CHUYỆN PHIẾN ĐÁ ĐỀ THI
 

Tâm Tấn

 

 

Mùa đông gió băo năm 1973, Ôn về Phật học viện Hải Đức, trong hai  tuần lễ làm Phật sự. Mấy lần lên hầu thăm Ôn, đều thấy Ôn bận chỉ vẽ cho mấy Thầy xây Non Bể Bản Đồ Việt Nam, tôi cũng giúp mấy Thầy t́m mua cho ra những ngôi chùa, cái tháp, cái cầu, tượng Phật, ông câu, voi, rùa, thỏ v.v... bằng chất gốm, men, để gắn vào các khe, cây, mới tạo giả cảnh. Mới trông vào, tôi cũng nghĩ Ôn tạo cảnh vui mắt để tăng vẻ nên thơ cho thiền thất. Khi đă tạm hoàn thành non bộ chử S, hội đủ h́nh ảnh chùa, miếu tượng trưng cho 3 miền. Một chiều, Ôn ngồi dùng trà ngoài hiên. Cầm tách trà nhấp một hớp, mắt nh́n non bộ âu yếm, rồi trầm tư: "Mong cho Bắc Nam ḥa hợp, cho đất nước khỏi nạn tai, đồng bào an lạc. Thương quá! Đất mẹ quá khổ, cằn khô v́ chiến cuộc kéo dài. Xây bản đồ ni là để nguyện cầu ḥa b́nh cho đất Mẹ..”

 

Tôi lặng nghe giọng Ôn nói mà tưởng như tiếng thở dài của núi sông. Và tức khắc cảm ứng được tâm niệm chí thành của Ôn với việc xây non bộ.

 

Trước ngày vào lại Già Lam, Ôn chỉ vào một góc nơi non bộ, bảo tôi:

 

"Chỗ ni mà dựng một phiến đá, kẽ lên một bài thơ vịnh bản đồ Việt Nam th́ hay lắm đây! Tâm Tấn làm đi."

 

"Bạch Ôn, bài thơ vịnh đó phải là bài thơ của Ôn sáng tác".

 

Ôn cười:

 

“Ờ, để tôi nghĩ coi, có nhiều ư mà chưa thành vần. Tôi sẽ gởi ra".

 

Mấy tuần sau Thượng tọa Đổng Minh vào Già Lam đem về bài thơ của Ôn, trao cho tôi. Ngoài b́ thư, Ôn viết: "Tâm Tấn xem xong rồi giao cho Phước Đường và Minh Thông." Giao, tức là giao cho hai thầy cái việc t́m đá gắn vào non bộ, và viết bài thơ lên đá đó. Tôi t́m hai thầy trao bài thơ và nói qua tâm niệm cùng nhắc lại ư muốn của Ôn. Mười ngày sau lên thiền thất, đưa mắt qua non bộ, vẫn chưa thấy mô đá hiện bài thơ, hay là thơ đề trên đá! T́m hỏi, hai thầy cười hỏi lại:

 

“Đá đâu mà thơ! Bà giỏi t́m đá đem lên.”

 

Tôi cũng cười, nhưng không hứa lời chi. Lặng lẽ bước chậm qua đường đồi, nghĩ việc thực hiện phiến đá đề thi, coi dễ mà khó, nhưng khó mà dễ nếu ḿnh bỏ công... Ừ, gắng dâng Ôn chút niềm vui nhỏ: Khi về thăm viện, nh́n bản đồ, Ôn sẽ hoan hỷ v́ những trang ḷng của Ôn đă trải kề bên. Tôi đón xe lam ra Đồng Đế, bảo ngừng xe lại chỗ núi, nơi có thợ chẻ đá. Từ đường quốc lộ vào chỗ thợ chẻ đá rất xa mà khó đi. Ngồi gần một giờ, chờ thợ chuốt viên đá lớn cho nhẵn, lại ra đường đón xe ba gát, v́ xích lô nơi khoảng đường ấy không có. Trả tiền thuê xe, c̣n trả tiền công họ khiêng đá từ trong núi ra đường, bỏ vào xe, tôi leo lên ngồi chung xe với cục đá, đó là lần đầu tiên tôi ngồi xe ba gát! Tưởng tượng cục đá vô tri này, nay mai được nổi lên bài thơ của Ôn Ḥa thượng được ẩn bên vườn cảnh khung thiền, tôi quên nghĩ đó là cục đá, mà lại nh́n nó với vẻ quí trọng. Đây là Phiến đá đề thi. Xe chở thẳng về viện, tôi giao thầy Minh Thông và yêu câu thầy Hạnh Thông, người viết chữ đẹp, dùng sơn viết bài thơ. Tôi kể chuyện ngồi xe ba gát với cục đá, và nói đùa: Thấy tài đảo hải di sơn chưa! Đem núi Đồng Đế về Hải Đức đó. Mấy thầy cười quá.

 

Chuyến sau, Ôn về Hải Đức. Lên hầu thăm Ôn, Ôn cũng đem khay trà ra ngồi bên hiên, ban cho một tách trà thơm, Ôn hỏi:

 

"Nghe mấy thầy nói Tâm Tấn ra tận Đồng Đế khiêng đá về?"

 

"Dạ, con mô có khiêng nổi! Một cục đá nớ mà vận dụng cả xe ba gác, thưa Ôn."

 

Ôn cười:

 

"Rứa đá trong tâm chở bằng xe chi?"

 

Tôi giật ḿnh nh́n lên, thấy Ôn cười và đang chờ câu trả lời. Tôi cũng cười thưa:

 

"Bạch Ôn đá trong tâm th́ xe mô chở nổi! Uống vài liều thuốc đắng sẽ tự tiêu."

 

Ôn lại hỏi:

 

"Rứa có gặp phải thuốc đắng, cố mà nuốt đừng than chớ?"

 

"Dạ, con không than!"

 

Kính lạy Giác linh Ôn, bao nhiêu chất đắng con đă uống qua, nhưng có lẽ chưa cạn tận cùng chiếc cốc nghiệp quả, cho nên đá trong tâm vẫn chưa được tiêu tan. Tuy nhiên, mỗi khi gắng nuốt những đắng cay giữa cuộc thế, con nhớ lời Ôn dặn, dạ, con không than... ...

 

Đôi lần, muốn t́m phút giờ yên tĩnh, khi về Viện Hải Đức thường lên Tịnh thất, bước quanh non bộ rồi dừng lặng nơi hiên, chỗ Ôn ngồi uống trà. Nhớ lời Ôn, 15 năm qua rồi, mà như mới đâu đây! Phiến đá đề thi rêu xanh nhuộm sắc thời gian, cánh chiếc én bơi bổng giữa ḷng sông, trong không hoạt họa, ư thơ xưa c̣n đẹp một khung trời.

 

 

------------------

 

 

Đây là bài thơ của HT. Thích Trí Thủ được khắc lên phiến đá bên ḥn non bộ.

 

CẢM ĐỀ NON BỘ BẢN ĐỒ VIỆT NAM

(tại Thiền thất P.H.V. Nha Trang) 

 

Dấn thân mây hạc giang hồ

Chạnh ḷng quê mẹ dư đồ Việt Nam.

Này thắng tích nọ danh lam,

Máu xương trang trải ai làm nên khung.

Đúc vun khí tiết hào hùng,

Hai vai gánh nặng Quang Trung - Nguyễn Hoàng.

Trường Sơn một dăy hiên ngang,

Càng nh́n càng ngắm muôn vàn thân yêu.
 
 

Non sông gấm vóc mỹ miều,

Ngàn năm văn hiến nhiễu điều giá gương.

Dù cho Nam Bắc đôi đường; 

Đốt ḷ hương nguyện bốn phương một nhà,

Sớm hôm hướng nẻo Phật đà,

"Sắc, Không" tâm sự đường xa nỗi gần.

Mong sao giữ vẹn mười phần

Thanh cao dáng núi, trong ngần vẻ sông.

Gấm vóc gương nước tinh thần,

Đạo vàng dân tộc chiếu hồng muôn xuân.

 

 

 


Trở về trang chính

Trở về trang Văn Học Phật Giáo