Trang chính | Thơ | Văn | Tác phẩm | Đọc thơ | Nhạc chọn lọc | Trang Phật giáo | Liên lạc
T̀M XUÂN, ĐÓN XUÂN
Thư ṭa soạn số 75, tháng 02.2018
Những tờ lịch cuối năm dương lịch hăy c̣n vương trên tường, không màng gỡ xuống. Lịch mới chưa thấy treo lên. Thư pḥng ngổn ngang sách báo. Bàn viết bày biện giấy tờ và các tập hồ sơ trong ngăn b́a màu nầy màu kia. Những mẩu giấy nhỏ, ghi chú chằng chịt với những ḍng chữ vắn tắt hay kư hiệu, con số ǵ đó khó ai đoán được, xếp từng hàng cạnh máy vi tính. Thư từ cũng xếp từng lớp theo thứ tự thời gian, cái nào đến trước th́ nằm ở trước. Một đời sống vừa bề bộn nhiêu khê, vừa trật tự ngăn nắp, thể hiện ngay nơi bàn làm việc của người cầm bút.
Đời sống của người trong những ngành nghề khác cũng thế. Nh́n nơi làm việc là biết được tính cách của con người. Không có tính cách nào giống hệt nhau. Nhưng đời sống của mọi người, mọi loài, hầu như đều được sắp xếp trong một tŕnh tự thời gian nào đó, theo một chu-kỳ sinh (trụ, dị) diệt nhất định—nhất định chứ không cố định.
T́nh cảm, tư duy, tri kiến và sự biểu đạt của con người cũng dần dà, vô t́nh trôi theo ḍng chảy của thời gian.
Thời thanh xuân, tiếng nói trong trẻo, du dương; trung niên, tiếng trầm như sấm; lăo niên, tiếng khàn đục như cối xay. Tuổi càng trẻ, càng nói nhiều, nói mạnh; tuổi càng cao, càng trầm lặng ít nói.
Các định kiến, thành kiến thời trẻ cũng bị rạn vỡ qua những trận ma-xát trường kỳ của tư duy, đối chiếu, phân loại và trải nghiệm thực tế trong đời sống; để rồi, từ một thiếu niên tự hào, nông nổi, giờ đă thành cụ lăo chín chắn, chững chạc, nghĩ điều ǵ cũng ba lần bảy lượt, nói điều ǵ cũng rào trước đón sau...
Không có cách thế sinh diệt nào như nhau. Không có những trật tự hay tŕnh tự cố định của vạn hữu. Nên chi, mùa xuân của người nầy lại là mùa thu của người kia, mùa đông của nơi nầy là mùa hạ của chỗ khác. Trong mùa đông, có những lá vàng khô rơi rụng, cùng lúc, cũng có những nụ hoa c̣n khoe sắc thắm; mà vào mùa xuân, khi muôn hoa rộ nở th́ cũng có những chiếc lá xanh ĺa cành. Có những người trẻ khóc người lăo niên, và cũng có tre già khóc măng non. Niềm đau nhân thế, nói sao cho cùng.
Lặng nh́n trời đất xoay vần, nhân gian dịch chuyển, ḷng vời vợi nhớ về cố quận quê xa. Chệch một bước đi, thần tiên ngh́n năm lạc lối. Chuếnh choáng bước vào cơi trần, mắt xanh đổi màu mây xám. Trăng soi đường, trời mở lối, mà ngày đêm cứ quàng xiên đi măi như cùng tử lang thang. Thương ḿnh lao đao, thương người thống khổ, mà có làm, có nói được ǵ đâu!
Quả t́nh đôi lúc muốn được một lần như Không Lộ năm xưa:
“Chọn nơi địa thế đẹp sông hồ
Vui thú t́nh quê quen sớm trưa
Có lúc trèo lên đầu chóp núi
Kêu dài một tiếng lạnh hư vô.” (1)
Một tiếng kêu dài hay một tràng cười cất lên từ đầu non, khi ngôn ngữ không thể trực chỉ bản thể, không thể biểu đạt được chí nguyện ban đầu, không thể trải phơi được tấm ḷng, không diễn bày hết nỗi phù du chóng vánh của cuộc đời trong chuỗi dài trùng điệp tử-sinh.
Có khi cô đơn cùng tận giữa trần thế lao xao, trong phố hội đông đúc nói cười; mà ḷng tạnh như nước trong giếng cổ (2).
Phế-hưng bao lớp sóng dồn. Người người lần lượt đến-đi.
Ai chẳng bao phen đi t́m mùa xuân.
Ai chẳng một lần đi qua thuở xuân th́.
T́m mùa xuân cho nỗi điêu linh thống khổ của cuộc đời. T́m mùa xuân cho vạn vật hồi sinh.
Ôi là nhớ, cây rừng, hốc đá ven suối. Tiếng chim kêu, một sáng tinh mơ khi sương sớm chưa tàn trên cánh hoa rừng. Củi thông đă tắt trong ḷ, hương trà cũng đă nguội lạnh. Ḷng tịnh yên. Giấc mộng mùa xuân vừa tàn (2).
Nhưng mùa lộc mới cũng vừa về trên những cành khô. Cỏ thơm xanh rợp núi đồi. Ngàn hoa rực rỡ dưới trời xanh biêng biếc. Chim oanh lại hót trên cành. Ḷng cũng rộn ràng nao nức như trẻ thơ đón Tết.
Xuân, thêm một lần vui đón xuân sang.
California, ngày 30.01.2018
Vĩnh Hảo
____________________
(1) Bản dịch của Nguyễn Lang, (trích từ Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Tập I, Saigon, nxb Lá Bối 1973), nguyên văn bài kệ Ngôn Hoài của Thiền Sư Không Lộ như sau:
“Trạch đắc long xà địa khả cư
Dă t́nh chung nhật lạc vô dư
Hữu thời trực thướng cô phong đỉnh
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư.”
(2) Ư và h́nh ảnh được mượn từ bài thơ Xuân Đán của Chu Văn An ( ? – 1370) thời nhà Trần:
Xuân đánTịch mịch sơn gia trấn nhật nhàn,
Trúc phi tà ủng hộ khinh hàn.
Bích mê vân sắc thiên như túy,
Hồng thấp hoa tiêu lộ vị can.
Thân dữ cô vân trường luyến tụ,
Tâm đồng cổ tỉnh bất sinh lan.
Bách huân bán lănh trà yên yết,
Khê điểu nhất thanh xuân mộng tàn.
Dịch nghĩa:
Sớm xuân
Nhà trên núi vắng vẻ, suốt ngày thảnh thơi,
Cánh cửa phên che nghiêng ngăn cái rét nhẹ.
Màu biếc át cả sắc mây, trời như say,
Ánh hồng thấm nhành hoa sương sớm chưa khô.
Thân ta cùng đám mây cô đơn măi măi lưu luyến hốc núi,
Ḷng giống như mặt giếng cổ, chẳng hề gợn sóng.
Mùi khói thông sắp hết, khói trà đă tắt,
Một tiếng chim bên suối làm tỉnh mộng xuân.
(Thơ Văn Lư Trần, Tập III, trang 61. NXB Khoa Học Xă Hội Hà Nội 1978)
TRỞ VỀ TRANG THƯ T̉A SOẠN CHÁNH PHÁP