Mùa xuân là mùa của cỏ
cây khai hoa trổ quả sau những
tháng ngày lạnh căm, buốt giá
với mưa nhiều, sương nặng và
tuyết phủ.
Mùa xuân của mỗi xứ sở có những
ngày tháng nhất định nào đó
trong năm, không nhất thiết các
nơi phải giống nhau. Trên toàn
hành tinh, có khi mùa xuân nơi
này lại là mùa đông nơi kia, và
ngược lại. Cũng có những nơi
không hề có mùa xuân mà chỉ có
hai mùa mưa và nắng, hoặc chỉ có
ngày, hoặc chỉ có đêm trong
nhiều tháng ṛng ră.
Đó là nói mùa xuân của khí hậu
và thời tiết ảnh hưởng bởi không
gian địa lư. C̣n mùa xuân theo
lư tính và cảm tính của con
người, là mùa của sự khai mở,
bừng sống, là sự đổi mới, hồi
sinh và ước vọng.
Xuân đến, xuân đi, xuân lại đến…
Ở phương đông hay phương tây,
khí trời băng giá hay ấm áp,
người ta cũng nô nức, chộn rộn,
chào đón những ngày nghỉ cuối
năm, đầu năm. Nhà giàu, nhà
trung lưu, nhà nghèo, nhà cực
nghèo… đều có dự tính, chuẩn bị
nào đó cho dịp xuân về.
Khi thiên hạ lăng xăng, rộn ràng
với không khí xuân, nhà đạo lẳng
lặng ngồi im, quán niệm:
Có những con người bần cùng,
không nhà, sống tạm trong những
chiếc lều (che bằng những túi
ni-lông cắt ra, hay ráp nối bằng
những thùng cạt-tông), hoặc chỉ
ẩn trú qua ngày dưới gầm cầu, ăn
không đủ no, áo không đủ mặc;
đói lạnh quanh năm, vui ǵ ngày
xuân đến!
Có những con người cùng khổ, khó
khăn, đầu tắt mặt tối lo việc
sinh kế, bán vé số dạo, bán rổ
rau nhỏ với trái bầu trái bí,
không lo nổi cái áo cái quần và
tập vở cho con đi học, xuân về
phỏng có vui chi!
Có những con người tuy có chỗ ở
(nhà thừa kế, hay nhà thuê),
nhưng việc làm không có, chạy
vạy chuyện áo cơm, nợ nần chồng
chất theo năm tháng, vui ǵ
những ngày xuân!
Có những người may mắn, làm ăn
thuận lợi, tiền bạc tài sản khấm
khá, con cái được đi du học với
số tiền to lớn mà không người
dân b́nh thường nào dám nghĩ đến
trong cuộc đời; năm hết tết đến
hẳn là tươi vui, rộn ră cả nhà,
không cần nhớ nghĩ hay chia sẻ
tài lộc đến bất cứ người nghèo
khổ nào, nhưng không quên quà
cáp xa xỉ cho an ninh phường xă,
huyện lỵ, thành phố… ngơ hầu giữ
yên được đời sống êm ấm của ḿnh.
Xuân hết tết đến là cơ hội chính
đáng cho việc tặng quà, mừng
tuổi kẻ chức quyền mà không sợ
bị xầm x́, rỉ tai.
Có những con người sinh ra từ
gia tộc hay đảng tộc, an nhiên
thụ hưởng quyền thế và bổng lộc,
cả đời ăn sung mặc sướng, ngồi ở
ngôi cao (từ làng xă cho đến
thượng tầng) chẳng bao giờ thắc
mắc việc sinh dân sống như thế
nào, tuổi trẻ đến trường ăn học
ra sao…; ḅn rút tiền dưới của
dân đen, dâng nạp lên các tầng
bậc cao hơn; cứ có chức quyền là
nghễu nghện ung dung tiếp nhận
quà xuân quà tết như thể là điều
tất yếu phải vậy!
Có những người được may mắn nhập
cư, hoặc được sinh ra nơi một
đất nước tự do, việc học việc
làm đều tương đối thuận lợi, có
khó khăn trở ngại ǵ th́ cũng có
thân tộc, bạn bè, hay chính phủ
giúp đỡ vượt qua; chăm chỉ học
hành và làm việc với năng khiếu
hay bằng cấp thực học của ḿnh
th́ cuộc sống tất phải ổn định
và thăng tiến; không cần phải
dâng nạp quà cáp cho bất cứ cá
nhân hay cơ quan chính phủ nào
để được an ninh hay an sinh.
Xuân về, chung vui với bà con,
láng giềng, trang trí đèn hoa
rực rỡ, không quên nghĩ đến các
việc thiện cần làm để chia sẻ
với những người kém may mắn hơn,
ở thành phố gần, hay từ đất nước
xa xôi…
Nhà đạo ở phương này hay phương
kia, đêm ngày tiếp khách thập
phương, cầu an cầu siêu, ma chay
tang tế, dọn rác, tưới cây, cắt
cỏ, xây cất chỗ này, tu bổ chỗ
kia… chẳng c̣n thời gian hay cơ
hội nào để dừng lại mà rọi soi
chính ḿnh: cuộc đời tu hành bao
năm, nay đă tiến đến đâu, ở một
tầng bậc hay cảnh giới nào trong
tŕnh tự giải thoát? Xuân về lại
càng bận rộn, đa đoan, trăm việc
trong ngoài tất bật để tạo không
khí hội xuân tưng bừng cho bá
tánh tựu về. Có khi tùy thuận
ḍng cuốn xă hội đến độ đánh mất
cả phẩm cách trang nghiêm của
bậc xuất trần: ḷn cúi, xu nịnh
cửa quyền để giữ được an thân,
hay vinh thân; ngưỡng mộ, tôn
vinh khi hội kiến/chiêm quan các
lănh tụ thế tục c̣n hơn sự tôn
kính dành cho các bậc thầy-tổ,
hiền tăng; xun xoe tiếp đón,
hănh diện bắt tay hay song hành
với kẻ cầm quyền c̣n hơn sự cảm
kích được thân cận với các vị
minh sư. Nghi cách “sa-môn bất
bái quân vương” ngàn xưa (1) sao
lại quên đi để rồi khúm núm, cúi
đầu trước tục nhân cửa quyền!
Rồi ngày tháng lần lữa qua đi,
kinh không đọc, luật không tụng,
thiền không hành, bước chân năm
cũ chừng như lạc giữa mộng đời
hư hao. C̣n biết ǵ xuân trước,
xuân sau hay xuân hiện tiền mà
định tâm quán tưởng!
Cũng có những nhà đạo ở phương
này phương kia, tâm chí đặt ở
nơi cao rộng, đêm ngày cặm cụi
nghiên tầm kinh điển, dịch
thuật, giảng dạy, danh không
màng, lợi không ham, tam thường
bất túc (2), chỉ có niềm pháp
lạc, chỉ có trí tuệ làm lẽ sống
thường nhiên; có hay đâu thời
gian vùn vụt trôi nhanh, kinh
đọc chưa hết, luận dịch chưa
xong, sợ người sau có chỗ không
thấu đạt biết t́m học nơi đâu.
Thấy sinh mệnh nơi đầu chót mũi.
Ngộ vô thường chẳng chờ đợi ai.
Sinh tử đại sự, nghiêm thân tấn
đạo giữa bốn mùa đắp đổi thay
nhau; nên xuân đến xuân đi chỉ
là lẽ thường.
Dù thế nào, xuân về, tết đến,
cũng là cơ hội để ước vọng một
ngày mai tươi sáng hơn, tốt đẹp
hơn thực tế hiện tiền…
Ước vọng mùa xuân, tùy theo tâm
thức và hoàn cảnh riêng, mỗi
người có thể tự chọn cho ḿnh là
nắm bắt, hay buông bỏ. Cách nào
cũng có niềm vui của nó. Nhưng
cách của nhà đạo có lẽ là cách
hay nhất để dọn ḿnh cho một mùa
xuân thường lạc. Đây, hăy đọc
thơ của Phật hoàng Trần Nhân
Tông trên bảy trăm năm trước:
Sơn pḥng mạn hứng kỳ 2
Thị phi niệm trục triêu hoa lạc,
Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn.
Hoa tận vũ t́nh sơn tịch tịch,
Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn.
Mạn hứng ở sơn pḥng kỳ 2
Niềm thị phi rụng theo hoa buổi
sớm,
Ḷng danh lợi lạnh theo trận mưa
đêm.
Hoa rụng hết, mưa đă tạnh, núi
non tịch mịch,
Một tiếng chim kêu, lại cảnh
xuân tàn. (3)
Thiền sư, từng là vua, ẩn tu nơi
một căn thất nhỏ trên non (4).
Đă bỏ bên ngoài tất cả những
danh lợi, thị-phi. Thiền định đă
vào sâu cảnh giới bất động. Nh́n
vô thường đi qua với tâm tĩnh
lặng, không dao động. Đêm qua
mưa lạnh. Sáng nay hoa rơi. Các
giác quan vẫn b́nh thường tiếp
xúc với trần cảnh như xưa nay.
Mưa tạnh, hoa tàn, và một tiếng
chim kêu trên đầu non tịch mịch.
Vạn vật tịnh theo cái tâm đă
định. Và trong cái vắng lặng của
đất trời, biết mùa xuân đă tàn
mà tâm vẫn tự tại an nhiên. Xuân
tàn, tâm không tàn lụy theo; đó
là tâm xuân thường tại.
California, Xuân Quư Măo 2023
Vĩnh Hảo
www.vinhhao.info
______
(1)
“Sa-môn Bất kính Vương giả Luận”
là tập luận gồm 5 chương do
Thiền sư Huệ Viễn (334–416) soạn
viết vào thời Đông Tấn
(316-420), bàn về mục đích và
qui cách tiếp xử của người xuất
gia đối với thế gian, đặc biệt
nhấn mạnh: sa-môn (người xuất
gia) là người thoát ly thế tục,
cầu đạo giải thoát, tâm chí siêu
việt, không thể lễ bái quân
vương, thế quyền. Câu được nhắc
nhiều nhất trong chốn thiền môn
là “sa-môn bất bái quân vương” (sa-môn
không hành lễ, bái lạy vua).
(2)
Ba thứ ăn, mặc và ngủ, đối với
người xuất gia, đều không cần
phải đầy đủ. Ăn không cần ngon,
không cần no; mặc không cần đẹp,
không cần nhiều, chỉ cần đủ che
thân; ngủ không cần đủ giấc, v́
cần nhiều thời gian hơn cho việc
tiến tu đạo nghiệp.
(3)
Bài “Sơn pḥng mạn hứng kỳ nhị”
của vua Trần Nhân Tông
(1258-1308), Đỗ Hỷ dịch. Xem Thơ
Văn Lư Trần, tập II, trang 469,
NXB Khoa học Xă hội, 1988.
山房漫興其二
是非念逐朝花落,
名利心隨夜雨寒。
花盡雨晴山寂寂,
一聲啼鳥又春殘。
(4)
“Sơn pḥng” là căn pḥng nhỏ
trên núi, được hiểu là Ngọa Vân
Am trên non Yên-tử, thuộc tỉnh
Quảng Ninh, Việt Nam.