Danh
vọng nương nơi cái tôi mà tồn tại.
Không có cái tôi, danh vọng không
hiện hữu.
Danh
vọng cũng cần được biểu hiện qua âm
thanh, ngôn ngữ, văn tự. Không có sự
diễn đạt bằng âm thanh ngôn ngữ,
danh vọng cũng không hiện hữu.
Một
ḿnh tịch lặng, quán niệm sâu xa về
tự ngă, và bản chất của âm thanh
ngôn ngữ th́ chẳng thấy ǵ gọi là
danh vọng, danh vị. Danh vọng như
mộng huyễn, như quáng nắng, như thủy
triều. Tâm đă định tĩnh th́ không có
mưa nắng hay thủy triều nào làm chao
đảo, lo sợ (1). Khổ nỗi, một khi
danh vọng được theo đuổi như là mục
tiêu của cuộc sống thường tục, nó
đeo bám và gắn chặt vào tận tâm can,
vào tận những ngóc ngách kín đáo
nhất của tầng đáy ư thức, tầng đáy
vô thức, khiến cho khi tỉnh khi mê,
khi thức khi ngủ, đều nhắm về một
hướng: làm thế nào để danh càng lúc
càng lớn hơn, cao hơn, cho đến tột
đỉnh.
Nhưng
ḷng tham hay khát vọng của con
người không bao giờ có đáy, và không
bao giờ có giới hạn của đỉnh cao.
Cảm giác vui sướng (hay khổ đau) là
vô thường, bất định; do vậy, một khi
được thỏa măn, nó luôn có khuynh
hướng t́m đến sự hưởng thụ cao hơn,
mạnh hơn. Từ đây, ngay nơi chỗ được
cho là tột đỉnh của danh vọng chức
vị, nhà đạo nhất thiết cần phải quay
về, tự hỏi, đâu là mục tiêu tối hậu
của con đường giải thoát giác ngộ.
Không
thể để cho đời ḿnh trôi qua một
cách vô bổ, vô ích với những hưởng
thụ tầm thường dung tục của tài sản,
sắc đẹp, danh vọng, ăn uống và ngủ
nghỉ (2).
Soi
chiếu lại tự thân với lời cảnh giác
từng được dạy dỗ và tụng đọc hàng
ngày, may ra có thể quay về trước
khi quá trễ: “Cập kỳ đến lúc tuổi
đời đă cao, tuổi hạ cũng lớn, nhưng
bụng th́ rỗng, ḷng lại cao, bởi vốn
không chịu thân cận thiện hữu nên
chỉ biết xấc láo ngạo ngược, chưa
hiểu thành thuộc giáo pháp và giới
luật nên sự tự chế ngự hoàn toàn
không có...” (3)
Soi
chiếu lại tự thân để thấy rằng bụng
không rỗng (v́ đă từng tu học Phật
Pháp nhiều năm), ḷng không cao (v́
đă từng tự hạ làm khất sĩ, từng xem
danh lợi như đôi dép bỏ), không xấc
láo ngạo ngược (v́ từng được phước
duyên thọ pháp với những bậc cao đức
và gần gũi các bạn lành); vậy th́
chỉ cần dừng lại, tinh tấn, không
buông lung (4), để tập trung toàn bộ
sinh mệnh, thân và tâm của ḿnh,
tiếp tục hướng về mục tiêu sau cùng
của bậc xuất trần thượng sĩ.
Bao
năm giải đăi thả trôi tâm ư cuốn
theo những danh-sắc huyễn vọng, chí
nguyện ban đầu đă vuột xa, mục tiêu
tối hậu cũng mờ khuất. Giờ này, khi
quỷ vô thường lăm le xuất hiện, mạng
sống không thể kéo dài, mà thời gian
cũng không chờ đợi (5), tất phải cấp
thời dũng mănh đưa ra quyết định
tử-sinh cho sự nghiệp hành đạo của
ḿnh: buông xả tất cả để qui hướng
mục tiêu giải thoát.
Buông
xả chứ không phải buông thả. Buông
xả chứ không phải buông lung.
Không
buông lung, không phóng túng, không
buông thả tâm ư chạy rông bất định.
Tinh tấn, không buông lung, là nền
tảng vững chắc cho mọi mục tiêu, mọi
thành tựu. Hành giả không thể không
có mục tiêu, và không thể không nỗ
lực để đạt đến mục tiêu ấy.
Sự
nghiệp của người con Phật không phải
tài sản, đất đai, tự viện; không
phải giới phẩm, danh vị, chức vụ; mà
chính là sự nghiệp trí tuệ, sự
nghiệp Phật Pháp.
Gia
tài của Đức Phật để lại sở dĩ được
giữ ǵn và tiếp tục phát triển đến
ngày hôm nay và nhiều thế kỷ sau, là
nhờ sự tinh tấn thực hành và truyền
bá giáo pháp của nhiều thế hệ tăng
lữ suốt gần ba thiên kỷ qua. Thừa kế
di sản của Đức Phật, hành giả chỉ
thừa kế Chánh Pháp, không có sự thừa
kế tài vật hay danh vị nào khác (6).
_______________
(1)
“Bằng sự cố gắng,
hăng hái, không buông lung, tự khắc
chế lấy ḿnh, kẻ trí tự tạo cho ḿnh
ḥn đảo chẳng c̣n ngọn thủy triều
nào nhận ch́m được.”
(Kinh Pháp Cú, câu 25; HT Thích
Thiện Siêu dịch). Thủy triều
ở đây được Ḥa thượng chú thích là
“Các phiền
năo tham, sân, si buộc ràng và sai
sử chúng sanh trong ṿng ba cơi.”
(2)
Tài, sắc, danh, thực,
thụy,
thuật ngữ Phật giáo gọi chung là
ngũ dục – năm thứ dục lạc ở đời
mà con người tham đắm, hưởng thụ.
(3)
Văn Cảnh Sách của
Thiền sư Linh Hựu (771 – 853) ở Qui
Sơn, thời Văn Đường Trung Hoa, trích
đoạn: “Cập chí niên cao lạp
trưởng, không phúc cao tâm, bất
khẳng thân phụ lương bằng, duy tri
cứ ngạo, vị am pháp luật, tập liễm
toàn vô...” (HT Thích Trí Quang
dịch)
(4)
Kinh
Pháp Cú
(Dhammapada)
dành nguyên một phẩm tên gọi là Tinh
Cần hoặc Không Buông Lung (Appamāda-Vagga)
từ câu
21-32
để nói về hạnh tinh tấn. Ở đây dùng
nguyên tựa “Không Buông Lung” từ bản
dịch của HT. Thích Thiện Siêu.
(5)
Mượn ư và lời từ đoạn
Văn Cảnh Sách dẫn thượng:
“Vô thường sát quỷ
niệm niệm bất đ́nh, mạng bất khả
diên, thời bất khả đăi.”
(6)
“Này
các Tỷ-kheo, hăy là người thừa tự
Pháp của Ta, đừng là những người
thừa tự tài vật.”
(Trung Bộ Kinh, Kinh Thừa Tự
Pháp, HT. Thích Minh Châu dịch)