Cơn đại dịch quét qua địa cầu
gây điêu đứng và làm xáo trộn cả
đời sống của nhân loại. Nó tước
đi những sinh mệnh, làm đảo lộn
nếp sống của từng cá nhân, gia
đ́nh, xă hội, quốc gia và quốc
tế. Nó không phân biệt, nể trọng
hay nhường nhịn ai; không kỳ thị
trí thức hay b́nh dân, giàu hay
nghèo, già hay trẻ, nam hay nữ,
khỏe mạnh hay yếu đuối. Nó ly
cách từng cá nhân, chia ĺa
những gia đ́nh, khoanh vùng từng
xă hội; và như lưỡi hái khổng lồ
của tử thần, nó phạt ngang, san
bằng tất cả những ǵ nằm trên
lối đi thần tốc của nó.
Hơn ba triệu người nằm xuống (1)
dưới lưỡi hái này kể từ khi dịch
bắt đầu lây lan; và số nhân mạng
tử vong vẫn c̣n tăng lên từng
ngày ở quốc gia này, quốc gia
kia, dù các khoa học gia đă bào
chế và sản xuất được thuốc chủng
ngừa từ cuối năm trước.
Hăy thử nh́n những con số của
dịch cúm năm 1918: khoảng 500
triệu người bị lây nhiễm, và
khoảng ít nhất là 50 triệu người
tử vong trên toàn thế giới (2).
Số người chết năm xưa so với
ngày nay thật quá khủng khiếp.
Nhưng ngày nay đọc lại từ sử
liệu, chỉ thấy tử vong trên
những con số. H́nh ảnh chết chóc
sẽ được gợi lên bằng phép toán
so sánh thật nhanh: năm ấy và
năm nay, con số và người chết.
Mức độ xúc cảm sẽ không nhiều,
nếu không muốn nói là vô cảm.
Thống kê về tử vong trong chiến
tranh, thiên tai, ôn dịch… ở
khắp nơi trên thế giới với cấp
số ngh́n, muôn, ức, triệu không
thể nào chính xác, để rồi con số
cuối cùng lưu vào sử chỉ là ước
tính. Những con số trên trang sử,
dù chuẩn xác hay chỉ ước tính,
cũng đă lược bỏ đi danh tánh,
tuổi tác, giới tính, chức nghiệp…
của từng phận người. Và, sử đă
không ghi được nỗi thống khổ
cùng tận của những con người
bằng xương bằng thịt, có ư thức,
xúc cảm và t́nh thương, phải đau
đớn quằn quại khi mất đi một
phần cơ thể, hoặc mất đi người
thân yêu trong gia đ́nh. Sử
không ghi được máu đổ nơi chiến
trường hay hậu phương, không ghi
được nước mắt lăn dài trên những
gương mặt sầu đau khổ nạn. Sử
cũng không mô tả được nỗi âu lo,
niềm hy vọng, thất vọng và từng
giây phút căng thẳng của những
người ở tuyến đầu lửa đạn hay
đại dịch: người lính ở trận tiền,
y sĩ y tá nơi pḥng cấp cứu bệnh
viện, trực tiếp chứng kiến, cảm
nhận và chia sẻ nỗi đớn đau và
cái chết với đồng đội, với bệnh
nhân.
Có những cơn đau làm oằn cả thân,
rồi mau chóng mang đi một đời
người. Có những cơn đau vật vă
kéo dài như hành hạ xác thân
trong nhiều kiếp. Có những cuộc
chia ly vội vàng không kịp nói
lời từ giă, và những cuộc từ
biệt đă biết từ nhiều ngày trước.
Có những lời trăng trối đứt
quăng theo hơi thở phập phều, và
những lời nhắn nhủ ngắn gọn chỉ
được gửi qua vị y sĩ. Có những
cái chạm tay qua mặt kiếng, hay
vẫy tay từ một khoảng cách xa
thẳm như từ hai thế giới cách
biệt. Những lời nghẹn ngào.
Những tiếng khóc lặng câm, đau
buốt ở tận tim gan. Sự đau đớn
và khiếp hăi của bệnh nhân khi
đối diện với cái chết là không
cùng tận; niềm đau mất mát của
người thân ở lại cũng không cùng
tận.
Cái khổ của sinh, già, bệnh,
chết đă được nói nhiều trong
kinh điển các tôn giáo, trong sử
sách, văn chương, báo chí, lời
truyền giảng… Nhưng nếu không
trực tiếp ở ngay tuyến đầu của
chiến tranh, thiên tai, dịch
bệnh, người ta khó có thể khởi
lên niềm trắc ẩn, xót xa hay
phát ḷng từ bi ảnh hưởng lên
hành động cứu giúp, vỗ về. Khi
khổ nạn chưa đến với bản thân,
người ta hăy c̣n thờ ơ, không
quan tâm ǵ lắm; cho đến khi
dịch bệnh lan đến bạn bè, hàng
xóm, người thân, mới để ư và tin
rằng nó có thật. Và rồi khi khổ
nạn ấy đến với chính tự thân,
lời trăng trối cũng không kịp
cất lên, niềm hối hận cũng muộn
màng không thể chân thành biểu
lộ. Tin tức từ các phương tiện
truyền thông đại chúng đến lúc
này mới được ghi nhận là có thật,
mà căn bệnh nguy hiểm đang hành
hạ xác thân, hăm he tước đi mạng
sống của ḿnh c̣n thật hơn.
Cho nên, sống trên cuộc đời khổ
đau này, cần phải học và phát
triển ḷng thương. Thiếu ḷng
thương, người ta sẽ mất đi sự
nhạy cảm, đồng cảm với khổ nạn
của kẻ khác. Thiếu ḷng thương,
người ta chỉ biết có ḿnh, niềm
đau của ḿnh, mà không hề biết
rằng có những người khác cũng
đau khổ, có khi c̣n trăm lần hơn.
Ḷng thương là chất liệu có sẵn
trong mỗi con người, là sức mạnh
vô song có thể vực dậy được
những ǵ đă ngă đổ của tự thân
và gia đ́nh; xa hơn, có thể làm
vơi đi những khổ đau bệnh hoạn
của xă hội, cứu vớt an ủi những
số phận hẩm hiu nghèo đói.
Hạt mầm thương yêu có sẵn, nhưng
không tạo môi trường tốt đẹp và
thích hợp th́ mầm ấy cũng không
thể nứt lên cây, cho ra hoa trái.
Bởi vậy t́nh thương, hay ḷng từ
bi, cần phải trau luyện và nuôi
lớn. Ḷng từ bi nên được ứng
dụng vào tất cả mọi sinh hoạt
của con người, từ cá nhân đến
gia đ́nh và xă hội, từ giáo dục
đến y tế, kinh tế. Động lực và
chức năng của ḷng từ bi là nâng
dậy. Từ sự nâng dậy ấy, nhân
gian sẽ an vui hơn, cuộc đời sẽ
hạnh phúc hơn.
Hăy nghe lời nguyện tha thiết
phát khởi từ ḷng yêu thương con
người và cuộc đời, được tụng đọc
mỗi sáng trong chốn thiền môn:
“Vào những lúc tật dịch tràn lan,
con sẽ hóa hiện thành thuốc men
(dược thảo), cứu chữa cả những
bệnh trầm kha; gặp khi nạn đói
hoành hành, con sẽ hóa hiện
thành lương thực để cứu người
đói lạnh cơ khổ. Bất cứ điều lợi
ích (thiết thực) nào, con nguyện
sẽ không từ nan” (3).
Với ḷng từ bi được trau luyện
và nuôi dưỡng ấy, chúng ta đối
diện và đối kháng với thảm họa
dịch bệnh hôm nay bằng trái tim
và bàn tay nhân ái. Bất cứ điều
ǵ có thể góp phần vào việc
pḥng ngừa và chống lại dịch
bệnh, chúng ta sẽ tận lực thực
thi, v́ điều này sẽ cứu mạng rất
nhiều người, trong đó có cả bản
thân và gia đ́nh chúng ta. Chúng
ta không quên tri ân những nhà
khoa học suốt mấy chục năm qua
đă vùi ḿnh vào các chương tŕnh
nghiên cứu về vi trùng để kịp
bào chế thuốc chủng ngừa cho
dịch bệnh ngày nay. Chúng ta
biết trân quư, biết ơn và hết
sức ca ngợi ḷng hy sinh, ư thức
trách nhiệm và ḷng nhân ái của
những y sĩ, y tá, y công ở tuyến
đầu đại dịch.
Trăm năm sau, h́nh ảnh cao đẹp
và bi tráng của các nhà khoa học
và những người ở tuyến đầu dịch
bệnh sẽ được nhắc qua loa trong
sách sử; và người đời sau cũng
sẽ nh́n thấy những con số lây
nhiễm, tử vong, ở nước này nước
kia với một thoáng bi thương,
hoặc hoàn toàn vô tâm vô t́nh.
Người viết sử chỉ khách quan ghi
nhận các sự kiện đă xảy ra trong
quá khứ cho nên sách sử là những
trang giấy khô chết, chứa đựng
dữ liệu, sự kiện. Người đọc sử
có trách nhiệm nghiên cứu và rút
tỉa những bài học từ lịch sử khô
chết ấy để tránh tái diễn những
thảm họa khó thể lường trước ở
tương lai.
Đă khắc ghi bài học lịch sử ấy
rồi th́ tiếp đến, cần nhớ rằng
bài học vỡ ḷng của tiến bộ là
hăy quên đi quá khứ. Bám víu vào
những sai lầm lịch sử sẽ ngăn
cản bước đi của người trí tuệ
hiện tại, ảnh hưởng tiêu cực đến
các thế hệ mai sau.
Nơi trạm xe buưt cuối ngày,
chuyến xe cuối cùng chuẩn bị lăn
bánh. Những người đến trễ và
những người muốn ngủ lại nơi
băng ghế chờ đợi, sẽ bị bỏ lại.
Cơ hội tái diễn cho một chuyến
xe khác, có thể là ngày hôm sau.
Nhưng hôm sau, nào ai đoán được
chuyện ǵ sẽ xảy ra. Người ta
cần phải bước qua, bỏ lại lịch
sử phía sau, bằng không sẽ bị bỏ
lại bên lề lịch sử.
California, ngày 23 tháng 05 năm
2021
Vĩnh Hảo
www.vinhhao.info
______________
(1)
Theo số liệu thống kê từ
Worldometer,
https://www.worldometers.info/coronavirus/
tính đến ngày 23/5/2021, trên
thế giới đă có 167,362,130 ca
lây nhiễm, 148,377,916 trường
hợp được hồi phục, và 3,475,053
trường hợp tử vong v́ COVID-19.
(2)
Theo CDC (Centers for Disease
Control and Prevention – Trung
tâm Kiểm soát và Pḥng ngừa Dịch
bệnh), đại dịch cúm năm 1918 là
đại dịch nghiêm trọng nhất trong
lịch sử gần đây. Nó được gây ra
bởi một loại vi-rút H1N1 với gen
có nguồn gốc từ gia cầm. Mặc dù
không có sự đồng thuận về nguồn
gốc của virus, nhưng nó đă lây
lan trên toàn thế giới trong
giai đoạn 1918-1919. Tại Hoa Kỳ,
nó lần đầu tiên được xác định ở
các quân nhân vào mùa xuân năm
1918. Người ta ước tính rằng
khoảng 500 triệu người hoặc một
phần ba dân số thế giới đă bị
nhiễm vi-rút này. Số người chết
ước tính lên tới ít nhất 50
triệu người trên toàn thế giới
với khoảng 675.000 người xảy ra
ở Hoa Kỳ. (Nguồn:
https://www.cdc.gov/flu/pandemic-resources/1918-pandemic-h1n1.html
)
Theo Wikipedia, đại dịch năm
1918 được ghi vào sử với tên gọi
là Spanish Flu (cúm Tây Ban Nha).
Nhưng kể từ năm 2015, Tổ chức Y
tế Thế giới (WHO – World Health
Organization) đă yêu cầu các nhà
khoa học nên tránh dùng địa danh
hay tên gọi cá biệt của một
chủng loại nào đó để đặt cho một
loại virus hay đại dịch nhằm
tránh sự kỳ thị chủng tộc cũng
như tác hại về kinh tế đối với
địa phương ấy.
(3)
“Tật dịch thế nhi hiện vi dược
thảo, cứu liệu trầm kha; cơ cẩn
thời nhi hóa tác đạo lương, tế
chư bần nổi. Đản hữu lợi ích, vô
bất hưng sùng.”
Đoạn này trích từ bài “Phát
Nguyện Văn” (mà thiền môn Việt
Nam gọi nôm na là Sám Qui
Mạng) của Thiền sư Di Sơn,
đời Đường bên Trung Hoa. Để tỏ
ḷng tôn kính, môn đồ lấy tên
ngọn núi (Di Sơn) để gọi thay v́
gọi thẳng tên là Thiền sư Kiểu
Nhiên. Bài Phát Nguyện Văn này
được đưa vào nghi thức tụng niệm
để tụng đọc vào mỗi thời công
phu sáng tại các chùa miền Trung
và Nam Việt Nam.