Khi một người ra đi, rời chốn
này, hay rời khỏi cuộc đời này,
những kỷ niệm để lại từ những
h́nh vật cụ thể cho đến tiếng
nói giọng cười, chữ viết, h́nh
ảnh, thơ văn, ư tưởng, thật và
sống động như vẫn c̣n quanh đây.
Niềm lưu luyến của người thân ở
lại tưởng chừng không có ngày
chấm dứt: dùng dằng, dai dẳng,
vừa bám víu, vừa đẩy xô; vừa gọi
kêu, vừa né tránh; để tim thắt
lại, để hồn nhói đau, để nước
mắt rơi dài những đêm thâu…
Nhưng rồi mọi thứ cũng qua đi.
Nỗi đau trong hồn có khi c̣n
phai nhanh hơn ngoại vật. Nỗi
đau hay niềm vui, dù đậm hay
nhạt, cũng phải đổi thay theo
năm tháng. Không có nỗi đau
trường cửu, không có niềm vui
bất tận. C̣n sống trong cảm giác
là c̣n sống với vô thường. Sẽ là
ảo giác khi tin rằng cảm giác
hay ư niệm không bao giờ đổi
thay. Cảm giác hay ư niệm đều là
những biểu hiện của tâm thức:
liên tục chuyển động. Chính v́
chuyển động không ngừng mà niềm
vui đoàn tụ sẽ không bao giờ kéo
dài, và nỗi đau ly tán cũng
không thể d́m chết một tâm hồn
hay làm héo hắt một đời người.
Sau những biến thiên, con người
tiếp tục gượng dậy và vươn lên.
Dẫu sao, không thể phủ nhận nỗi
bâng khuâng và cái buồn hoang
lạnh hắt hiu khi nh́n lại dấu
tích đâu đó của người đi để lại.
Cái áo hay chiếc gối đầu nằm.
Cây bút hay cuốn sách trên bàn.
Có khi thương cha nhớ mẹ quắt
quay mà không dám t́m lại hơi ấm
nơi chiếc giường đơn lạnh; cũng
không đủ can đảm lục soạn đống
thư từ cũ nằm trong hộc tủ. Nỗi
trống trải quặn lên từ kư ức,
trùm lấp cả không gian chung
quanh. Nước mắt chỉ chực tuôn
rơi khi nhớ lại người xưa.
Thiền gia có đời sống nhẹ nhàng
hơn, nhưng cũng không thiếu
những tâm cảnh tương tự. Xâu
chuỗi và cây gậy của sư cụ c̣n
lưu lại nơi thiền pḥng. Tường
rêu như c̣n in bóng thầy sau
chiếc ghế gỗ đă ṃn nhẵn lưng
dựa. Nhớ ngày nào thầy c̣n ngồi
đó, im như núi, tịnh một cơi tâm
hư. Thoảng khi hồi tưởng, chỉ
nhớ mơ hồ cánh hạc về tây không
dấu tích. Thầy từng ngồi đó mà
không ngồi đó. Thiền trượng,
giày rơm, c̣n đây mà không c̣n
đây. Dấu tích, chẳng qua là do
nơi người sau giữ lại hoặc khởi
họat từ tâm tưởng. Như Tuệ Trung
một lần nh́n chiếc thuyền gác
mái bên băi cát ven sông mà liên
tưởng hành tŕnh vô tung biệt
tích của tiền nhân:
“Tạ Tam nay đă không tin tức
Để chiếc thuyền trơ băi cát này.”
(1)
Giang hồ một thuở đă phỉ chí
b́nh sinh. Lữ khách neo thuyền
lên non ẩn tích.
H́nh ảnh chiếc thuyền không,
ghếch ḿnh lên cát chính là ẩn
dụ “qua sông bỏ bè” được nói
trong kinh Phật (2).
Nh́n chiếc thuyền mà man mác
hoài niệm cổ nhân một thời. Hoài
niệm ở đây không phải là nỗi
buồn thông thường của thế nhân.
Chỉ là cảm khái về một hành
trạng, một tâm thức xả ly siêu
tuyệt tương ứng với sở hành sở
đắc của tự thân.
Đă lên bờ rồi, c̣n mang thuyền
theo làm ǵ!
Lên đường, là để đi đến chỗ
tuyệt cùng cao thẳm.
Tiễn người đi, là tiễn đến nơi
không bờ không bến.
Không buồn đau, không nuối tiếc.
Chỉ là chút u hoài vu vơ trong
một thoáng mơ ṃng, chiêm bao.
California, ngày 22 tháng 02 năm
2021
Vĩnh Hảo
______________
(1)
Bài “Giang hồ tự thích”
của Tuệ Trung, được trích từ “Tuệ
Trung Ngữ Lục”, bản dịch của
Thiền sư Thích Thanh Từ (trong
“Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục
Giảng Giải,” 1996).
(Trích):
VUI THÍCH GIANG
HỒ
Tâm xưa hồ hải chửa từng khuây
Ngày tháng như tên dường tợ thoi.
Gió mát trăng thanh sanh kế đủ
Non xanh nước biếc nếp
sống đầy.
Sáng sớm giương buồm băng nước
thẳm
Chiều nâng sáo thổi cợt khói mây.
Tạ Tam nay đă không tin
tức
Để chiếc thuyền trơ băi cát này.
Thiền sư Thích Thanh Từ chú
thích về nhân vật Tạ Tam như sau:
“Tạ Tam là Tạ
Tam Lang, tức Thiền
sư Huyền
Sa Sư Bị, lúc c̣n cư
sĩ ông là một người thả
thuyền câu dưới
sông, vui thú giang
hồ nay đầu ghềnh mai cuối
băi. Đến ba mươi tuổi ông đem
thuyền lên băi để, rồi bỏ đi tu,
sau trở
thành một Thiền
sư nổi
tiếng.”
(ngưng trích)
Một bản dịch khác rất hay, đă
được phổ biến từ đầu thập niên
1970s, của Trúc Thiên, trích từ
“Tuệ Trung Ngữ Lục,” xuất bản
tại Sài-g̣n năm 1968:
“Giang
hồ tâm ấy chửa từng lau
Ngày tháng như thoi như bóng câu
Gió mát trăng thanh luôn vẫn đó
Non xanh nước biếc thiếu ǵ đâu
Chiều nghiêng sáo thổi sương
lồng khói
Sớm cuốn buồm phăng sóng bạc đầu
Tăm bóng Tạ Tam nay vẫn bặt
Thuyền không bỏ đó gối cồn nâu.”
(2)
“Nhữ đẳng tỳ-kheo, tri ngă
thuyết pháp như phiệt dụ giả,
pháp thượng ưng xả, hà huống phi
pháp.”
Dịch: Các thầy tỳ-kheo nên biết
rằng pháp của ta như ví dụ về
chiếc bè; pháp c̣n nên buông xả,
huống ǵ phi pháp. (Kinh Kim
Cang, Đoạn 6 – Chánh Tín Hy Hữu).
Ở đây chỉ nhắc đến hai chữ
“phiệt dụ” (ví dụ về chiếc bè)
chứ không nói rơ ư nghĩa của ẩn
dụ này; nhưng từ những lần
thuyết pháp khác của đức Phật
trước đó, người đọc tự hiểu rằng
người thực hành chánh pháp không
nên cố chấp về sở
tri,
sở đắc của ḿnh, giống như người
qua sông, phải bỏ bè lại, không
vác theo ḿnh mọi nơi.