Đêm yên tĩnh. Nh́n ra khung
kiếng cửa sổ chỉ thấy một màu
đen, đậm đặc. Cây cối, hàng giậu,
lẳng hoa, bồn cỏ, ghế đá, và con
đường ngoằn ngoèo trong công
viên, có thể sẽ khó cho khách bộ
hành nhận ra vị trí và thực chất
của chúng. Cây bên đường có thể
bị nhầm là kẻ trộm đối với cảnh
sát, và sẽ là cảnh sát đối với
kẻ trộm (1). Giây thừng hay con
rắn. Con chim hay con quạ. Con
sóc hay con mèo. Người hay quỉ.
Mọi vật đều một màu đen.
Trong bóng đêm, mọi thứ đều dễ
trở nên ma mị, huyễn hoặc.
Gia thêm trí tưởng tượng và lôi
kéo kư ức về những bất tường của
cuộc sống, người ta càng dễ
hoảng sợ khi đi ngang một khu
vườn tối tăm, không đèn không
đuốc. Dường như có ma quỉ hay kẻ
ác nào đang ẩn nấp, ŕnh ṃ,
theo dơi người qua đường.
Nhưng cũng cảnh vật ấy, khi mặt
trời lên, mọi thứ trở lại b́nh
thường, chẳng ǵ quan trọng,
chẳng ǵ đáng sợ. Dưới ánh ban
mai, lá cây vẫn ŕ rào lay động
theo gió sớm, chim kêu ríu rít
trên nóc nhà, con sóc băng ngang
hàng giậu được cắt tỉa thẳng
thớm, mùi bánh ḿ nướng đâu đó
quyện theo hương thơm từ những
gị lan treo lủng lẳng, ghế đá
c̣n ướt sương, và con đường
ngoằn ngoèo vẫn uốn quanh những
bờ cỏ xanh mướt.
Nh́n ra bản chất thực của mọi sự
mọi vật, người ta sẽ không c̣n
âu lo sợ hăi.
Bản chất thực, hay thực-thể,
thể-tánh, là tánh không, là
không có tự tánh cá biệt độc lập,
mà tất cả đều duyên sinh (nương
với nhau mà sinh), duyên khởi (nương
với nhau mà xuất hiện). Do duyên
sinh mà tất cả các pháp đều vô
thường, vô ngă; chứng nghiệm
tính chất vô thường, vô ngă này
ngay nơi thực tại hiện tiền
chính là an trú nơi niết-bàn
tịch tịnh (2).
Con đường là như thế. Nhưng
trước hết phải nh́n thấy con
đường. Thấy, là bước đầu để vén
bức màn vô minh, nh́n ra con
đường (kiến đạo), sẽ không c̣n
lạc lối nữa. Nhưng cái thấy này
không đơn giản là hiểu được
nguyên lư duyên sinh qua giải
thích của kinh sách hay diễn
giảng từ những bậc thầy. Cái
thấy ấy phải là sự thức ngộ,
bừng tỉnh của tri giác sau khi
trải qua một quá tŕnh tu tập,
quán sát sâu xa.
Thấy biết như thật (như thật tri
kiến) là nh́n sự vật như là
chính nó, không có sự gán ghép,
đặt tên, phân biệt từ nhận thức
của ḿnh. Mà để nh́n được như
vậy, cái tôi phải biến đi. Để
cái tôi biến đi, cần thực tập
sâu xa và lâu dài. Vô ngă th́
không c̣n vô minh. Nhưng không
vô minh th́ chỉ mới bắt đầu dợm
bước lên bậc thềm tiến đến vô
ngă.
Đó là đứng trên phương diện lư
tánh, nói về tu tập, nội quán,
để thực chứng vô ngă, đạt đến
niết-bàn. C̣n trên b́nh diện thế
gian tương đối, hành giả đi vào
cuộc đời thực tế với tri thức
thường nghiệm, tất phải hiểu và
tiếp xử với con người và xă hội
trong cái khung giới hạn của
luật tắc, ước lệ. Có nghĩa rằng,
khi mặt trời lên, giây thừng đă
rơ là giây thừng th́ phải biết
nó là giây thừng, không thể v́
thành kiến và ảo tưởng đêm qua
mà cứ một mực cho rằng đó là con
rắn. Có nghĩa rằng phải-trái,
tốt-xấu, đúng-sai cần phân minh,
rạch ṛi. Có nghĩa rằng, đây là
điều thiện th́ biết là điều
thiện nên làm, đây là điều ác
th́ biết là điều ác nên tránh.
Không v́ cái tôi, người thân của
tôi, tổ chức của tôi, đảng phái
của tôi… mà lộng giả thành chân,
nói trái sự thực, hành động trái
lương tâm, giẫm đạp lên quyền
lợi và mạng sống của người khác.
Người con Phật, thấy biết như
thật trong Chân đế, và thấy biết
như thật trong Tục đế. Tục đế là
tướng trạng của Chân đế, là hiện
tượng rơ ràng trên mặt bản thể
thâm sâu u huyền. Cái rơ ràng dễ
thấy mà không thấu đạt th́ tri
kiến về Tánh Không, về Như Lai
thực tướng, cần phải xem xét lại.
Huyên thiên, cao đàm về những
giáo nghĩa thậm thâm mà nhận
thức và hành xử thông thường lại
mù mờ thiên lệch, hóa ra theo
Phật bao năm thật uổng phí!
Tuyên giảng giáo lư như thật mà
đầu óc đầy những tà kiến, biên
kiến (3): giả cho là thật, thật
cho là giả; tà cho là chánh,
chánh cho là tà; tôn sùng kẻ ác,
hủy báng người thiện; lao tâm
khổ nhọc, phí phạm thời gian cho
những tṛ huyễn mị hư dối của
thế gian, th́ c̣n tâm chí nào để
vươn đến chỗ tối thượng siêu
nhiên!
Như vầng thái dương xuất hiện
sau đêm dài huyền hoặc, đạo lư
như thật khai mở cho chúng ta
tri kiến như thật về tính chất
vô thường, vô ngă của thế giới
chúng sinh, dẫn chúng ta đi
thẳng vào bản thể tịch diệt
niết-bàn ở ngay nơi tướng trạng
vô thường, vô ngă ấy.
Dưới ánh mặt trời, mọi ảo tượng,
ảo ảnh đều tan biến. Mọi thứ đều
hiển lộ. Không ǵ khuất tất.
Không ǵ có thể gợi lên sự hoài
nghi, mộng tưởng. Chim vẫn đậu
trên cây. Cây vẫn đứng bên đường.
Không có ǵ gọi là vô minh; cũng
không có điều gọi là hết vô minh
(4). Không có màn đêm nào được
vén lên; chỉ là ánh mặt trời
xuất hiện, quang minh, rỡ ràng.
Đức Phật đă đi vào thế giới điên
đảo này trong thể cách như vậy.
Ngh́n năm bóng tối, chỉ trong
chớp mắt, tan đi.
Mùa Phật Đản, Phật lịch 2565
California, ngày 24 tháng 04 năm
2021
Vĩnh Hảo
______________
(1)
H́nh ảnh ẩn dụ từ câu
chuyện ngụ ngôn tây phương,
không nhớ của tác giả, tác phẩm
nào.
(2)
Vô thường, vô ngă, niết-bàn gọi
chung là ba pháp ấn (tam pháp ấn).
Đây là ba điều ấn chứng giáo lư
đích thực của Phật. Kiến giải về
ba pháp ấn này cũng có thể được
xem như là nhánh khởi đầu của
Bát Chánh Đạo (Chánh kiến - tri
kiến chân thực). Lư thuyết nào
đi ngược tri kiến này đều là lầm
lạc, không phải Phật thuyết.
(3)
Tà kiến và biên kiến là 2 trong
5 ác kiến – c̣n gọi là ngũ lợi
sử, tức là những loại phiền năo
linh lợi, thuộc về nhận thức, dễ
dẹp trừ hơn những phiền năo căn
bản (ngũ độn sử). 5 ác kiến này
gồm 1. Thân kiến: chấp vào sự
tồn tại của tự thân, tự ngă; 2.
Biên kiến: chấp thiên lệch một
bên, như cho rằng ngă là thường
c̣n (thường kiến) hoặc mất hẳn (đoạn
kiến) sau khi chết; 3. Tà kiến:
không tin nhân quả; 4. Kiến thủ:
chấp trước sự sai lầm cho là
chân thực. 5. Giới cấm thủ: chấp
chặt vào những qui luật hay giới
cấm phản tự nhiên, không chân
chính, cho rằng có thể theo đây
mà đạt cứu cánh niết-bàn.
(4)
“Vô vô minh, diệc vô vô minh tận,”
không có vô minh, cũng không có
hết vô minh (Bát Nhă Tâm Kinh).