Nguyễn Du
(4/2002)
Viết về ông, đă có nhiều người, nhiều sách và sử. Ở đây không cần phải nói thêm.
Nói về thơ của ông, số người và sách báo luận bàn lại càng nhiều hơn, nên ở đây cũng không cần phải dông dài. Nhưng thơ ông mà chỉ nói đến Đoạn Trường Tân Thanh (Truyện Kiều) thôi th́ quả là thiếu sót lớn. Có thể v́ hào quang của Đoạn Trường Tân Thanh đă trùm lấp hết khiến người ta hầu như quên đi rằng ông c̣n rất nhiều sáng tác khác quan trọng không kém, gồm những bài thơ ngắn, tự, vịnh, họa... bằng chữ Hán, hoặc bằng chữ Nôm. Đôi khi ở những bài thơ ngắn gọn khác của ông lại nói được nhiều hơn cả pho truyện Kiều. Mà đó lại chẳng phải là chuyện nên bàn ở đây. Chỉ thấy là không thể không trích đăng một bài không thể thiếu trong nền văn học Việt Nam để những người thưởng thơ ông có cơ hội hiểu thêm tấm ḷng của ông đối với con người và cuộc đời.
Đây là một bài văn tế, có cái tên không được thơ mộng: Chiêu Hồn Thập Loại Chúng Sinh. Có chỗ ghi là Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh. Lại có chỗ để là Văn Chiêu Hồn. Nói chung là mọi người đều gọi đây là một bài văn tế; có lẽ v́ tính chất "tế" đă hiện rơ trong văn bản lẫn thực tế (v́ đă được các chùa dùng để cúng thí cô hồn vào dịp Lễ Vu Lan); nhưng tôi thích đọc như là một bài thơ. Bởi v́ nó rất thơ.
Trong khi Truyện Kiều bao trùm cả một đời kỳ nữ tài hoa, bao trùm cả nền thơ Việt Nam từ hơn trăm năm nay, th́ nơi bài thơ Chiêu Hồn Thập Loại Chúng Sinh này, tấm ḷng của Nguyễn Du bao trùm cả một xă hội, một đất nước, một cuộc phù sinh mộng ảo, với tất cả con người từ hàng đế vương cầm quyền cho đến bá quan, văn nhân tài tử, tu sĩ, dân dă... của mọi nơi, mọi thời. Ông nói về cơi âm, mà cũng là nói về cơi dương. Trong sự quan sát sâu sắc của một nghệ sĩ tài hoa ảnh hưởng tinh thần Bất-nhị của Phật giáo, ông dùng ng̣i bút vẽ lại cho chúng ta h́nh ảnh biến ảo, hư hư thực thực của trần gian, nơi đó tất cả những ǵ con người đang hăm hở vươn tới, nắm bắt và đắm ḿnh trong đó, đều phản hiện mặt trái của nó. Sống và chết. Hạnh phúc và khổ đau. Hiện kiếp và hậu kiếp. Cơi này và cơi kia. Tất cả đều là mộng ảo. Con người và hoài vọng của nó, đều là những bọt sóng nhấp nhô trên ḍng sông đời. Nét vẽ thần t́nh của ông không hướng dẫn một con đường, mà khơi dậy một cảm thức, một cái nh́n trung thực về con người và cuộc đời, ở mặt phải và trái của nó. Từ đó, con người sẽ dừng lại bớt những tham vọng điên rồ, và sẽ biết yêu thương nhau hơn. Mà như vậy, cuộc đời sẽ thơ mộng hơn. Đây, bài thơ:
Chiêu Hồn Thập Loại Chúng Sinh
Tiết tháng Bảy mưa dầm sùi sụt
Toát hơi may lạnh buốt xương khô
Năo người thay bấy chiều thu
Ngàn lau nhuốm bạc lá ngô rụng vàng.
Đường bạch dương bóng chiều man mác
Dặm đường lê lác đác sương sa
Ḷng nào ḷng chẳng thiết tha
Cơi dương c̣n thế nữa là cơi âm.
Trong trường dạ tối tăm trời đất
Có khôn thiêng phảng phất u minh
Thương thay thập loại chúng sinh
Hồn đơn phách chiếc linh đinh quê người.
Hương lửa đă không nơi nương tựa
Hồn mồ côi lần lữa đêm đen
C̣n chi ai khá ai hèn
C̣n chi mà nói kẻ hiền người ngu.
Tiết đầu thu lập đàn giải thoát
Nước tịnh b́nh rưới hạt dương chi
Muôn nhờ Đức Phật Từ Bi
Giải oan cứu khổ độ về Tây Phương.
Nào những kẻ tính đường kiêu hănh
Chí những lăm cướp gánh non sông
Nói chi đang thuở tranh hùng
Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau!
Bỗng phút đâu tro bay ngói giở
Khôn đem ḿnh làm đứa thất phu
Cả giàu sang nặng oán thù
Máu tươi lai láng xương khô ră rời.
Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc
Quỷ không đầu van khóc đêm mưa
Cho hay thành bại là cơ
Mà u hồn biết bao giờ cho tan.
Nào những kẻ màn lan trướng huệ
Những cậy ḿnh cung Quế Hằng Nga
Một phen thay đổi sơn hà
Mảnh thân chiếc lá biết là làm sao!
Lên lầu cao, xuống ḍng nước chảy
Phận đă đành trâm găy b́nh rơi
Khi sao đông đúc vui cười
Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương!
Thảm thiết lẽ không hương không khói
Hồn ngẩn ngơ băi cói ngàn sim
Thương thay chân yếu tay mềm
Càng năm càng héo càng đêm càng dàu.
Nào những kẻ mũ cao áo rộng
Ngọn bút son thác sống trong tay
Kinh luân chất một túi đầy
Đă đêm Quản Cát lại ngày Y Chu.
Thịnh măn lắm oán thù càng lắm
Trăm loài ma xắm nắm chung quanh
Ngh́n vàng khôn chuộc được ḿnh
Lầu ca viện xướng tan tành c̣n đâu!
Kẻ thân thích vắng sau vắng trước
Biết lấy ai bát nước chén nhang
Cô hồn thất thểu dọc ngang
Nặng oan khôn lẽ t́m đường hóa sinh.
Nào những kẻ bài binh bố trận
Đem ḿnh vào cướp ấn nguyên nhung
Gió mưa thét rống đùng đùng
Dăi thây trăm họ làm công một người.
Khi thất thế tên rơi đạn lạc
Băi sa trường thịt nát máu trôi
Bơ vơ góc bể chân trời
Nắm xương vô chủ biết vùi nơi nao!
Trời xâm xẩm mưa gào gió thét
Khí âm ngưng mờ mịt trước sau
Năm năm xương trắng dăi dầu
Nào đâu điếu tế nào đâu chưng thường.
Cũng có kẻ tính đường trí phú
Ḿnh làm ḿnh nhịn ngủ quên ăn
Ruột rà không kẻ chí thân
Dẫu làm nên để dành phần cho ai.
Khi nằm xuống không người nhắn nhủ
Của phù vân dù có như không
Sống th́ tiền chảy bạc ḍng
Thác không đem được một đồng nào đi.
Khóc ma mướn thương ǵ hàng xóm
Ḥm gỗ đa bó đóm đưa đêm
Ngẩn ngơ nội rộc đồng chiêm,
Nén hương giọt nước biết t́m vào đâu?
Cũng có kẻ rắp cầu chữ Quư
Dấn thân vào thành thị lân la.
Mấy thu ĺa cửa ĺa nhà
Văn chương đă chắc đâu mà trí thân.
Dọc hàng quán phải tuần mưa nắng
Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng
Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng
Anh em: thiên hạ; láng giềng: người dưng.
Bóng phần tử xa chừng hương khúc
Băi tha ma kẻ dọc người ngang
Cô hồn nhờ gửi tha phương
Gió trăng hiu hắt khói hương lạnh lùng!
Cũng có kẻ vào sông ra bể
Cánh buồm thưa chạy xế gió đông
Gặp cơn giông tố giữa ḍng
Đem thân vùi rấp vào ḷng ḱnh nghê.
Cũng có kẻ đi về buôn bán
Đ̣n gánh tre chín dạn hai vai
Gặp cơn mưa nắng giữa trời
Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao.
Cũng có kẻ mắc vào khóa lính
Bỏ cửa nhà gồng gánh việc quan
Nước khe cơm ống gian nan
Dăi dầu muôn dặm lầm than một điờ.
Buổi chiến trận mạng người như rác
Phận đă đành đạn lạc tên rơi
Lập ḷe ngọn lửa ma trơi
Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương.
Cũng có kẻ lỡ làng một tiết
Liều tuổi xanh bán nguyệt buôn hoa
Ngẩn ngơ khi trở về già
Ai chồng con nấy biết là cậy ai.
Sống đă chịu một đời phiền năo
Thác lại nhờ hớp cháo lá đa
Đau đớn thay phận đàn bà
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu!
Cũng có kẻ nằm cầu gối đất
Dơi tháng ngày hành khất ngược xuôi
Thương thay cũng một kiếp người
Sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan.
Cũng có kẻ mắc oan tù rạc
Gửi thân vào chiếu lác một manh
Nắm xương chôn rấp góc thành
Kiếp nào cởi được oan t́nh ấy đi.
Ḱa những kẻ tiểu nhi tấm bé
Lỗi giờ sinh ĺa mẹ ĺa cha
Lấy ai bồng bế vào ra
U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi ḷng.
Ḱa những kẻ ch́m sông lạc suối
Ḱa những người sẩy cối sa cây
Có người gieo giếng thắt dây
Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành.
Người th́ mắc sơn tinh thủy quái
Người th́ sa nanh khái ngà voi
Có người có đẻ không nuôi
Có người sa sẩy có người khốn thương.
Gặp phải lúc lạc đường lỡ bước
Cầu Nại hà kẻ trước người sau
Mỗi người một nghiệp khác nhau
Hồn xiêu phách lạc biết đâu bao giờ?
Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi
Hoặc là nương ngọn suối chân mây
Hoặc là bụi cỏ bóng cây
Hoặc là quán trọ cầu này bơ vơ.
Hoặc là nương thần từ phật tự
Hoặc là nhờ đầu chợ cuối sông
Hoặc là mông quạnh đồng không
Hoặc nơi g̣ đống hoặc vùng lau re.
Sống đă chịu một bề thảm thiết
Ruột héo khô da rét căm căm
Dăi dầu trong mấy mươi năm
Thở than dưới đất ăn nằm trên sương.
Nghe gà gáy t́m đường lánh ẩn
Lặn mặt trời lẩn thẩn t́m ra
Lôi thôi ẳm trẻ dắt già
Có khôn thiêng hỡi lại mà nghe kinh.
Nhờ phép Phật siêu sinh Tịnh độ
Phóng hào quang cứu khổ độ u.
Khắp trong tứ hải quần chu
Năo phiền trút sạch oán thù rửa trong.
Nhờ đức Phật thần thông quảng đại
Chuyển Pháp luân tam giới thập phương
Nhơn nhơn Tiêu Diễn đại vương
Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.
Nhờ phép Phật uy linh dơng mănh
Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao
Mười loài là những loài nào
Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh.
Kiếp phù sinh như h́nh bào ảnh
Có câu rằng: "Vạn cảnh giai không"
Ai ai lấy Phật làm ḷng
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.
Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo
Của có chi bát cháo nén nhang
Gọi là manh áo thoi vàng
Giúp cho làm của ăn đàng thăng thiên.
Ai tới đó dưới trên ngồi lại
Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu
Phép thiêng biến ít ra nhiều
Trên nhờ Tôn giả chia đều chúng sinh.
Phật hữu t́nh từ bi phổ độ
Chớ ngại rằng có có chăng chăng
Nam mô Phật Nam mô Pháp Nam mô Tăng
Nam mô nhất thiết siêu thăng thượng đài.
(trích từ "Chiêu Hồn Thập Loại Chúng Sinh" (của Nguyễn Du), Khảo luận của Mai Quốc Liên, do Nhà XB Văn Nghệ in năm 1991)