horizontal rule

 

 

VÀI CẢM NGHĨ VỀ "TÍN NGHĨA THI TẬP"

 (Tín Nghĩa Thi Tập được in chung trong Trúc Lâm Thiền Phái Thi Tập do Thích Tín Nghĩa sáng tác và sưu tập)

 

 

Bàn về thơ, không phải chuyện dễ. Bàn về thơ đạo lại càng khó bội phần. Vậy mà không thể không bàn nói một chút về tập thơ này.

Tín Nghĩa Thi Tập gồm khoảng 80 bài thơ do một nhà tu Phật giáo sáng tác. Tập thơ gom góp bề dày thời gian 20 năm sinh sống và hành đạo của tác giả nơi xứ người, với bao hoài vọng, hồi ức, kỷ niệm, ước vọng, hoài băo... và trên hết, nỗi tha thiết muốn đóng góp chút ǵ đó cho dân tộc và đạo pháp trong giai đoạn nhiễu nhương, thống khổ của quê hương.

Người đọc có thể t́m thấy nơi đây tâm t́nh của một nhà tu chay tịnh nơi cửa Thiền, những nỗi niềm thật gần gũi, mật thiết với đời sống, qua những bài nói về thế thái nhân t́nh, ḷng hoài vọng cố hương, hoặc tư duy về vận nước:

 

"Mai cười đùa gió lạnh

Đào nở đón xuân về

Tin xuân đưa tới niềm hy vọng

Trông ngóng trời xa đượm t́nh quê"

(Báo Tin)

 

"Ḷng xao xuyến thu vàng đổ lá

Xa quê hương mấy độ thu về

Thu về ḷng những nhớ quê

Ơn thầy, t́nh bạn năo nề vắng xa..."

(Cảm Niệm Vu Lan)

 

"Một phần nào nghĩ suốt thâu canh

Ngồi đứng, vào ra vẫn một ḿnh

Nhớ nước đau ḷng thân sầu thảm

Thương nhà xót ruột dạ buồn tênh..."

(Cảm Thán)

 

Nhưng đồng thời bạn đọc cũng sẽ nhận ra, qua hầu hết những bài thơ khác, niềm tin mănh liệt vào sự vi diệu của Phật Pháp được tỏa sáng trong từng chữ, từng lời, từng đoạn thơ của tác giả:

 

"Thậm thâm vi diệu pháp

Là lục tự Di Đà

Chí tâm vô biệt niệm

Thẳng đến cửu liên hoa..."

(Chú Ư)

 

"Khổ càng tu học, khổ mới tiêu

Nếu khổ không tu, khổ càng nhiều

Nghiệp chướng vương mang thêm sầu lụy

Oan khiên trừ diệt hết đăm chiêu..."

(Dứt Khổ)

 

Xuất gia từ thuở bé, với gần nửa thế kỷ tụng đọc và thâm nhập kinh điển cũng như các thiền kệ của nhà thiền, tác giả đă sáng tác thơ trong một phong thái và tâm cảnh rất tự nhiên, dễ dàng, không gượng ép. Cảm nhận một điều ǵ, liền ghi xuống, theo vần điệu nhập tâm quen thuộc, vậy là thành thơ. Hơi thơ đi nhẹ với chút cẩn trọng như của một thiền gia nắm giữ hơi thở trong chánh niệm. Lời thơ giản dị, trong sáng, không cố ư dùng nhiều điển tích hoặc từ ngữ khúc mắc, cầu kỳ. Cấu trúc thơ vẫn giữ nguyên vẻ cổ điển, không cố t́nh phá thể hoặc cách tân như nhiều nhà thơ hiện đại khác, mà lại nhịp nhàng một cách khéo léo trong khuôn khổ.

Có thể nói, tác giả chú trọng chuyên chở ư đạo, biểu đạt tư tưởng, hơn là dấn ḿnh trọn vẹn vào thế giới của ngôn ngữ và thi ca. Nhưng cũng nhờ sự thâm sâu, tha thiết trong thệ nguyện và sự hành tŕ tu tập, ngôn ngữ đạo nở hoa. Và sự thành công của tác giả về mặt văn chương, chính là ở điểm này.

Bàng bạc trong mấy chục bài thơ là chân t́nh của một người tu, yêu đạo, thương đời, luôn ưu tư đến khổ nạn của người khác, cảm thông và chia xẻ với mọi người về kinh nghiệm sống cũng như kinh nghiệm tu tập. Với kiến giải minh bạch và niềm tin kiên cố nơi Chánh Pháp, tác giả, như một hậu duệ chí hiếu, thừa tự di sản quư báu của Thầy Tổ, thắp sáng ngọn đuốc của từ bi và giác ngộ qua ngôn ngữ thơ của thời đại. Và đây lại cũng là mặt thành công khác của tác giả.

Đối với văn chương cũng như đối với tông môn, tác giả không đảm nhận vai tṛ của một người khai phá, mở đường, t́m cầu cái mới; mà âm thầm tự khiêm, chọn lấy sứ mệnh của một kẻ bảo tŕ, ǵn giữ giềng mối cao đẹp cổ kính của tiền nhân. Cái đẹp của thi phong và tuệ học ở đây, vô t́nh lại tỏa ngát hương vị thâm trầm dài lâu của Chân, Thiện, Mỹ.

Xin cám ơn tác giả và xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.

 

California, ngày 12 tháng 4 năm 2003.

Vĩnh Hảo

 

 

horizontal rule

 

TRỞ LẠI TRANG GIỚI THIỆU SÁCH BÁO