Nước. Nước từ đâu cứ dâng lên;
lên rồi rút, rút rồi lại lên,
ngập tràn đồng ruộng, ao hồ,
vườn tược, làng quê, và phố thị
của nhiều tỉnh thành miền Trung.
Cuồng phong băo tố từ đại dương
cuộn xoáy vào đất liền, kéo theo
những cơn mưa xối xả ngày đêm.
Nước lũ ngầu đục từ non cao đổ
về, từ các đập thủy điện xả
xuống, đẩy những ḍng cuồng lưu
ồ ạt đi về nơi trũng thấp, theo
những nhánh sông hướng ra biển,
chựng lại khi gặp mực biển dâng
cao với cường triều gầm thét,
sông nối biển biến vùng duyên
hải thành một biển nước mênh
mông.
Trong ḍng nước ngầu đục, đă có
trên trăm người thiệt mạng và
mấy chục người c̣n mất tích; của
cải, gia súc bị nhận ch́m hoặc
cuốn trôi. Dù đă được cảnh báo
trước sẽ có lũ lụt lớn, nhiều
gia đ́nh vẫn không lường được
sức nước khủng khiếp chưa từng
có như vậy; hoặc cũng v́ không
biết phải lánh nạn ở đâu khi
toàn vùng ngập tràn nước. Có
thai phụ bị cuốn theo ḍng lũ
khi thuyền lật. Có cụ già mù
trên chín mươi chẳng biết chạy
đi đâu khi nước đến. Có gia đ́nh
không kịp chôn cất mẹ vừa mất
khi lũ đến, phải treo quan tài
mẹ lên trần nhà năm ngày mới có
thuyền đến cứu hộ, đem chôn. Có
bà cụ một ḿnh ngồi trên những
bao lúa chất cao, nhịn đói, thức
trắng nh́n nước dâng từng giờ,
không biết kêu cứu ai. Có người
mẹ nằm bên cạnh xác hai con thơ
chết đuối trong trận lụt, vuốt
má ru con, lệ tràn. Có bà cụ vừa
lo cho chồng bại liệt, vừa lo
cho con bị hội chứng Down khi
nước ngập nửa nhà mới kịp có ghe
đến cứu. Có gia đ́nh với đàn con
nheo nhóc không kịp di tản, đành
ôm nhau trên nóc nhà khóc la
thảm thiết. Có bé thơ mếu máo
khóc khi t́m ra sách vở học của
ḿnh ướt mem rách nát trong vũng
śnh. Có những ḍng tin nhắn qua
điện thoại, kêu cứu khẩn cấp,
tuyệt vọng. Nhà nhà, nước ngập
đến tận mái, đoàn cứu hộ biết
đâu mà t́m.
Rồi hoang tàn để lại sau những
trận lũ. Lềnh bềnh trên những
vũng nước đọng và śnh lầy hôi
thối là xác gia súc gia cầm, cây
rừng, gỗ mục, những bao lúa thóc,
và tất cả vật dụng, bàn ghế, tủ
thờ, quần áo, sách vở... của
hàng trăm ngh́n gia đ́nh, phơi
bày lên đó. Xác người được t́m
lại và đă đem chôn, nhưng vẫn
c̣n một số mất tích, không biết
t́m ở đâu nơi bờ sông, khe suối
ĺnh x́nh nước đục. Vội vàng t́m
về nhà xưa, những người già
người trẻ mắt trũng sâu, thất
thần, vô vọng. Cha mẹ tôi đâu,
tuổi già sức yếu chắc không thể
chống nổi ḍng cuồng lưu vô t́nh
phăng phăng đêm qua. Chồng tôi
đâu, vợ tôi đâu, con thơ tôi đâu,
có ai vớt được không khi nước lũ
cuốn qua căn nhà xiêu vẹo này!
Sau một tuần mưa đổ ngày đêm,
ngập lụt cùng khắp, rồi nước
cũng rút dần. Nước rút về đâu? –
Về nơi thấp nhất. Đổ về biển,
hoặc thấm vào ḷng đất. Nhưng
nước mắt của khổ đau mất mát th́
lăn măi vào tận tim can.
Nước luôn đổ về nơi thấp trong
khi lửa th́ bốc lên cao. Nước
hay lửa đều hữu dụng, không thể
thiếu trong cuộc đời. Nhưng khi
bạo phát th́ trở thành tai họa.
Khóc thương dân t́nh khổ lụy, ở
bờ này hay bờ kia. Buồn vời vợi,
hận ḿnh bất tài vô lực trước
thiên tai, nhân họa ngút ngàn.
Nh́n thế nước dâng, không khỏi
nhớ về Nguyễn Trăi (1380 – 1442)
với bài thơ ưu tư về vận nước:
Quan hải
Thung mộc trùng trùng hải lăng
tiền
Trầm giang thiết tỏa diệc đồ
nhiên
Phúc chu thủy tín dân do thủy
Thị hiểm nan bằng mệnh tại thiên
Họa phúc hữu môi phi nhất nhật
Anh hùng di hận kỷ thiên niên
Càn khôn kim cổ vô cùng ư
Khước tại thương lang viễn thụ
yên.
Đóng cửa biển
Trước sóng biển, đóng cọc gỗ hết
lớp này đến lớp khác,
Lại đặt ngầm xích sắt dưới sông,
đều uổng công thôi!
Bị lật thuyền mới biết dân như
nước,
Đă cậy thế hiểm th́ khó tựa mệnh
trời.
Họa phúc có duyên đâu phải chợt
đến trong ngày,
Anh hùng đành lưu hận mấy ngh́n
năm.
Ư
vô cùng của thiên địa xưa nay,
Hiện ra nơi sương khói trên hàng
cây xa bên ḍng nước.
(Lê
Tư dịch nghĩa)
Đào Duy Anh dịch thơ như sau:
Lớp lớp rào lim ngăn sóng biển,
Khoá sông xích sắt cũng vầy thôi.
Lật thuyền mới rơ dân như nước,
Cậy hiểm khôn xoay mệnh ở trời.
Hoạ phúc gây mầm không một chốc,
Anh hùng để hận mấy trăm đời.
Vô cùng trời đất gương kim cổ,
Cây khói xa mù bát ngát khơi.
Lũ lụt trong thực tế là tai họa
giáng xuống lương dân. Thế nước
dâng trong chính trị là tai họa
cho kẻ cầm quyền. Nước nâng
thuyền th́ nước cũng có thể lật
thuyền (1). Ư dân một khi đă tụ
lại và thịnh nộ dâng lên như
nước lũ th́ sẽ không thuyền nào
an toàn chèo chống. Đặt ḿnh vào
t́nh huống khó khăn để cảm cái
khổ của người. Ḷng thương luôn
sẵn có nhưng cơ hội để bộc phát
không phải là từng ngày. Hiểm
họa của đời sống cũng không phải
đột nhiên mà đến. Việc thịnh suy
ở đời luôn có căn nguyên của nó.
Cần học cách ứng xử thế nào khi
tai họa đến với người khác, v́
ngày nào đó có thể sẽ đến lượt
ḿnh. Khổ đau sẽ không chừa một
ai. Giữ tâm lắng đọng như mặt
nước hồ thu. Gạn lọc những cáu
bẩn thường làm nhiễm ô ḍng nước.
Lắng tâm như lắng nước, đừng để
sóng động. Rồi nước sẽ yên tĩnh,
và b́nh an sẽ đến với muôn người.
California, ngày 24 tháng 10 năm
2020
Vĩnh
Hảo
_________
(1)
Theo Lê Tư, trang
Nghiên Cứu Lịch Sử, “Khổng tử
gia ngữ: “Phù quân giả, chu dă;
thứ nhân giả, thủy dă. Thủy sở
dĩ tải chu, diệc sở dĩ phúc chu.”
Vua là thuyền, dân là nước.
Nước để chở thuyền mà cũng có
thể lật thuyền (dẫn theo
Trần Trọng Dương). Thiên “Vương
chế,” sách Tuân tử có câu tương
tự: “Quân giả, chu dă, thứ nhân
giả, thủy dă; thủy tắc tải chu,
thủy tắc phúc chu.” Vua là
thuyền, thứ nhân như nước; nước
chở thuyền, cũng làm lật thuyền. Tuân
tử (313 – 238 trước Tây lịch)
không nhận lời này của ông mà
nói rằng trích xuất từ “Truyện,” tác
phẩm giải nghĩa kinh có
trước đó.” (trích chú thích số
104, bài ‘Nguyễn Trăi, bề tôi
của bốn ḍng vua’: https://nghiencuulichsu.com/2018/01/18/nguyen-trai-be-toi-cua-bon-dong-vua/)