Soi gương không phải để xem mặt
mũi hôm nay có đẹp hơn mặt mũi
hôm qua, mà soi là soi cái diện
mạo đạo đức, kiến thức, kinh
nghiệm sống ở đời của chính
ḿnh. Hôm nay có tốt đẹp, thiện
mỹ hơn ngày qua hay không.
Soi gương để tự sửa ḿnh. Biết
tự sửa ḿnh th́ mới có thể làm
gương soi cho kẻ khác [1].
Cha mẹ và anh chị lớn cần soi
gương để làm gương soi cho con
em.
Người đi trước cần tự soi gương
trước khi khuyên bảo, dạy dỗ
người đi sau.
Người trí thức thời xưa, lấy
việc đọc sách, trau dồi kiến
thức làm nền tảng cho sự hiểu
biết và cách ứng xử với đời. Một
ngày không đọc, không học, soi
gương thấy ḿnh xấu tệ, nói năng
chẳng ra chi [2].
Người học đạo, hành đạo lại càng
cần phải miên mật soi gương, nội
quán trong từng giờ phút, hay
ngay cả trong từng hơi thở, từng
sát-na. Bởi v́, vô thường, già,
chết, không hẹn cùng ai; sớm
c̣n, tối mất, chỉ trong ṿng một
sát-na là đă qua đời khác [3].
Soi gương thấy ḿnh là ḿnh.
Thấy ḿnh, một thiếu niên, một
thanh niên, một người trung niên
hay lăo niên.
Thiếu niên da
căng mặt trắng, mắt ngây thơ vui
nh́n cuộc đời; thanh niên mạnh
mẽ sung sức, hăng say đạp đổ,
khai phá, t́m kiếm những con
đường tiến về phía trước; trung
niên đội đá vá trời, đâm đầu vào
cửa tử để t́m nẻo sinh, thấy
ḿnh như cứu tinh của cả một dân
tộc triền miên thống khổ; lăo
niên da mồi tóc trắng, dừng lại
những thị-phi thế sự, ôn chuyện
xưa cười nhẹ một thời phiêu lưu,
nông nổi.
Soi gương, vẫn
thấy ḿnh là ḿnh, nhưng thực sự
bóng kia, h́nh này rất khác,
dường như không phải ḿnh. Năm
trước, năm sau, h́nh hài đă đổi.
T́nh cảm, ư chí cũng đă đổi thay
hoặc giảm đi cường độ. Có một
cái tôi nào đó liên tục tồn tại
trong sự biến dịch của không
gian và thời gian, nên từ thiếu
niên đến lăo niên, vẫn được nhận
dạng là một kẻ ấy, tên ấy. Cái
tôi có đó, nhưng kỳ thực là
không thực có. Một hiện hữu được
xác lập bởi nhiều yếu tố nhân
duyên, mà mỗi nhân/duyên đều
không có bản chất cố định. Một
hiện hữu không có tự tánh. Một
hiện hữu như ảo ảnh, ảo tượng,
ảo mộng. Chỉ là vay mượn một tên
gọi để mặc định có một cái tôi
nhất quán, thường tại. Tên th́
vay mượn, h́nh thể và tâm ư th́
bất định
vô thường,
cái tôi ấy chẳng phải là tôi
[4].
Cái tôi ấy là không, là
giả (danh), là trung
(đạo) [5].
Soi vào trong.
Soi nơi ư căn, soi nơi những ảnh
tượng nhảy múa lung linh. Soi
nơi những bóng sắc chập chờn ảnh
hiện theo từng ư niệm. Soi
đến chỗ nhỏ nhiệm
tận cùng cực vi của không gian.
Soi đến chỗ tận cùng sát-na
không thể chia chẻ của thời
gian.
Nơi ấy, chẳng
ǵ chân, chẳng ǵ vọng,
chẳng ǵ thiện, chẳng ǵ ác.
Chỉ là sự tŕnh
hiện hiển nhiên, trong suốt của
bản tâm.
Nơi
ấy không có quá
khứ, hiện tại, vị lai. Không có
thiếu niên, trung niên, lăo
niên. Không có sắc, thọ, tưởng,
hành, thức. Không có sinh, già,
bệnh, chết. Không có Không.
Không có Giả. Không có Trung.
Không có tam đế, tứ đế. Không có
năng quán, sở quán. Như như bất
động. Maha Prajna Paramita! [6]
___________________
(1) “Nếu
muốn khuyên người khác nên làm
như ḿnh, trước hăy sửa ḿnh rồi
sau sửa người. Tự sửa ḿnh vốn
là điều khó nhất.”
(Kinh Pháp Cú, phẩm Tự Ngă, câu 159).
(2) Nguyên
văn câu này của Hoàng Đ́nh Kiên
(1045 – 1105) thời Bắc Tống:
"Sĩ đại phu tam nhật bất độc thư,
đối kính giáo diện mục khả tắng,
hướng nhân diệc ngữ ngôn vô vị"
– Nghĩa là, bậc
sĩ phu mà ba ngày không đọc sách
th́ soi gương thấy
mặt mũi đáng ghét, nói chuyện
lời lẽ nhạt nhẽo.
(Theo Thivien.net)
(3) “Vô
thường lăo bệnh, bất dữ nhân kỳ.
Triêu tồn tịch vong, sát-na dị
thế”
(Cảnh Sách Văn của Thiền sư Qui
Sơn).
(4) Tam
quán: Không, Giả, Trung, theo Từ
Điển Phật Học Online: “Chỉ
cho Tam đế tam quán do tông
Thiên Thai lập ra. Lư thể của
các pháp xưa nay vốn vắng lặng;
gọi là Không; các pháp do nhân
duyên sinh, gọi là Giả; lư thể
tuyệt đối, chẳng phải
Không
chẳng phải
Giả,
gọi là Trung.... Không để phá
tất cả pháp, Giả để lập tất cả
pháp, Trung để đạt lư vi diệu
của tất cả pháp.”
Tông Thiên Thai do Đại sư Trí
Khải (538-597) lập. Ba chân lư
(tam đế) này dựa nơi bài kệ tụng
thứ 18, phẩm 24 của Trung Quán
Luận mà lập cước, do vậy Đại sư
Trí Khải đă vọng bái Bồ-tát Long
Thọ làm Sơ tổ. Bài kệ tụng như
sau:
“Nhân duyên sở sanh pháp,
Ngă thuyết tức
thị
Không
Diệc danh vi Giả danh
Diệc thị Trung đạo
nghĩa.”
(Pháp do nhân
duyên sanh
Ta nói tức là
Không
Cũng gọi là
Giả danh,
Cũng là nghĩa
Trung đạo.”
(5) Nguyên
đoạn này diễn ư từ
Ma-ha Bát-nhă Ba-la-mật-đa Tâm Kinh (Maha
Prajna Paramita Heart Sutra).