buôn bán chiến tranh. Bởi v́ cái đánh nhau là cái dễ kiếm
chác lắm. Mà kiếm chác ở cái chiến tranh ấy th́ khó kiểm tra lắm cho
nên những cái bọn ăn bẩn ấy bao giờ cũng chủ trương chiến tranh,
buôn bán chiến tranh. Mà tôi th́ tôi thấy cái đấy là cái khổ dân
nhất nên tôi chống hết sức. Lúc giờ người ta đang một tí là đề cao
Hồ Chí Minh, hai tí là đề cao Hồ Chí Minh... trong khi tôi lại đề
cao cái T́nh Yêu. Tôi khóc người vợ tử tế với ḿnh, người bạn đời
hiếm có của ḿnh. Lúc đó khóc như vậy, nó cho là khóc cái t́nh cảm
riêng... Y như trong Thơ nói đấy: tôi lấy vợ rồi đi Bộ đội, mới lấy
nhau được có hơn tháng, ở nhà Bà ấy đi giặt rồi chết đuối ở sông...
Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc. Bài thơ ấy lúc bấy
giờ nó cho là phản động, làm thơ là phải làm về cộng sản, làm về bác
Hồ chứ không được khóc cái đau riêng của ḿnh... Cái đau khổ riêng
của con người tại sao lại không được khóc!?
Bọn nó xúc phạm đến danh dự và t́nh cảm thiêng liêng của người Vợ mà
tôi hằng yêu quư, cho nên vào năm 1956, tôi bỏ Đảng, bỏ Cơ quan về
thẳng nhà để đi cày. Bọn ấy không cho bỏ, bắt tôi phải viết đơn xin.
Tôi không xin... Tôi có cái tự do của tôi, cái chuyện bỏ Đảng, tôi
muốn bỏ là tôi bỏ không ai bắt được! Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày,
đi bừa, đi thồ, đi đốn củi đưa về, đi xe đá để bán, bọn nó phá tôi
đủ cách, bắt giữ xe đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng
bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ phía trước, có hai càng ph́a
sau thùng gỗ để đủn hay kéo đi. Xe cút kít nó cũng không cho, cấm
không ai được bán bánh xe cho tôi nữa. Có lần tôi phải gánh bộ, gánh
bằng vai tôi cũng cứ nhận. Tôi cứ gánh tôi làm, không bao giờ tôi
chịu khuất phục. Thế mà chúng nó cũng theo dơi, ngăn cản, đi đến đâu
cũng có công an mật đi theo dơi, cho người theo hại tôi... Nhưng mà
lúc nào cũng như có người cứu tôi! Có một cái lạ là chính Thơ của
tôi đă có lần cứu sống tôi! Lần đó tên mật vụ nói thật với tôi là
được giao lệnh giết tôi nhưng nó là cái thằng rất yêu Quê hương, nhớ
Quê nhà. Nó thường đem bài Yên Mô của tôi nói về tỉnh Ninh B́nh của
nó ra đọc cho đỡ nhớ, v́ vậy không nỡ giết tôi.
Ngoài bài Yên Mô, tôi cũng có một vài bài thơ khác được mến chuộng.
Sau năm 1956, khi tôi về rồi thấy cán bộ khổ quá, tôi đă làm bài
Chiếc Chiếu, kể chuyện cán bộ khổ đến nỗi không có đến cái chiếu mà
nằm!
Chiếc chiếu
Có ai thấy một người cha
Từng buổi, từng buổi
Trước tủ kính cửa hàng Mậu dịch ḍm như nổ mắt
T́ mũi dẹp như quả bóng xuống hơi
Thầm đọc đi đọc lại giá hàng từng thứ đồ chơi
Dù nhiều lần đă hạ giá
Trong óc nổi ḅng bong từng mớ
Những cơm đến gạo đến quần đến áo
Đôi chiếu nằm rách từ giữa rách ra
Tục ngữ nói rằng những chiếc nhà dột từ nóc trên dột xuống
Từng sáng mai nh́n gầm giường
Đốt cói rụng đầy như chiếu rụng đốt xương
Gió thổi từ dưới thổi lên
Muỗi cũng đốt từ dưới đốt lên
Nhưng con đái dầm lại tiện
Ṛng ră mười năm kháng chiến
Cầm vững hai tay
Một cái t́nh thần
Choảng nhau với súng với bom
Gian khổ c̣n ư ?
Bố con ta lại vung cái tinh thần như tráng sỹ vung gươm
Chong chóng không quay
Con vứt đi phụng phịu
Sáng kiến làm đồ chơi
Bố th́ không thiếu
Bố lại lấy lá dứa vận cho con cái kèn
Bố thổi nó kêu lên ṭ he. Ṭ he
Con đắc trí giật kèn đi thổi khắp Ô Kim Mă
Ṭ he. Ṭ he
Như một thiên sứ Hài đồng
Xuống lệnh điềm tin
Ṭ he. Ṭ he
Nhớ truyện Đông Chu
Sao đỏ, sao đen
Ṭ he. Ṭ he
Cuộc đời đẩy đưa, định mệnh dắt tôi đến với một người phụ nữ khác, sống cùng
tôi đến ngày hôm nay. Bà tên Phạm Thị Nhu, cũng là một người phụ nữ
có tâm hồn sâu sắc. Bà vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách
ruộng đất, đấu tố điền chủ của Việt Minh.
Nhớ lại, lúc đó, tôi c̣n là chính trị viên tiểu đoàn. Tôi thấy tận mắt những
chuyện đấu tố. Là người có học, hiểu biết luân thường đạo lư, lại có
tâm hồn nghệ sĩ, nên tôi cảm thấy chán nản quá và không c̣n kính
trọng già Hồ cũng như chủ nghĩa cộng sản nữa. Tuy nhiên, tôi đă trót
làm đảng viên được mấy năm rồi. Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô
cùng! Trong một xă thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách xa tôi
ở độ mười lăm cây số, có một gia đ́nh địa chủ rất giầu, nắm trong
tay gần năm trăm mẫu tư điền.
Ông địa chủ giầu ḷng nhân đạo, rất yêu nước thương người. Ông thấy
bộ đội sư đoàn 301 của tôi thiếu ăn nên ông thường cho tá điền gánh
gạo tới chỗ đóng quân để ủng hộ. Tôi là Trưởng Pḥng Tuyên Huấn và
Chính Trị nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm ḷng tốt của ông ta,
đồng thời đề nghị lên Sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để
vinh danh ông. Riêng tôi rất quư mến và luôn luôn nhớ đến ông. Thế
rồi một hôm tôi nghe tin gia đ́nh ông ấy bị đấu tố. Hai vợ chồng bị
đội đấu tố mang ra cho dân sỉ vả, nhục mạ, rồi chôn xuống đất để hở
có cái đầu lên thôi. Xong, họ cho trâu kéo bừa qua lại hai cái đầu
cho đến chết. Gia đ́nh ông bà địa chủ xấu số chỉ c̣n có một cô con
gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đội đấu tố đuổi ra khỏi nhà với
vài bộ quần áo. Dă man hơn nữa, chúng c̣n ra lệnh cấm không cho ai
được liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê cô ta làm công. Thời đó, cán bộ
cấm dân chúng cả việc lấy các con cái của địa chủ làm vợ làm chồng.
Biết chuyện thảm thương giáng xuống gia đ́nh ông bà địa chủ mà tôi hằng nhớ
ơn, tôi trở về xă đó xem cô con gái của họ sinh sống ra sao, v́
trước kia tôi cũng biết mặt cô ta. Tôi vẫn chưa thể nào quên được
h́nh ảnh của một cô bé mỗi buổi chiều cứ lén lút đứng bên ngoài song
cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn. Khi gặp nhau, cô
bé ấy nói v́ đi nghe tôi giảng Kiều nhiều hôm để trâu ăn lúa, nên bị
bắt phạt... Lúc gần tới nơi, may sao tôi gặp cô ta áo quần rách mướp,
mặt mày lem luốc. Cô đang lom khom t́m lượm vài củ khoai mà dân bỏ
sót nhét vào túi áo, rồi chùi vội một củ vào quần đưa lên miệng gặm.
Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi lại gần hỏi thăm và được cô
ta kể lại rành rọt hôm cha mẹ cô bị đấu tố chết ra sao. Cô ta khóc
mếu nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi; hàng ngày cô phải đi mót khoai
ăn đỡ đói ḷng, tối về ngủ trong cái miếu hoang; cô rất đói khổ lo
lắng, không biết ngày mai c̣n sống hay sẽ chết v́ đói khát! Tôi nghe
mà lấy làm thương tâm quá, trong ḷng vô cùng xúc động.
Suy nghĩ rất nhiều, tôi quyết định đem cô ta về quê tôi, rồi bất
chấp lệnh cấm, tôi đă lấy cô ta làm vợ. Rất may là sự quyết định của
tôi đă không nhầm. Khi xưa, quê tôi nghèo, nhà tôî cũng nghèo, tôi
lại c̣n ở trong bộ đội nên không có tiền. Nhưng hai vợ chồng cố gắng
chịu đựng đùm bọc nhau bữa đói bữa no... Cho đến ngày nay, bà ấy đă
cho tôi 10 người con ngoan, 6 trai, 4 gái và cháu nội cháu ngoại hơn
30 đứa!
Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường, chẳng màng
đến thế sự, ngày ngày hốt đá đi bán, túi giắt theo vài quyển sách cũ
tiếng Pháp, tiếng Việt đọc giải sầu, lâu lâu nổi hứng th́ làm thơ,
thế mà chúng vẫn trù dập, không chịu để tôi yên. Tới hồi cởi mở, tôi
được tụi nó ve văn, mời gia nhập Hội Nhà Văn, tôi chẳng thèm.
Năm 1988, tôi "tái xuất" giang hồ sau 30 năm tự chôn và bị chôn ḿnh
ở chốn quê nhà đèo heo hút gió. Tôi lang bạt gần một năm trời theo
chuyến đi xuyên Việt do Hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ
chức để đ̣i tự do sáng tác, tự do báo chí - xuất bản và đổi mới thực
sự.
Dọc đường đất nước trên chuyến đi, tôi đă đọc cho công chúng nghe
trong những lần gặp gỡ, bài thơ dài mới nhất tên là Chuyện tôi về,
một loại bút kư thơ kể về thời gian
"Ba mươi năm không phải chuyện
Một sớm một chiều
Một ngày tù đă dài như thế kỷ
Ấy là tù giữa chợ..."
Trong 30 năm đó, kể từ ngày có vụ án Nhân Văn Giai Phẩm, và 17 năm
sau đó nữa, chẳng có ai dám viết... Cũng trong dịp này, tôi được may
mắn quen biết người bạn trẻ yêu nước, thường viết lách dưới bút hiệu
Tiêu Dao Bảo Cự. Mến phục nhà trí thức đa tài đầy nhiệt huyết nầy,
tôi đă chép tặng bài thơ Chuyện Di Tề với những câu như sau:
"... Tôi là cây
gỗ
vuông
chành
chạnh
suốt đời
đă làm thất bại
mọi âm mưu
đẽo tṛn
để muốn tùy tiện
lăn long lóc thế nào
th́ long lóc
Chân
tính
đấy
hỡi Ŕu, Bào
Phó-Mộc"
Lần đó, chép xong mấy câu thơ, tôi đă chỉ tay vào trang giấy nói: "Anh
thấy đó chữ Ŕu, Bào và Phó-Mộc viết hoa. Anh biết tôi muốn ám chỉ
ai rồi." Anh bạn trẻ gật đầu tỏ vẻ lĩnh hội!
Chuyện này sau đó tôi quên tịt, nhưng hẳn là đă để lại trong tâm tư
anh ta khá nhiều ấn tượng, bằng chứng là 17 năm sau, anh bạn trẻ (lúc
này 60 tuổi, và tôi cũng đă 90!) lần ṃ từ Sài G̣n đến tận nhà thăm
tôi! Mặc dù đang cảm nặng, tôi cũng thu gom được chút lực tàn để hầu
chuyện cùng anh, ăn chung với anh một bữa cơm trưa thanh đạm gọi là
đăi khách từ xa tới! Anh bạn trẻ nói chuyện thật vui, hỏi nhiều thứ
tôi không c̣n nhớ nổi, nhất là những chuyện xảy ra trong chuyến
xuyên Việt năm 1988! Nhưng những sự việc trước đó th́ tôi nhớ như
in, nhất là vào cái thời chúng nó trù dập Nhân Văn Giai Phẩm. Anh
bạn trẻ xin phép hút thuốc lá, tôi không cho; anh bảo cái ǵ anh
cũng bỏ được, trừ cái tật nghiện thuốc lá! Hừm, có ǵ mà không bỏ
được?! Cái ǵ có hại là phải bỏ, cộng sản nó ghê gớm đến thế mà tôi
c̣n bỏ được, nói chi thuốc lá?! Nể mặt tôi nên anh giữ im lặng,
nhưng tôi thấy rơ ánh bất b́nh trong mắt anh...
Anh bảo ra về sẽ viết một bài kư sự ghi lại buổi gặp gỡ đó, và anh
đă giữ đúng lời hứa. Lớp trẻ ngày nay thật tài ba!
Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, Công ty Vitek VTB đột nhiên
ra đề nghị mua bản quyền bài Màu Tím Hoa Sim của tôi với giá 100
triệu đồng. Họ bảo đó là một h́nh thức bảo tồn tài sản văn hóa. Th́
cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu, trừ thuế c̣n 90, chia "lộc" cho
10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu, pḥng ốm đau lúc
tuổi già, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên
Thơ Hữu Loan.
Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin kư hợp đồng mua mấy tập
thơ khác, nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán!
Hữu Loan
[1] Dưới đây là nguyên văn bài thơ Màu tím hoa sim mà Hữu Loan đă
đích thân đọc lại cho phóng viên Hương Ly (BBC) năm 2002:
Màu tím hoa sim
"Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh
Tôi người Vệ quốc quân xa gia đ́nh
Yêu nàng như t́nh yêu em gái
Ngày hợp hôn nàng không đ̣i may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
Đôi giầy đinh bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa nhớ về ái ngại
Lấy chồng đời chiến chinh
Mấy người đi trở lại
Nhỡ khi ḿnh không về
Th́ thương người vợ chờ bẻ bỏng chiều quê
**
Nhưng không chết người trai khói lửa
Mà chết người gái nhỏ hậu phương
Tôi về không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc b́nh hoa ngày cưới
Thành b́nh hương tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh
Năm chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
Không được nghe nhau nói
Không được trông nhau một lần
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
Áo nàng mầu tím hoa sim
Ngày xưa đèn khuya bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo ngày xưa
***
Một chiều rừng mưa
Ba người anh bị chiến trường đông bắc
Biết tin em gái mất
Trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Em nhỏ lớn lên Ngỡ ngàng nh́n ảnh chị
Khi gió sớm thu về
Cỏ vàng chân mộ chí
Chiều hành quân qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Mầu t́m hoa sim tím chiều hoang biền biệt."
Hữu Loan