NGỦ DƯỚI GỐC CÂY

 

Huệ Trân

 

 

Xưa, Đức Thế Tôn dạy các đệ tử: “Chớ ngủ hai đêm, dưới cùng một gốc cây”.

Lời dạy, thoạt nghe có vẻ ngộ nghĩnh, gần như chẳng quan trọng ǵ, nhưng khi được Thầy chỉ rơ hơn, đệ tử mới biết rằng, một lời, dù đơn sơ, từ kim khẩu Đức Thế Tôn, đều là một bài pháp.

Thuở đó, tăng đoàn thường ba Y, một Bát, từng bước chân trần hoằng hóa đó đây, đêm nghỉ trong rừng, t́m gốc cây êm mát, gối đầu mà ngủ. Nếu ít lâu sau, t́nh cờ lại đi ngang khu rừng ấy mà khởi tâm nhớ gốc cây đă ngủ đêm nào, là vô t́nh vướng mắc ái nhiễm! Một gốc cây ngủ qua đêm c̣n luyến nhớ, th́ lưới t́nh chằng chịt nhân gian làm sao ra khỏi!

Lời cảnh giác thật đơn giản, mà mănh liệt.

Nhưng, phàm được làm người, ai chẳng từ t́nh mà sanh! Khởi từ t́nh cha, t́nh mẹ, rồi t́nh anh chị em, t́nh con cháu, t́nh thân bằng quyến thuộc. Nợ nần nhau th́ lại kết thành t́nh bạn bè, t́nh chồng vợ, để vay trả, để buộc ràng. Cái lưới ái vô h́nh mà lồng lộng, bền bỉ, hết kiếp này sang kiếp khác. Đức Thế Tôn cũng thị hiện ta-bà trong lưới ái này. Chỉ khác, Ngài sớm nh́n ra những mắt lưới, những tên cai ngục do chính chúng ta tạo ra để tự nhốt ḿnh trong luân hồi lục đạo. Có nh́n ra, mới dũng mănh buông xả, để thăng hoa.

Bỏ hoàng gia, rời cung vàng điện ngọc có phải cũng là khắc phục sự đắm nhiễm một gốc cây êm mát quen thuộc không? Bước chân dừng dưới cây nào, ta sẽ ngủ dưới gốc cây ấy. Nếu nơi nào cũng chỉ là giấc ngủ qua đêm, giấc ngủ đó sẽ không mộng mị, nơi dừng đó sẽ không bận ḷng.

Nhưng xả bỏ như thế có phụ t́nh những ngnời thân liên hệ với ta, và làm họ đau khổ hay không?

Nh́n chặng đường Phật đi th́ chúng ta thấy phần nào, có và không. Hoàng gia rất đau khổ v́ sự ra đi của Thái tử Tất Đạt Đa, nhưng sự đau khổ đó chỉ ngắn hạn. Sự đau khổ đó đă chấm dứt, để tiếp nối bằng hạnh phúc vô bờ khi toàn thể dân chúng thành Ca Tỳ La Vệ cùng hoàng gia, nao nức đón tăng đoàn, mà người ôm b́nh bát đi đầu chính là vị Thái Tử năm xưa. Ngài đă t́m ra Đạo Cả, đă ban vui cứu khổ bao người, nay trở về chốn cũ bằng bước chân của Bậc Giác Ngộ, độ cho thân thuộc và dân chúng.

Sự trở về quê hương của Đức Phật cũng chỉ là bước dừng trên đường hoằng hóa, và đêm ngủ trong cung vàng cũng chỉ là ngủ dưới một gốc cây. Bởi tâm không hề vướng mắc nên sau chặng dừng đó, Ngài lại thanh thản hướng dẫn tăng đoàn lên đường, lại đi như ḍng sông, để mỗi bước chân qua, đều để lại phù sa mầu mỡ, làm vạn hữu đơm hoa kết trái.

Ngẫm mà sợ thay!

Phàm phu chúng ta chẳng phải chỉ đắm nhiễm một nơi chốn mà c̣n dễ  vương vấn từ lời nói đến nụ cười, từ đóa hoa vườn nào, đến chiếc lá mùa rơi… Tâm đối cảnh, lập tức sanh t́nh, bao chủng tử chất chứa trong tàng thức Alaya lập tức trỗi dậy, và hỷ nộ ái ố tạo ra từ những chủng tử ấy cũng lập tức sinh khởi vui buồn, ân oán. Đó chính là những mắt lưới vô h́nh nhưng chằng chịt, trùm phủ cả đại-dương-tâm, đàn cá vụng về làm sao thoát khỏi!

Nghe lời Phật dạy, dẫu kính tin nhưng mơ màng, lư sự chẳng đi đôi th́ thực tế không giúp hành giả bao nhiêu, v́ cứ Giác một phút lại Mê mười phút th́ chặng đường từ bờ mê tới bến giác c̣n thăm thẳm; trong khi, kiếp người trăm năm có chờ ai, đợi ai! Thời gian lạnh lùng trôi nhanh như bóng câu qua cửa, biết kiếp sau c̣n đủ phước báu được làm người để mượn thân tứ đại như phương tiện mà tu tập hay không?

Có vị Thầy, một lần vào đạo tràng, nh́n được tâm đại chúng, dù đă đủ duyên tới được nơi chờ nghe pháp, mà vui buồn bên ngoài c̣n quá xôn xao, vướng bận. Thầy bèn khoanh chân kiết già, nhắm mắt, lặng thinh. Năm phút, rồi mười phút …  lúc đó đại chúng mới nhận thấy sự bất thường. Tiếng nói chuyện nhỏ dần, bớt dần, tâm người cũng theo đó mà lắng đọng theo. Khi ấy, Thầy mới chậm răi, nhẹ nhàng thỉnh chuông rồi nh́n khắp đại chúng, mỉm cười và bắt đầu bài pháp bằng câu chuyện về Tỳ-kheo-ni Ưu Ba Tiên Na.

Một lần, Ưu Ba Tiên Na đang tọa thiền trong rừng cây ngoài thành Vương Xá, bỗng cất tiếng hốt hoảng cầu cứu. Khi đó, tôn giả Xá Lợi Phất cũng đang tọa thiền ở khu rừng kế bên, nghe tiếng kêu, bèn vội chạy sang. Đến nơi, thấy Ưu Ba Tiên Na sắc mặt b́nh thường, vẫn trong tư thế kiết già.  Tôn giả bèn hỏi:

- Cớ sao kêu cứu?

Ưu Ba Tiên Na thưa:

- Ít phút trước đây, con đang nhắm mắt tĩnh tọa, bỗng cảm thấy như có vật ǵ trơn láng, trườn tới. Con vừa nghĩ “Trời ơi, cái ǵ vậy? Lẽ nào là rắn độc!” th́ liền bị vật đó cắn mạnh vào cườm tay. Con nhận biết nọc độc đang chạy khắp thân thể, và con sắp ĺa đời. Xin Tôn giả từ bi báo cho ni chúng biết, hăy về đây gấp cho con kịp có lời từ biệt.

Khi nói những lời này, Ưu Ba Tiên Na vẫn b́nh thản, sắc mặt vẫn hồng hào. Tôn giả bèn trấn an:

- Có lẽ không nghiêm trọng đâu, dẫu có bị rắn cắn, chắc cũng không phải rắn độc v́ sắc diện cô vẫn b́nh thường.

Ưu Ba Tiên Na bèn chắp tay thưa:

- Bạch tôn giả, quả thật, con đă bị rắn độc cắn, nhưng khi bất ngờ trực diện ranh giới của sống chết, con mới may mắn liễu ngộ sâu sa lời Phật dạy về tấm thân vô thường này. Thân chỉ do tứ đại, ngũ uẩn duyên hợp mà thành, bản chất thân này chẳng ǵ là thực, chỉ là Không. Đă là Không th́ dẫu chẳng phải rắn độc, mà bất cứ thứ chi, vật chi, cũng chẳng c̣n là đối tác có thể xâm phạm được. Vừa hiểu như thế, con liền dứt cả đau đớn lẫn sợ hăi. Bạch Tôn giả, phải chăng nhờ hốt nhiên trong phút giây thực sự buông bỏ mọi ràng buộc, mọi cảm thọ, con đă chạm tới được bản-lai-diện-mục, là cái nhận biết tỉnh sáng thường hằng vô sanh bất diệt, khiến thân tâm con b́nh an?

Khi các Tỳ-kheo-ni vân tập về khu rừng, là lúc Ưu Ba Tiên Na mỉm cười, nh́n tất cả, rồi chắp hai tay, b́nh thản đi vào cơi tịch diệt Niết Bàn.

 

Kể câu chuyện đến đây, giảng sư lại nhắm mắt, khoanh chân kiết già.

Cả đạo tràng bỗng hiển lộ sự an nhiên tĩnh mặc, cực kỳ mầu nhiệm, như que diêm nào vừa bật lên giữa căn pḥng đang ch́m trong bóng tối.

Thời gian như đọng lại. Chợt, ở một khoảnh khắc nào, từ cuối đạo tràng, ai đó bỗng bật khẽ một tiếng: “Buông!”

Âm thanh chỉ đủ cho hạt bụi t́nh cờ bay ngang, nghe được. Hạt bụi đậu lại trên trang kinh đang mở, lẩm nhẩm đánh vần, rồi chậm răi đọc:

“Chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách…”     

 

     

Huệ Trân

 (Chớm đông 2010, dặm đường ven biển, đi, về,

nghe trong sóng khua vang tiếng nước)

 

 

 

 

 

 


 

Trở về trang chính

Trở về trang Văn Học Phật Giáo