Từ nơi cao rộng mới
thấy bao quát toàn cảnh bên dưới.
Nào là núi, nào là rừng. Núi xa th́
màu nhạt đi, núi gần th́ sậm màu đất
đá. Rừng thưa th́ thấy cả những
đường ṃn quanh
co xuyên qua các thảm lá mục và
những tảng đá phong rêu;
rừng sâu th́ chỉ xanh một màu lá.
Trên cao đổ xuống th́ là thác; chảy
về chỗ thấp th́ là suối; tràn khắp
b́nh địa, thung lũng th́ thành sông;
đổ về chỗ tận cùng của bờ cơi th́ là
đại dương.
Không
phải chỉ thấy cái tổng thể của núi
rừng, mà c̣n thấy cả những ngóc
ngách, chi li của những đời sống:
này là mỏm đá nơi sư tử nằm nghiêng
vào sâu giấc ngủ, cũng là nơi vặn
ḿnh, rống tiếng đầu ngày vang động
sơn lâm; này là những cḥm cây mà
bầy khỉ thường tụ tập, chuyền cành,
ăn uống, đùa giỡn inh ỏi; này là các
hang đất, động đá lớn nhỏ cho cọp,
beo, chồn, cáo... có khi lầm lũi
tránh mặt nhau, có khi gầm gừ nhe
nanh giương vuốt; này là chỗ tụ tập
của bầy chó và bầy quạ ồn ào giành
nhau miếng ăn... Thú lớn giành nhau
mồi lớn, thú nhỏ tranh nhau mồi nhỏ.
Loài có cánh và loài không cánh. Cho
đến những loài côn trùng lớn nhỏ,
đâu cũng có nơi có chỗ, có sinh hoạt
trong đời dài-ngắn.
Để nh́n thấu nguyên
nhân và thực trạng khổ đau của cuộc
đời, bậc đại trí đă quán chiếu và
thấu rơ tường tận các điều kiện nhân-duyên
khởi đi từ vô minh, dẫn đến danh-sắc
(1) trong một chuỗi mắt xích liền
lạc nối nhau nhiều đời kiếp; từ đó,
vạch ra phương pháp dứt trừ, giải
thoát khổ đau để đạt đến an vui tịch
tịnh. Con đường của bậc đại trí đă
được
nhiều người khác
noi theo, từ đó h́nh
thành những tập thể Tăng (Sangha).
Trên đường tu chứng, không ai bị bắt
buộc phải theo hay không theo một
tập thể Tăng; nhưng nếu đă gia nhập,
ḥa nhập với một tập thể th́ cần
phải tuân thủ giới luật, nội quy,
điều lệ của tập thể ấy.
Có một tập thể Tăng
bị kiểm soát và điều hướng bởi một
hệ thống đảng quyền. Có một tập thể
Tăng phản đối, từ chối sự kiểm soát
ấy ngay từ đầu. Dù hai tập thể ấy
chủ trương và sinh hoạt khác nhau
như thế nào, vẫn có chung một mục
tiêu là
tự giác, giác tha,
nghĩa là tự tu tập hành tŕ để đạt
đến giải thoát giác ngộ và hướng dẫn
kẻ khác đạt được giải thoát giác ngộ
như ḿnh. Tất nhiên có những chướng
duyên, trở ngại không thể tránh
trong việc tu tập và hoằng pháp đối
với cả hai tập thể Tăng. Nhưng trong
một chừng mức nào đó, từng cá nhân
trong hai tập thể này, có thể nh́n
thấy nhau trong chánh kiến (kiến đạo)
và tương hội với nhau từ những tầng
bậc cao thâm của con đường tu chứng
(tu đạo). Ở những tầng bậc như thế,
không có một thế lực hay khuôn khổ
tổ chức nào từ bên trong hay bên
ngoài tập thể Tăng có thể ngăn trở,
chướng ngại.
Bậc hiền trí có khi
phải lên rừng phát rẫy dựng cḥi
tranh; có khi phải nhập cuộc v́
nguyện vọng chung mà chịu khổ h́nh
tù tội; có khi phải lên núi hoặc
lang thang trên những dặm dài cô
tịch của quê hương; có khi lại phải
xuống núi để dựng lại một tập thể
Tăng đă bị nghiền nát, xóa sạch từ
những nội trùng và ác đảng một thời.
Danh ǵ, lợi ǵ với cuộc thế nhiễu
nhương, với một cḥi tranh xiêu vẹo
chỏng chơ không cả tường vách khi
tuổi đă về chiều, và một cơn bệnh
thập tử nhất sinh? — Chỉ v́ trọng
trách truyền thừa, không thể để mạng
mạch của tập thể Tăng này bị đứt
mất. Nhu cầu
sinh tử của tập thể Tăng này là có
một sự tiếp nối, tương tục tồn tại,
để từ đó mới có thể vực dậy một ngôi
nhà đổ nát; và kỳ vọng một sự hồi
sinh kỳ diệu mai sau. Thiết tưởng
những ai c̣n nhớ nghĩ đến cơ đồ của
Thầy-Tổ để lại, hăy hết ḷng tán trợ
cho sự thừa tiếp này, c̣n không, hăy
im lặng, đừng
vọng động:
không ủng hộ việc chánh-thiện th́
cũng đừng tiếp tay với kẻ ác, ngăn
trở,
hủy hoại con đường
của tiền nhân.
C̣n nhớ nhiều năm
trước, ai
cũng thấy
rơ nội lực của tập thể Tăng này chỉ
c̣n tập trung nơi ba nhân vật trụ
cột có thể ǵn giữ được giềng mối.
Đó là lư do ngoại nhân, ác đảng và
nội trùng quyết tâm phá hoại, chia
rẽ, vu khống, hủy nhục cả ba nhân
vật này suốt một thời gian dài. Rồi
sau bao trầm thống, nguy nan, tủi
nhục, lần lượt nhân vật thứ nhất nằm
xuống, nhân vật thứ nh́ nằm xuống,
ắt sẽ truyền đến nhân vật thứ ba.
Việc truyền thừa có chính danh hay
không, tất nhiên là ở chỗ truyền
trao và tiếp nhận tín vật biểu trưng
của tập thể Tăng ấy; nhưng ngay cả
trường hợp không có tín vật để
truyền trao, sự tín nhiệm và ư
nguyện của số đông cũng đă đặt lên
vai nhân vật thứ ba nầy rồi. Hướng
đi tất yếu của lịch sử phải như thế.
Và đây là trách nhiệm cuối cùng vô
cùng khó khăn của con sư tử già khi
chung quanh có nhiều loài mănh thú
khác cũng chực chờ tranh ngôi, tiêu
diệt; cho đến sói rừng, linh cẩu,
diều hâu, chim quạ… cũng ngấp nghé
thèm thuồng.
Tượng
h́nh mà kể: Đại bàng thả cánh trên
tầng mây cao. Mắt tinh anh, nh́n
khắp đất trời. Việc cần làm th́ làm,
không cần làm th́ bay đi. Có những
việc chỉ có thể thấy từ trên cao.
Chim quạ ở dưới này, biết chi việc ở
mấy tầng mây mà nói!
Cho
nên, việc phục hoạt hồi sinh một tập
thể Tăng đă (gần như) chết, một tổ
chức trống rỗng không c̣n một nhân
sự nào, đ̣i hỏi một bậc trí tuệ cao
viễn, đạo lực thâm sâu, chứ không
phải chỉ trọng nơi áo mũ hay tuổi
đời tuổi đạo; và cũng không thể
trông cậy nơi những người mà tâm
bồ-đề đă thối thất từ lâu.
Làm
sao biết tâm bồ-đề của ai đó đă thối
thất từ lâu? — Hăy cùng đọc lại 4
cách đầu trong 8 cách phát tâm bồ-đề
(2) đă được khuyến đọc từ thuở c̣n
sa-di:
“—
Đời có kẻ tu hành mà chỉ tu hành một
chiều, không cứu xét tự tâm, chỉ lo
những việc ở ngoài, hoặc vụ lợi,
hoặc háo danh, hoặc ham cái thú hiện
tại, hoặc cầu cái vui mai sau: phát
tâm như vậy gọi là Tà;
–
Danh lợi không ham, vui thú không
màng, chỉ v́ thoát sinh tử, v́ chứng
Bồ đề: phát tâm như vậy gọi là
Chánh;
– Ư
niệm này nối tiếp ư niệm khác, ngước
lên mà mong cầu Phật đạo, tư tưởng
trước liên tục tư tưởng sau, nh́n
xuống mà hóa độ chúng sanh, nghe
Phật đạo lâu xa cũng không thoái chí
khiếp sợ, xét chúng sanh khó độ mà
không chán nản mệt mỏi, như trèo núi
cao cả vạn trượng cũng quyết tận
đỉnh, như lên tháp lớn đến chín tầng
cũng cố tột nóc: phát tâm như vậy
gọi là Chân;
– Có
tội không sám hối, có lỗi không trừ
bỏ, trong bẩn ngoài sạch, trước
siêng sau nhác, tâm tốt dẫu có cũng
phần lớn bị danh lợi xen lấn, thiện
pháp dẫu tu cũng phần nhiều bị vọng
nghiệp nhuốm bẩn: phát tâm như vậy
gọi là Ngụy.”
Đọc
lại để tự nghiệm xét, tự lượng, tự
biết nên đặt ḿnh ở vị trí nào trong
nẻo đạo, hay trong một tập thể Tăng,
chứ đừng vội phê phán, bàn căi, đố
kỵ và chấp tranh với những ngôi vị.
Bởi v́, tâm bồ-đề một khi đă bị mờ
nhạt, hoặc quên mất, hoặc bị sai
lệch, th́ tất cả những hành động (dù
là hành vi thiện), lời nói (dù là
nói chánh pháp), cho đến ư nghĩ (dù
là chánh niệm), cũng đều là hành vi
của Ma (3).
Nơi kia
có
một đốm lửa được nhen
nhúm sau những đêm dài u minh thất
tán, hăy cùng tiếp sức để thổi bùng
lên ánh đạo nhiệm mầu, thiêng liêng.
______________
(1)
Danh-sắc
ở đây tức ngũ uẩn hay
ngũ ấm, là năm yếu tố hội tụ, kết
hợp tạo nên đời sống con người.
Danh chỉ cho phần tinh
thần, trừu tượng, chỉ có thể gọi
tên, không thấy được, gồm thọ (cảm
giác), tưởng (nhận thức, phân biệt),
hành (ư chí, khuynh hướng dẫn
nghiệp) và thức (ư thức); c̣n
sắc là phần thể chất.
(2)
Trích từ “Khuyến Phát
Bồ-đề Tâm Văn” - Bài văn khuyên phát
tâm Bồ-đề của Đại Sư Tỉnh Am, do Ḥa
thượng Thích Trí Quang dịch Việt.
(3)
“Vong thất bồ-đề tâm tu chư thiện
pháp danh vi ma nghiệp” (Kinh
Hoa Nghiêm) – Quên mất tâm bồ-đề mà
thực hành các thiện pháp th́ cũng
vẫn là việc làm của Ma.