Tường Linh
Trời xưa áo lục
Hãy chậm chân bon hỡi ngựa hồng
Lối về chừng đã tới bên sông
Quán xưa khói nhạt, đò sang bến
Lau trắng bờ xa run gió đông.
Khách ngẩng đầu lên thương núi xanh
Ðỉnh mây ngàn thuở vọng nhân hành
Người đi núi lặng nhìn theo bóng
Ngựa vượt đèo cao vó cuốn nhanh.
Kiếm thép xưa mài đá núi thiêng
Trăng thu, suối bạc chứng câu nguyền
Hỡi ơi, kiếm gãy sa trường loạn
Nhịp sống tiền doanh cũng lặng yên.
Giữa trận đòi phen ngất ngưởng say
-- Ðịch nhân, mời cạn chung bầu này
Giết nhau, ồ thiếu chi hồi giết
Chuyện dễ dàng hơn bữa rượu cay.
Vứt kiếm, buông cung, khách trở về
Bàng hoàng như trải một cơn mê
Phiến mây cố quận ngàn xa gợi
Một cõi thơ và một bóng quê.
Chiến mã rung bờm nghe bắc phương
Mùa đưa tin gió siết canh trường
Quay đầu, vó sải theo đường cũ
Tung bụi mù tro lửa nhiễu nhương
Giáp trụ, cân đai nặng mấy phần
Thay bằng màu áo lục thi nhân
Cỏ êm êm dưới chân giày cỏ
Bảng lảng chiều vương điệu trúc ngân.
Gọi chính mình xưa: chinh khách ơi!
Có hay trăng đợi với thơ mời?
Ðáy ly chìm một trời mơ ước
Ðùa mặt hồ nghiêm, chiếc lá rơi...
Mây cố quận
Dừng lại quán lưng đèo uống rượu
Một mình đối mặt với non cao
Khói giăng lũng thấp, sườn mây nhạt
Tiếng suối xa reo, phải núi chào?
Vươn cánh đại ngàn chạm trắng mây
Quần sơn, thạch trận vẫn bày đây
Không là tráng sĩ hồi nguyên quán
Rượu đón, đèo xưa chén mãi đầy.
Ngứa tay, đâu có gươm mà vỗ
Bi tráng... phân vân tiếng khóc, cười
Vó ngựa ruổi qua thời lửa rực
Không còn về với tuổi đôi mươi!
Chủ quán, rót riêng ly rượu mới
Ðể ta mời núi luận anh hùng
Núi im, chẳng lẽ mình ta luận?
Lại uống mà suy chuyện thủy chung.
Mây lượn ngang đèo sang hướng tây
Hướng tây mẹ đợi vóc hao gầy
Lời kinh khua nuối liềm trăng khuyết
Tuổi hạc nghe tường ý cỏ cây
Cố quận ngày ta về với ta
Ðèo cao, xuân đợi phía quê nhà
Uống thêm ly nữa và đi tiếp
Rượu bốc lời thơ gởi gió xa.
(Ðèo Le, xuân 1995)