Ngày
tàn xuân thuở xưa ấy, cách nay
đă 50 năm. Một cuộc đổi mới dẫn
đến loạn lạc xă hội, ly tán gia
đ́nh. Máu tiếp tục đổ sau chiến
tranh. Lệ nóng trào tuôn, ḥa
thêm vị mặn trên đại dương thống
khổ. Hàng trăm ngh́n gia đ́nh bị
đẩy lên những vùng ma thiêng
nước độc để canh tác mưu sinh
lập đời mới. Hàng trăm ngh́n sĩ
quan, công chức chế độ cũ bị
biệt giam hoặc bị cưỡng bức lao
động khổ sai trong những trại tù
biên địa. Và, từng đoàn người
già trẻ dắt díu nhau băng rừng
vượt biên, xuống thuyền vượt
biển, t́m đến những vùng trời tự
do. Lên rừng, xuống biển, có vẻ
như lặp lại huyền sử mấy ngàn
năm của tộc Việt (1). Nhưng cuộc
chia tay trong lịch sử cận đại
không chỉ có năm mươi con lên
núi, năm mươi con xuống biển, mà
là cả triệu con dân, hớt hăi t́m
đường sống, âm thầm trong đêm,
mẹ cha câm nín, con trẻ nén
khóc, rón rén những bước chân
hồi hộp, run sợ. Nỗi đau thương
thống hận ngập tràn của ngần ấy
con người, ngần ấy gia đ́nh,
không hề được ghi vào sử sách
giáo khoa, mà chỉ được ngậm ngùi
khơi dậy trong tâm khảm những
người tị nạn năm xưa, đă là
những cổ nhân hữu danh vô danh,
hay đang là những người lăo niên
lặng lẽ đời ḿnh ở những vùng
trời phương ngoại.
Nghiệm lại chuyện xưa không phải
để than trách hay khơi dậy oán
hận. Cuộc sống của cá nhân, hay
một cộng đồng nhỏ, cộng đồng
lớn, đều diễn ra trong những
điều kiện nhân duyên, thuận và
nghịch. Thuận, có khi đưa ta đi
lên rồi lại đi xuống; nghịch, có
khi đưa ta đi xuống rồi lại đi
lên.
Trong số hàng triệu người Việt
rời nước ra đi từ thuở ấy, có
những thầy Tăng áo vải nâu sồng
tháp tùng trên những thuyền nan
ọp ẹp; quán sinh tử vô thường
trên chập chùng sóng cả, ban vô
úy cho những người đồng hành yếu
đuối; vượt trùng dương băo tố
đến bờ an vui; ḥa vào cuộc sống
mới, cặm cụi “vá áo chép kinh
đất khách” (2); mười năm,
hai mươi năm, rồi năm mươi năm,
dựng nên hàng trăm ngôi chùa
Việt khắp bốn châu. Việc dựng
xây cơ sở vật chất không phải là
kỳ tích ǵ đáng kể, nhưng giữ
được tín tâm cho bốn chúng đệ
tử, duy tŕ được mạng mạch của
Phật Pháp nơi xứ người suốt nửa
thế kỷ qua không phải là điều
đơn giản. Trong suốt cuộc hành
tŕnh năm mươi năm đó, đă nhiều
thầy Tăng bỏ ḿnh trong rừng già
hay trên biển lớn, nhiều thầy
Tăng hoàn tục chọn đời sống tại
gia, và nhiều thầy Tăng nằm
xuống sau những đóng góp kiên
tŕ, bền bĩ cho sự vinh quang
của đạo pháp.
Giờ này ngồi ôn lại con đường đă
kinh qua của cộng đồng ly hương,
những bi lụy một thời đă tàn
phai theo năm tháng, chỉ c̣n một
nỗi niềm tồn đọng, đó là niềm
tin về sự chánh thiện.
Chỉ có sự chánh thiện mới mang
lại an vui thực sự cho cuộc
sống.
Chỉ có sự chánh thiện mới duy
tŕ và phát triển được đạo mầu
trên thế gian này.
50 năm là quăng thời gian khá
dài, nhưng cũng chỉ là một chớp
mắt trong chuỗi dài sinh tử, tử
sinh bao kiếp luân hồi. Trong
chớp mắt ấy, hăy sống như một
người con Phật chánh thiện, hiền
trí.
___________
(1) Mượn
ư của Thầy Tuệ Sỹ trong bài
“Thuyền Ngược Bến Không” giới
thiệu thi tập “Thủy Mộ Quan,”
của nhà thơ Viên Linh (1938 –
2024):
“Thời chiến tranh, một lớp bạn
lên rừng. Thời ḥa b́nh, một lớp
bạn xuống biển. Dân tộc chợt
quay trở lại với huyền thoại mở
nước. Những người con theo Mẹ,
đă có lúc khinh ghét anh em
ḿnh, bỏ lên rừng. Một thời gian
sau, những người con theo Mẹ lên
rừng nay quay trở về đô thị. Lại
những người anh em khác sợ hăi,
vội bỏ trốn theo, t́m về
biển...”
(2) Câu
đối của Thầy Tuệ Sỹ viết tặng Tu
viện Quảng Đức, Úc Đại Lợi (cả
chữ Hán lẫn chữ Việt): “Quảng
mạc thiên hoang cố lư, nhi phế
hưng cạnh tẩu kinh đào, phiến
diệp phù nang, quải nạp đằng la
thử ngạn. | Đức hành thế
khoát tham phương, tỉ triêu lộ
hàm huy diệu cảnh, không hoa
thủy nguyệt, huyền hà bích lạc
thần châu.”
Dịch nghĩa: “Chốn cũ dặm dài man
mác, bởi phế hưng xô dậy sóng
cồn, chiếc lá thuyền nan, vá áo
chép kinh đất khách | Đức tu mấy
bước mù xa, tợ sương sớm nắng
hồng đọng bóng, hoa trời trăng
nước, ngân hà dằng dặc quê cha.”
“Vá áo chép kinh”
ở đây có thể được hiểu là việc
tŕ giới và hoằng pháp.