THÍCH MĂN GIÁC

(1929-2006)

 

 

 

 

Pháp danh:  Nguyên Cao.  Pháp tự:  Măn Giác.  Đạo hiệu:  Huyền Không. Làm thơ với bút hiệu Huyền Không.

Sinh năm 1929 tại làng Phương Lang, quận Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.

Xuất gia năm 10 tuổi với Ḥa Thượng Thích Quảng Duệ, Chùa Thiên Minh, Huế.

Tốt nghiệp Đại học Phật Giáo tại Phật Học Đường Báo Quốc

1960 du học Nhật Bản.

1965 tốt nghiệp Tiến sĩ tại Nhật Bản.

Giáo sư Đại Học Văn Khoa và Vạn Hạnh, Sài G̣n.

Khoa Trưởng phân khoa Phật Học và Triết học Đông Phương kiêm Phó Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh, Sài G̣n.

Định cư tại Hoa Kỳ năm 1977.

Viện chủ Chùa Việt Nam, Los Angeles, Hoa Kỳ

Hội Chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ

Chủ Nhiệm báo Phật Giáo Việt Nam, Hoa Kỳ

Viên tịch lúc 8:25 sáng ngày 13 tháng 10 năm 2006 tại thành phố Los Angeles, California, Hoa Kỳ.

 

Tác phẩm đă xuất bản: 

-     Đạo Phật Của Quần Chúng – 1953

-     Giá Trị Luân Lư Đạo Phật – 1960

-     Khảo Sát Duy Thức Học – 1965

-     Phật Giáo và Nền Văn Hóa Việt Nam – 1967

-     Lịch Sử Triết Học Ấn Độ - 1967

-     Nhân Bản và Nhân Bản Phật Giáo – 1968

-     Phật Học, Thiền Học và Thi Ca – 1974

-     Đạo Đức Học Đông Phương

-     Đại Cương Đạo Đức Học Phật Giáo – 1981

-     Tứ Diệu Đế - 1983

-     Kinh Pháp Bảo Đàn - Lục tổ Huệ Năng, Thích Măn Giác dịch Việt, 1985

-     Bích Nham Lục – 1988

-     Đức Phật Ngồi Yên – 1989

-     Băo Qua Cổng Chùa – 1990

-     Tư Tưởng A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận – 1995

-     Vạn Hạnh Kẻ Đi Qua Cầu Lịch Sử - 1996

-     Câu Chuyện Về Thi Ca - 1981

-     Không Bến Hạn – Thi phẩm, 1950

-     Hương Trần Gian – Thi phẩm,1953

-     Không Gian Thành Chiếc Áo – Thi phẩm, 1960

-     Kẻ Lữ Hành Cô Độc – Thi phẩm, 1972

-     Mây Trắng Thong Dong – Thi phẩm, 1993

-     Mây Trắng Thong Dong, Thơ Toàn Tập (3  Tập), 2008

 

 

a

 

 

 

MÂY TRẮNG THONG DONG

 

Có, không đùa giỡn tháng ngày

Bao nhiêu phiền năo rủ bay hồi nào

Đá kia ngồi đếm chiêm bao

Nước bao nhiêu nữa cũng vào biển trong

 

Ngàn năm mây trắng thong dong

Phiêu bồng hóa hiện mênh mông cuối trời

C̣n đây, một đóa hồng tươi

Trên môi nhân loại nụ cười c̣n nguyên.

 

 

TĨNH TỌA

 

Trong mộng ảo ngồi yên nh́n tăm tối

Trong tiếng cười giác ngộ rạng hào quang

Mùa thu đến trên đầu sao quá vội

Đứng nh́n thiên hạ t́m lối sang ngang

 

Trong hơi thở ngồi yên nh́n vạn kiếp

Nghe đất trời kể lại chuyện tiền thân

Mây trắng qua ḍng sông mờ định nghiệp

Thảnh thơi bay nối tiếp giữa đường trần

 

Đêm thanh vắng ngồi yên nh́n quá khứ

Thác trên cao đổ xuống măi trong đầu

Nước cứ chảy, tư tưởng dài lữ thứ

Thời gian nào do dự hỏi ta đâu

Mắt xanh sáng ngồi yên từ thuở ấy

Nẻo vô thường vùng vẫy đổi thay màu

Ta không kiếm Tâm ḿnh mà bỗng thấy:

Ḱa, đóa hồng đang nở dưới trăng sao

 

(Los Angeles, 28-8-1988)

 

 

 

RA ĐI

 

Kỷ niệm đúng một năm qúy Thượng Tọa Huyền Quang, Quảng Độ, Thuyền Ấn và Đại Đức Thông Bửu bị Cọng Sản bắt cầm tù.

 

Ra đi:  biển cả vô cùng

Tâm tư góp lại, nhớ nhung gởi người

Biển ḷng sóng vỗ mù khơi

Quê Hương, Đạo Pháp, Nụ Cười c̣n đây

 

Trăm năm vẫn ánh trăng đầy

Ngh́n năm sau nữa vẫn mây cuối trời

Ta mang chút lửa trong người

Đem về sưởi ấm cuộc đời lao sinh

 

Ô hay! non nước của ḿnh

Mà sao ta phải dứt t́nh ra đi?

 

(Los Angeles, ngày 6-4-1978)

 

 

 

MƠ HOÀI NGÀN NĂM

 

“Măn thuyền không tải nguyệt minh qui”

 

Trời xanh có áng mây qua

Trong làn gió lạnh như ḥa hơi mưa

Nhạn bay bóng hiện trên hồ

Tiền thân nước động hư vô thuở nào

 

Thao thức đời ngỡ chiêm bao

Trăng khuya chiếu sáng dạt dào gối ai

Tâm thiền suốt mấy đêm dài

B́nh an ư thức mơ hoài ngàn năm

 

Nh́n con tim khi đau nằm

Bao nhiêu kiếp trước xa xăm đi về

Bây giờ tỉnh thức cơn mê

Đại dương tràn ngập bốn bề ánh trăng

Leo lên đỉnh núi bâng khuâng

Hú dài một tiếng xa gần lạnh vang

Hoa cười báo hiệu xuân sang

Đông về có nhánh mai vàng trước sân.

 

(Good Samaritan, Thu 1992)

 

 

 

ĐẠT ĐẠO

 

Qua Thiền Môn: thấy trời xanh

Kim Cang Kinh tụng chân thành từng trang

Khói hương  quyện, cảnh mơ màng

Không gian là chiếc y vàng quấn thân

Thiền Môn xưa sạch phong trần

Kim Cang Kinh khép trầm luân thoát rồi

Ta từ sanh tử về chơi

Ngồi trên chót đỉnh mỉm cười với trăng

Thân ta là giải đất bằng

Tâm ta là nước sông Hằng mênh mông

T́nh ta là đóa hoa hồng

Ư ta là cả cánh đồng tâm linh

 

C̣n đâu nữa Kim Cang Kinh

Thiền Môn biến mất mà ḿnh vô ngôn

B́nh minh về ngập hoàng hôn

Kêu lên một tiếng tỉnh hồn ngàn xưa

 

(Los Angeles, mồng 9 tháng 9 Canh Thân)

 

 

(Những bài thơ trên được trích từ Thi Phẩm Mây Trắng Thong Dong, của Huyền Không, Thơ Toàn Tập, 3 Tập, do Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ xuất bản năm 2008)