Khoa Hữu

 

 

 

Bài cổ thi cho người tình

Buồn ơi lăng tẩm lòng ta

chôn xương ác thú treo da đất người

tảng đời ta nặng muốn rơi

áo xiêm em khỏa thân ngồi muốn đi

ngón tay mềm vóc xuân thì

gót chân cỏ hạnh lối về âm dương

hẹn em, hẹn đến vô thường

hẹn ta thiên địa hoang đường hẹn nhau

dòng thơ niên sử còn khâu

vết thương ta trước em sau cũng gần

mười năm, đuối mắt tình nhân

tóc ta trắng ngọn phù vân bời bời

ta về mưa tẩm nắng phơi

trái tim cổ tích dưới trời hạ điên.

 

 

Bức họa chân dung biển

Ta ngồi lên thét thinh không

chớp đen nỗi giận chập chùng biển cơn

gió đi những bước chân dồn

trầm luân lũ đá đứng còn trơ trơ

sóng hôn môi bãi điên rồ

nước ngâm xương trắng tình xưa dã tràng

 

Ngàn năm đất ải bụi tang

hối thân cát lở kinh hoàng ngọn lau

mấy lòng bể mấy hồn dâu

còn đây mảnh áo mai sau mảnh trời.

 

 

Trái tim người qua sông Cửu Long

Ta về, một tấc lòng xuyên Việt
trách gì sông nước cuộc bể dâu
ta về vẫn hai bờ tâm huyết
người nhớ sông, sông cũng bạc đầu.

 

Ta vui từng bước chân ta bước
ta vui úp mặt trong bàn tay
ta vui sao lòng ta thổn thức
như sông cuồn cuộn sóng hồn này.

 

Mười năm về đời bên bờ bắc
mười năm về nhớ xiết như sông
đợi chuyến phà sang, gọi ký ức
nặng lòng ta chiếc bắc giữa dòng.

 

Ai vẽ mùa xuân chen sắc hạ
tháng ngày trong trí nhớ như tranh
ôi yêu dấu nồng nàn như cỏ
yêu dấu như giọt nước trầm mình.

 

Và lớp lớp thuyền đi ngang dọc
lớp lớp người thủa ấy về đâu
ta hiểu mỗi đời là hạt thóc
gieo mầm cho đất một mùa sau.

 

Kè đá thức trắng đêm sương phủ
huyền hoặc trăng trên đá mài gươm
bỏ núi xa rừng trăng viễn xứ
đá sắt son lòng đá ngậm ngàn.

 

Ta về, hồi tưởng sông truyền thuyết
chín con rồng ẩn tích về đây
chọn đất thiêng gửi dấu móng vuốt
qua ngàn năm sót chút hình hài.

 

Ta về, tưởng giữa dòng trống giục
sóng thét, bầy voi trận xuất binh
cuồn cuộn đi như ngọn nước xiết
bóng mây dồn theo bóng Quang Trung.

 

Hai bờ chật quân ngồi nghỉ khát
dưới mặt trời kết mảng qua sông
bạt vía, kinh hồn lân bang giặc
về phương nam thần thoại phương đông.

 

Thời niên thiếu cha cho áo vải
áo mẹ may thành giáp long bào
nước có nguồn cây từ cội ấy
ơn sâu, nghĩa cả nặng ngàn sau…

 

Ta về, mưa nắng như trời đất
sông nước chờ ta - dẫu mười năm
ví ta còn sót chút nước mắt …
nói làm sao chuyện của cõi lòng?

Ta về nhật nguyệt soi vầng trán
Lịch sử còn lưu dấu cổ kim.

(Trích từ tập thơ LỬA)

 

 

Về một con đường Sài Gòn

Mây đi nắng vẫn ngồi trông
gió đi cây suốt đôi dòng lá bay
trên trời mưa vấn tóc mây
thế gian ta kết tóc này se tơ


năm chia thời tiết hai mùa
anh chia ngày tháng đón đưa em về
tay chia mười ngón cầm đi
chân chia bước chậm vai kề bên nhau


tóc bay ngại nón che đầu
áo bay dài cuốn mai sau bên người
đường đi bóng tựa sinh đôi
ngại rời vai sóng ngại lời quay chân


em về bóng đứng phân vân
anh đi đã gửi đời trong mắt người
vai buồn chân bước lẻ loi
đường xưa hỏi bóng theo người về đâu?

 

 

Cái chết của một tượng đá

"Si Dieu existe, que souhaiteriez vous qu’il vous dise après votre mort."

Tạc mãi đau thương người thành đá
ngồi canh đồng đội đã bao năm
cây súng gác ngang đời không ngủ
chiếc ba lô vai nặng vết hằn.

 

Người ngồi đó, mở trang bi sử
chiến bào như thấm máu chưa khô
ta ngồi đó xanh hàng bia mộ
áo nhung rêu cũng bạc dấu thù.

 

Ta muốn hỏi người từ đâu đến
bèo mây hạnh ngộ, có nhớ ta
ta về từ những vùng, khu chiến
bọc kinh hoàng xương mất, để da.

 

Ta muốn hỏi người, câu sinh tử
mắt trẻ thơ, môi cánh hoa đào
trán cô phụ băng lời tình sử
tóc mẹ già phủ mặt chiêm bao.

 

Cái chết – những con thiên nga trắng
ngàn năm tuyệt tích trời đông phương
anh hùng mạt lộ, chiến trường tận
đâu trái tim của một gã cuồng?

 

Đêm thập tự hàng hàng, vấn tội
đồi bạch dương chụm những đầu ma
oán sâu sương khói cao mù núi
sát thời gian, người, đá hay ta.

 

Mười năm, lại mười năm sống sót
chuyện dữ tan tành, đồng đội đâu
đất nghĩa trang nhớ hoang dại mọc
quê nhà đây, cỏ mới, ngang đầu.

(Saigon 1990)

 

 

 

 

 

 

 

 

Trở về mục Đọc Thơ