HỒNG NHƯ THUBTEN MUNSEL

 

 

Sinh năm 1967 tại Sài g̣n, Việt Nam

Thọ pháp cùng các bậc tôn sư hiển mật là HT. Thích Trí Quang, Đức Đạt-lai Lạt-ma, Đức Sakya Trizin, Kirti Tsenshab Rinpoche, Lama Zopa Rinpoche, Geshe Thubten Dawa, thọ ơn vô lượng các đấng tôn sư khác.

Cộng tác với FPMT, Thư Viện Hoa Sen, Trang Nhà Quảng Đức, DharmaGates Foundation, VietVajra Foundation, Tủ Sách Phật Giáo Tây Tạng.

Hiện thông dịch cho Geshe Thubten Dawa ở ngoại ô Sydney, Úc Đại Lợi.

 

TÁC PHẨM DỊCH THUẬT

 

* Chánh Văn Kinh Luận

- Kinh Chánh Pháp Sanghata

- Kinh Niệm Tam Bảo

- Ngọn Đèn Soi Đường Giác Ngộ, thánh giả Atisha

- Ba Điểm Tinh Túy của Đường Tu Giác Ngộ, Lama Tông Khách Ba

- Nền Tảng Mọi Thiện Đức, Lama Tông Khách Ba

- Chứng Đạo Ca, Lama Tông Khách Ba

- Lời Nguyện Văng Sinh Cực Lạc, Lama Tông Khách Ba

- Lời Nguyện Đại Lạc Bản Lai, Lama Tông Khách Ba

- Bồ Đề Tâm Luận, thánh giả Long Thọ

 

* Sách Phật Học:

- Pháp Tu Đơn Giản Dành Cho Phật Tử Nhập Môn, Đức Đạt-lai Lạt-ma 14

- Tinh Túy Bát Nhă Tâm Kinh, Đức Đạt-lai Lạt-ma 14

- Đường Vào Kalachakra, Jhado Rinpoche

- Luận về Ba Điểm Tinh Túy của Đường Tu Giác Ngộ, Ribur Rinpoche

- Phát Tâm Bồ Đề, đại sư Ribur Rinpoche

- Ư Nghĩa Om Mani Padme Hum, đức Đạt-lai Lạt-ma

- Đức Phật Dược Sư, Lama Zopa Rinpoche

 

* Nghi Thức Hành Tŕ

- Nghi Thức Tụng Niệm Tập Yếu FPMT, Hội Bảo Tồn Truyền Thống Phật Giáo Đại Thừa

- Nghi Quĩ Hành Tŕ Om Mani Padme Hum, Lama Zopa Rinpoche

- Quán Tưởng đức Phật Dược Sư, Lama Zopa Rinpoche

- Hộ Luân Kim Cang Giáp, Lama Zopa Rinpoche

- Qui Y Tam Bảo, nguyên tác Lama Zopa Rinpoche

- Pháp Chuyển Tâm Đại Thừa, Lama Zopa Rinpoche

- Hồng Danh Sám Pháp phối hợp với Kim Cang Chú, Lama Zopa Rinpoche

- Thọ Bát Quan Trai (theo nghi thức Tây Tạng)

  

a

  

PHÁP TU TÂY TẠNG

DÀNH CHO PHẬT TỬ NHẬP MÔN

 Tác giả: Đức Đạt-lai Lạt-ma

 

Hồng Như dịch

 

(Trích đoạn)

 

 

Hỏi. Xin ngài chỉ cho một lối tu vừa phải dành cho người b́nh thường, không cần phải phát đại nguyện phức tạp.

 

Đáp. Muốn giải thoát, điều quan trọng nhất là phải thật tâm mong mỏi điều này. Cần nhận diện, quán niệm về khổ. Khổ nói ở đây là hành khổ, là khổ đau đến từ hoàn cảnh hiện hữu trong luân hồi.

 

Vô thường không nhất thiết phải là khổ. Ví dụ trí toàn giác của Phật, tuy vô thường nhưng không mang tính chất khổ đau.

 

Hợp thể tâm lư vật lư của chúng ta cũng vô thường, nói cách khác, luôn thay đổi, là quả, do nhân sinh ra. Nhân trong trường hợp này là nghiệp đă tạo trong quá khứ, cùng với động cơ phiền năo tác động thành nghiệp. V́ sinh ra từ phiền năo, nên thân người cũng mang đầy tính chất phiền năo khổ đau.

 

Đời sống này khởi đầu bằng khổ đau chào đời. Sau khi nhập thai mẹ, cơ thể con người bắt đầu thành h́nh và phát triển. H́nh sắc càng lúc càng thô lậu hơn. Đến một lúc nào đó, bào thai bắt đầu có cảm giác thoải mái hay khó chịu, khi chào đời là lúc khổ đau thật sự bắt đầu. Một thời gian rất lâu sau khi ra đời, con người yếu đuối như côn trùng, không thể tự lo cho ḿnh. Đời sống chúng ta bắt đầu như vậy đó. Mặc dù cha mẹ luôn ăn mừng khi trẻ chào đời, nhưng phải nói đó chính là lúc khổ đau bắt đầu. Rồi đời sống kết thúc bằng cái chết, cũng là một loại khổ đau không ai muốn. Ở giữa hai đầu sinh tử, là bịnh tật, già nua.

 

Con người cần một mục tiêu trong đời sống để thấy đời này có chút ư nghĩa nào khác hơn là sớm tối nhồi nhét đồ ăn nuôi tấm thân này. Chúng ta cần tự hỏi nuôi sống tấm thân này có phải là ư nghĩa duy nhất của cuộc sống. Nếu có thể chuyển hóa được tâm, đó mới thật sự là mục tiêu có ư nghĩa.

 

Theo lẽ mà nói, thân này không có ǵ đáng cho ḿnh nâng niu lưu luyến. Đẹp cỡ nào, mạnh cỡ nào, nh́n lại từng thành phần xương, da, máu, thịt, thật chẳng có ǵ hay. Cơ thể là kết hợp của nhiều thành phần không sạch. Chính thân người cũng rất dơ, sinh ra từ tinh chất của cha và của mẹ, vốn không sạch. Thân người lại thường chế tạo phẩn và nước tiểu. Có thể nói thân này là một cái máy chuyên chế tạo đồ bẩn. Mục tiêu chính của tấm thân này là tiêu thụ đồ ăn thức uống và chế tạo của dơ.

 

Nh́n lại suốt năm mươi hai năm qua tôi đă ăn bao nhiêu, uống bao nhiêu, thật sự mà nói thân này chỉ giỏi việc chế tạo của bẩn. Đồng thời, nếu gom lại hết tất cả những đờm dăi đă thải ra trong quá khứ, chắc chắn phải nhiều lắm. Không ai thấy cầu tiêu là nơi sạch sẽ cả, đúng không? Thật sự thân người cũng như cái cầu tiêu. Mấy thứ trong nhà cầu không phải từ trên trời rơi xuống, mà từ trong thân người rớt ra.

 

May mắn thay, ngoài thân vật lư, con người c̣n có thêm phần trí tuệ. Chỉ khi nào tận dụng được năng lực trí tuệ của con người, đời sống mới thật sự có ư nghĩa. Chúng ta biết suy nghĩ, biết phân tích, đây thật là một khả năng cực kỳ quí giá của kiếp làm người.

 

Ta có thể thấy rằng cả súc vật, trong một giới hạn nào đó, cũng có khi có được tinh thần vị tha. Ví dụ như loài ong hay loài kiến, chúng sống có tổ chức xă hội. Gặp lúc thuận tiện hay khó khăn, tổ chức này sẽ bảo đảm sự sống c̣n cho từng cá nhân. Con này nương dựa vào con kia, sống một cách tự nhiên trong tinh thần trách nhiệm, nâng đỡ lẫn nhau. Loài người cũng vậy, dù muốn dù không, vẫn phải dựa vào nhau để sống.

 

Suy nghĩ sâu một chút sẽ thấy chúng ta có một nhu cầu rất tự nhiên là cần t́nh thương. Sinh ra và lớn lên được là nhờ t́nh yêu thương chăm sóc của cha mẹ. Có thể sống c̣n cũng là nhờ t́nh thương cha mẹ, nhờ hơi ấm loài người. Mai mốt già đi, tâm thần và thể xác đều suy thoái, lại phải sống nhờ t́nh thương yêu của người khác. Ở giữa hai giai đoạn này, khi khoẻ mạnh trẻ trung, chúng ta không mấy khi nghĩ đến những việc như vậy. Đây cũng là một thứ vô minh.

 

Nhu cầu thiết yếu nhất của con người là trái tim nồng ấm. Rơ ràng là chúng ta cần bạn bè người thân. Nhờ bạn bè mà cảm thấy an vui hạnh phúc. Muốn có t́nh bạn chân chính, phải lấy những t́nh cảm tốt đẹp để đối xử với nhau, ví dụ như t́nh yêu thương quan tâm với trái tim rộng mở.  Được như vậy t́nh bạn chân chính sẽ nảy nở dễ dàng.

 

Bạn bè cũng có nhiều người không thật ḷng. Khi có tiền, có thế, chắc chắn cũng sẽ có rất nhiều bạn. Nhưng khi tiền tài thế lực mất hết, thứ bạn này cũng mất theo. T́nh bạn chân chính chỉ có thể có nhờ trái tim nhân hậu. Loại t́nh bạn này sẽ luôn ở lại, cho dù chúng ta có đang thất bại hay thành công. Con người sống được là nhờ t́nh yêu thương, nhờ ḷng quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Con người đủ khả năng phát huy nhiều loại t́nh cảm cực kỳ tốt lành, đây mới thật là một điều quí giá, một may mắn vượt bực.

 

Nay chúng ta có được thân người, phải biết tận dụng trí tuệ cùng năng lực đặc biệt của trái tim yêu thương, chừng đó cuộc sống mới thật sự có ư nghĩa, chúng ta mới thật sự không phí uổng kiếp người.

 

Tự xét lấy ḿnh, sẽ thấy thân tâm này là do nghiệp và phiền năo mà ra, v́ vậy hễ thân tâm này c̣n là chưa thể có được niềm an lạc vĩnh cữu. Nh́n lại quanh ḿnh, ai nấy cũng đều như vậy cả. V́ vậy phải phát khởi chí nguyện muốn đạt giác ngộ để vượt thoát ràng buộc của nghiệp và phiền năo. Đây có thể gọi là tâm cầu giải thoát, là tâm buông xả, mặc dù không rời bỏ gia đ́nh xă hội. Hướng về lợi ích chúng sinh th́ mọi nhu cầu cá nhân tự nhiên sẽ được thỏa măn.

 

Để phát tâm bồ đề, các vị cao tăng Ấn độ có dạy hai phương pháp chính, đó là Bảy Điểm Nhân Quả, và Hoán Chuyển Ngă  Tha.

 

Muốn tu theo phương pháp Bảy Điểm Nhân Quả, trước hết cần khởi tâm đại xả. Tâm đại xả là tâm b́nh đẳng. Nói cách khác, là trạng thái quân b́nh, không lưu luyến người thân, không oán ghét kẻ thù, và cũng không dửng dưng đối với kẻ lạ.

 

Điểm nhân quả thứ nhất là nhớ sự tái sinh vốn không có khởi điểm, v́ vậy chúng sinh nào cũng có lúc đă từng là cha mẹ, anh em hay người thân của ḿnh.

 

Thấy như vậy rồi, điểm thứ hai là nhớ nghĩ về t́nh thương họ đă từng mang đến cho ta.

 

Điểm thứ ba là ước muốn đền đáp t́nh yêu thương đó. Để quyết tâm đền đáp yêu thương, hăy nhớ lại người mẹ đời này đă thương yêu chăm sóc ta như thế nào, nhớ các bậc cha mẹ nói chung yêu thương con ḿnh như thế nào.

 

Khởi tâm đại từ là điểm thứ tư. Tâm đại từ là một trạng thái tâm thức rộng mở, thương yêu tất cả chúng sinh.

 

Có tâm đại từ rồi, điểm thứ năm là mong mỏi chúng sinh thoát khổ đau. Đó là tâm đại bi.

 

Điểm thứ sáu là phát tâm nguyện vị tha phi thường, tự nguyện gánh lấy trách nhiệm giải thoát chúng sinh ra khỏi khổ năo.

 

Điểm thứ bảy là phát tâm bồ đề. Tâm này có hai phần, vừa là năng lực đại bi tỏa rộng đến mọi loài chúng sinh, vừa là trí tuệ chứng biết tâm chúng sinh có khả năng vượt thoát phiền năo, ai cũng có thể thành tựu trí toàn giác. Trí tuệ này đi cùng với năng lực của đại bi sẽ khiến tâm bồ đề khởi phát.

 

Phương pháp thứ hai là Hoán Chuyển Ngă Tha. Cũng bắt đầu với  tâm xả, nhưng theo cách khác. Phương pháp này dạy người tu đứng về phía chúng sinh, thấy tất cả đều b́nh đẳng, v́ tất cả đều muốn được hạnh phúc thoát khổ đau. Tất cả chúng sinh đều giống nhau ở ước nguyện này. V́ vậy mà ḿnh và người b́nh đẳng như nhau.

 

Tiếp theo, suy nghĩ thử xem ḷng vị kỷ sẽ mang lại những ǵ. Nếu ích kỷ muốn dành hết hạnh phúc trên đời về phần ḿnh, vậy rốt cuộc sẽ không c̣n bạn mà lắm kẻ thù. Ngược lại, nếu hoán chuyển ḷng vị kỷ thành ḷng vị tha, thương yêu lo lắng cho người khác hơn chính bản thân, kết quả sẽ trái ngược, ít thù nhiều bạn.

Nói tóm lại, đúng như lời của ngài Tịch Thiên[1] trong Nhập Bồ tát Hạnh[2] đă từng nói,  “tất cả mọi bất hạnh trên đời đến từ ḷng vị kỷ và tất cả mọi hạnh phúc trên đời đến từ ḷng vị tha.”

 

Tiếp theo là phương pháp thiền Cho và Nhận [tong-len] để phát tâm bồ đề. Phương pháp này chỉ cách quán tưởng cho đi tất cả mọi hạnh phúc tốt lành của ḿnh, đồng thời nhận về tất mọi khó khăn vất vả của người khác.

 

Thời nay, người Tây tạng chúng tôi phối hợp hai phương pháp tu nói trên để phát tâm bồ đề. Hai phương pháp tu này sẽ giúp ta thấy kẻ thù vốn là người tốt nhất trên thế gian. Lư do rất đơn giản, muốn phát tâm bồ đề chân chính th́ phải điều phục tâm giận dữ. Để điều phục tâm giận dữ, cần kiên nhẫn độ lượng. Để luyện tính kiên nhẫn độ lượng, cần phải có một kẻ thù. Nghĩ như vậy, kẻ thù tự nhiên biến thành người giúp ḿnh tu, dù không phải tự ư họ muốn vậy. Một khi đă có thể thấy kẻ thù là người giúp ḿnh, đương nhiên sẽ thấy tất cả mọi người đều như vậy.

 

Ước vọng trong đời sống như danh vọng, tiền tài, chỉ có thể có được nhờ sự giúp đỡ của người khác. Ngay như buổi nói chuyện hôm nay, có được là nhờ công lao của rất nhiều người: người xây nhà, lót thảm v.v... Cả chiếc xe bus chở quí vị đến đây bất kể mọi xáo động ở Punjab, đó cũng là một yếu tố cho phép chúng ta gặp nhau hôm nay. Nếu không có công lao của nhiều người quen và không quen, chúng ta đă không thể ngồi đây. Suy nghĩ như vậy sẽ thấy nếu không có sự giúp đỡ của người khác, chúng ta không làm sao có thể sống đến ngày hôm nay.

 

Ngoài ra cũng nên nghĩ đến nghiệp. Tất cả những cơ hội có được trong cuộc sống đều là quả của nghiệp đă tạo trong quá khứ. Nghĩ đến thiện nghiệp: thiện nghiệp nói chung là những ǵ đă làm với tâm nguyện muốn tốt cho người khác. Vậy muốn tích tụ thiện nghiệp cũng cần phải có người khác.

 

Trong tất cả những công phu hành tŕ Phật giáo, phát tâm bồ đề được xem là công phu quan trọng quí giá nhất. Tâm bồ đề bắt rễ từ đại bi. Không có chúng sinh là không thể khởi tâm đại bi. Phật đà và Bồ tát có thể hộ tŕ cho ta phát tâm bồ đề, nhưng không thể giúp chúng ta phát tâm đại bi. Đại bi chỉ có thể có được nhờ hướng về chúng sinh.

 

Nh́n trên phương diện này, chúng sinh c̣n tốt với ta hơn cả Phật đà. Chúng sinh luôn tốt với ta như vậy, dù cố ư hay không. Có nhiều điều đối với chúng ta rất quí, như diệt đế, đạo đế, nhưng những điều này không có ư muốn tốt với ai cả, dù vậy chúng ta vẫn quí giá nâng niu. Đối với Phật tử đại thừa, mọi chúng sinh đều là bạn và mọi hoàn cảnh đều là hoàn cảnh thuận tiện để tu. Kẻ thù duy nhất là thái độ vị kỷ, là tâm chấp ngă, từ đó sinh ra đủ loại vọng tâm.

 

Tu được như vậy, quí vị sẽ có được tinh thần vô úy, thoát mọi sợ hăi.

 

(trích đoạn- Tựa đề tiếng Anh: Cultivating a Daily Meditation. Tác giả: Đức Đạt-lai Lạt-ma đời thứ 14)


 

[1] Shantideva.

[2] A Guide to the Bodhisattva Ways.