LÊ THẾ HIỂN

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Sinh năm 1941 tại Phủ Lư, tỉnh Hà Nam, Bắc Việt.

Di cư vào Nam năm 1954.

1962 tốt nghiệp Luật Khoa tại Đại Học Luật Khoa, Sài G̣n.

1963 phục vụ trong ngành Thuế vụ/Thanh tra thuế vụ

1964 phục vụ trong ngành Lao động/Thanh tra lao động.

1965-1975 Thẩm Phán Ṭa Sơ Thẩm Sài G̣n, Thẩm Phán Ṭa Sơ Thẩm Huế-Thừa Thiên, Chánh Án các Ṭa Sơ Thẩm Quảng Ngăi, Ṭa Sơ Thẩm An Giang, Long Xuyên, Bà Rịa Phước Tuy.

Sau 1975 đi tù Cộng Sản qua các trại Long Thành, Thủ Đức, Hà Nam Ninh và B́nh Tuy

1983 ra tù

1990 định cư tại tiểu bang Connecticut, Hoa Kỳ

Trở lại Đại học lấy bằng Associate Degree of Paralegal và đi làm đến tháng 2 năm 2007 th́ về hưu.

Thường xuyên có bài viết và thơ đăng trên các nhật báo và tạp chí như The Stamford Avocate (Connecticut); Văn Nghệ Tiền Phong, Kỷ Nguyên Mới (Washington, D.C.); Người Việt, Khởi Hành, Lập Trường (California); Lư Tưởng/Tổng Hội Không Lục, Tuổi Thơ (Canada); Người Việt, Nhân Quyền (Australia)

  

a

 

CÚNG DƯỠNG

 

Phụng thử ngục tù phạn

Cúng dưỡng tối thắng tôn

Thế gian trường huyết hận

Bỉnh bát lệ vô ngôn.

 

Tuệ Sỹ

 

 

CÚNG DƯỜNG

Hai tay nâng chén cơm tù

Ḷng thành dâng cả tâm tư cúng dường

Thế gian huyết hận miên trường

Lẽ không chợt ngộ vô thường lệ tuôn!

 

Lê Thế Hiển dịch

Stamford, July 25, 2004 

 

THẠCH BÍCH

 

Thạch bích tranh vanh giá mộ vân

Lung trung nan kiến nhật tây trầm

U nhân không đối u quang lư

Thiên cổ văn chương thiên địa tâm.

 

Tuệ Sỹ 

 

TƯỜNG ĐÁ

Mây chiều lơ lửng tường cao

Chim lồng đâu thấy được nào ánh dương

Một ḿnh bầu bạn với tường

Ngàn năm chữ nghiă phải nhường con tim!

 

Lê Thế Hiển dịch

Stamford, July 25, 2004

 

CẢM NHẬN

 

Một buổi sáng thức dậy

Biết một ngày đă qua

Thời gian không đợi chờ

Chợt thấy buồn vu vơ.

 

Soi gương nh́n tóc bạc

Ngắm vết nhăn không nḥa

Gịng đời vô t́nh quá

Ḿnh đối diện cái già.

 

H́nh hài dẫu thay đổi

Ngẫm lại quá khứ ta

So với tuổi trời đất

Khác nào một sát-na.

 

Chiếc tàu Ti-Ta-Níc

Niềm kiêu hănh không ngoa

Chỉ trong một tíc- tắc

Ch́m đáy biển bất ngờ.

 

Họng súng và bạo lực

Chủ-nghiă mộng vương bá

Gió thoảng với mưa sa

Rơi vèo như chiếc lá.

 

Con người và hạt bụi

Trước vũ trụ bao la

Nhưng sẽ là vĩnh cửu

Như những giải ngân hà.

 

Đấng Christ đă lên trời

Đức Phật về chốn xa

Tinh thần c̣n sống mạnh

Ở nơi cơi Ta-bà.

 

Yêu thương vẫn măi măi

Là tiếng gọi thiết tha

Từ đáy tim ta đó

Khiến cuộc đời nở hoa.

 

 

NHẮN CÔ GÁI LIÊU TRAI

 

Thân gửi bên kia hồn ở đây

Sao cô lưu luyến thế gian này

Hồng trần c̣n vướng chân tiên nữ

Cơi thế xem ra lắm vẻ hay?

Đâu biết ta-bà là cơi tạm

Nào ngờ hương sắc quyến người say

Dẫu nơi tiên cảnh tâm chưa định

T́nh lụy tơ vương nỗi đắng cay!

Stamford, giữa Đông, 2003

 

TẾT NHỚ NHÀ

(Tặng anh Nguyễn Thọ Đan, California)

 

Một giải sơn hà bên đại dương

Mênh mông muôn thuở những con đường

“Mái chùa che chở hồn dân tộc

Nếp sống muôn đời của tổ tong” (1)

Xây đắp non sông bồi thế giáo

Vun trồng hồn nước dậy t́nh thương

Ao nhà hằng nhớ nào quên được

Nửa mảnh t́nh riêng bao vấn vương!

Stamford, Mồng Một Tết Giáp Thân

Jan. 23, 2004

 

__________

 

(1) Mượn thơ nhà Chùa.  Những thân phận lưu vong c̣n vướng một nửa mảnh t́nh nơi “ao nhà dầu trong dầu đục” nên luôn luôn là những tâm hồn vất vưởng nhớ về… và ngả đường nào rồi cũng dẫn về!  Chỉ sớm với muộn mà thôi!