MẬT NGHIÊM

– ĐẶNG NGUYÊN PHẢ

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Hội Trưởng Hội Phật Học  Đuốc Tuệ, Chủ Tịch Hội Đồng Sáng Lập Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo Việt Nam Tại Hoa Kỳ, Chủ Trương Tuần Báo Saigon Post.

Tác phẩm đă xuất bản:

-    Mật Tông Vấn Đáp

-    Sen Nở Trời Âu Mỹ - 2003

Những bài viết và thơ đă đăng trên các báo chí và websites của Phật giáo Việt Nam tại hải ngoại:

-    Trái tim ngài Quảng Đức

-    Văn hoá và Phật Giáo

-    Nhịp cầu cảm ứng

-    Hồn thơ trong ánh mắt Thiền

-    Sự đóng góp của Phật Giáo cho thế giới trong thế kỷ 21

-    Người cư sĩ hải ngoại trước thời đại mới

-    Xuân tâm, thơ

-    Về quê, thơ

-    Về chân tánh, thơ

 

 

a

 

 

VÔ THƯỜNG

 

Lá phong đă đổi màu vàng,

Tàn thu lá đă chuyển sang màu đà.

Vô thường đang cất tiếng ca,

Ca bài diệu hữu lời là chân không.

 

 

 

ĐỜI VÀ ĐẠO

 

Nếu chẳng có đời, đạo cũng không,

Nhờ đạo mà đời được suốt thong.

Đạo đời, đời đạo nương nhau sống,

Sống đạo, vui đời ta ngắm trông.

 

Đạo đời là một vốn không hai,

Ai hiểu đạo rồi thấy chẳng sai.

Cuộc thế vuông tṛn cùng tốt xấu,

Là nơi từ đó đạo tâm khai.

 

Đạo tâm khai mở có ǵ đâu,

Bỏ hết những ǵ có bấy lâu.

Tiền tài, danh lợi cùng t́nh ái

Phải trái, hơn thua, chẳng tiếp thâu.

 

Làm sao tâm chẳng vướng điều chi,

Cái nghe, cái thấy đến rồi đi.

Mặc t́nh khách đến ta không giữ,

Cũng chẳng buồn vui, chẳng nhớ ghi.

 

Đối cảnh làm sao chẳng khởi tâm,

Trong ḷng chuyện cũ chẳng dư âm.

Bặt đường so sánh và suy luận,

Sống vậy thường hằng trong chánh tâm.

 

 

 

MỘT NIỆM

 

Chỉ một sát na,

Quay về nương tựa.

Giải ngay tội nghiệp,

Nh́n thấy Nhất thừa.

Đất trời thu nhỏ,

Đầu sợi long tơ.

Núi sông c̣n đó,

Chẳng mộng không mơ.

Đường về quê cũ,

Trăng gió ơ thờ.

Mây bay nước chảy,

Tiếng nhạc, lời thơ…

 

 

oOo

 

 

NGƯỜI CƯ SĨ HẢI  NGOẠI TRƯỚC THỜI ĐẠI MỚI

 

Mật Nghiêm ĐẶNG NGUYÊN PHẢ

 

 

I. Cái Nh́n Cập Nhật

 

Nhân loại đang bước vào Thế kỷ 21, đồng thời cũng vào đầu Thiên niên kỷ thứ 3 theo Tây lịch, dù rằng theo Phật lịch th́ đă qua quá nửa ngàn năm thứ ba rồi. Đứng trước thời đại mới, người cư sĩ phải có “cái nh́n” cho hợp thời và đứng đắn về nhân sinh và vũ trụ để tu hành và sống đạo. Đó là tinh thần “Khế lư, khế cơ” của đạo Phật. “Khế cơ” là hợp với cơ duyên, với môi trường sống, với xă hội và nhân sinh. “Khế lư” là hợp với lẽ thật, hợp với lẽ sống, với quy luật vận hành của vũ trụ v. v... 

Trái đất của chúng ta cho đến nay đă trải qua rất nhiều nền văn minh hiện c̣n lưu dấu, giờ đây đang ở vào thời kỳ của nền văn minh khoa học vật chất. Thời đại khoa học bắt đầu từ Thế kỷ 17 tiến triển trong 300 năm trở nên phong phú và rực rỡ vào Thế kỷ 20. Đây là thời đại mà tất cả chúng ta đều thấy và đang hưởng thụ với máy bay, xe hơi, truyền h́nh, điện thoại, computer v.v...  khoa học càng phát triển th́ thời gian dường như thâu ngắn lại và không gian có vẻ như thu hẹp lại. Trong khi đó th́ các tôn giáo đều bị khoa học vấn nạn nhất là về mặt vũ trụ quan. Mới đây vào giữa tháng 2-2003 đài CNN loan tin về việc các khoa học gia của trung tâm NASA đă công bố về tuổi của vũ trụ này là 13.7 tỷ năm nhờ vào h́nh ảnh do tàu vũ trụ không người lái có tên tắt là WMAP (Wilkinson Microware Anisotropy Probe) cung cấp. Khi các khoa học gia công bố như vậy th́ mặc nhiên phủ nhận về tuổi của vũ trụ trong kinh Cựu ước đến nay khoảng gần Bảy ngàn năm của Do thái giáo, Thiên chúa giáo và Hồi giáo. Các khoa học gia phải công nhận thuyết vũ trụ của Phật giáo với Thành, Trụ, Hoại, Không tương tự như thuyết “Big Bang” mới được t́m ra năm 1929 bởi Edwin Hubble và thuyết “Hằng sa thế giới” của Phật giáo được khoa học công nhận với sự t́m ra hằng tỷ Thiên hà chứ không phải chỉ có Thiên đàng, Hỏa ngục và Thế gian nầy. Đó là về Vũ trụ c̣n với Nhân sinh th́ “thuyết lượng tử và bản đồ Gene” chứng tỏ “Thuyết Tánh không và Duyên sanh” của Phật giáo đúng với khoa học. 

Điều tôi vừa tŕnh bày trên là cái nh́n về Vũ trụ và Nhân sinh của Khoa học ngày nay tương đồng với Phật giáo. Từ cơ sở đó nếu người Phật tử hiểu được th́ đây là cơ hội để khoa học và Đạo Phật cùng bắt tay nhau phụng sự nhân loại và Thế kỷ 21 nầy là của Phật giáo và Khoa học. 

 

II. Sự Phát Triển Của Phật Giáo Việt Nam Ở Hải Ng oại

 

Từ đầu thập niên 60 Đạo Phật bắt đầu có mặt bằng xương, bằng thịt với những người con Phật rải rác từ Âu sang Mỹ, qua những áo cà sa của các Lạt ma Tây tạng, rồi sau 1975 th́ là những Phật tử Việt nam di tản. Tôi dẫn ra đây một vài con số về sự nở rộ của Phật giáo Việt nam tại Âu Mỹ có thể ví như mùa sen ngày hạ. Ngay tại Hoa kỳ này trước 1975 chỉ có một ngồi chùa Việt nam ở Los Angeles của cố Ḥa thượng Thiên Ân, nhưng đến hôm nay th́ các chùa Việt nam đă nở hoa trong 39 trên 50 tiểu bang của Mỹ với số lượng là 257 chùa và riêng California chiếm con số 102 từ nhỏ đến lớn ở cả Bắc lẫn Nam của tiểu bang nầy. Về Âu châu cũng vậy trước kia chỉ có hai chùa Việt nam tại Pháp của Ḥa thượng Huyền Vi và Thiền sư Nhất Hạnh nhưng đến nay th́ tại Pháp đă có 38 chùa và toàn Âu châu gồm tất cả 77 ngôi chùa Việt. Úc châu và Canada trước kia không có nhưng hiện nay tại Úc có 43 chùa và Canada có 38 chùa Việt, c̣n Phi châu hiện th́ chỉ có được hai chùa. Con số mà chúng tôi đưa ra ở trên là dựa vào tài liệu mới nhất của năm 2002 của Giáo hội Khất sĩ trên Thế giới, có thể c̣n có một số chùa chưa vào danh sách. Có một điều tôi chưa đề cập là ngay tại Á châu, ngoài lănh thổ Việt nam củng có tới 12 chùa do người Việt mới lập gồm một tại Philippines, hai tại Nhật, hai tại Népal, ba tại Ấn độ và bốn tại Đài loan. Tông kết toàn thế giới, các chùa Việt nam Hải ngoại gồm 426 ngôi chùa tính đến hiện nay. Con số nầy là một khích lệ đối với người Phật tử Việt nam, nó nói lên sự phát triển của Phật giáo Việt nam tại hải ngoại. Nhưng ngược lại nó cũng đặt ra câu hỏi cho những Phật tử có tâm huyết, có niềm ưu tư với tiền đồ Phật giáo là chúng ta phải làm ǵ và làm sao để duy tŕ và phát triển sự nở rộ nầy, không cho tàn lụi? Và cụ thể nhất là với những Cư sĩ Việt nam tại Hải ngoại, quư vị nghĩ ǵ, quư vị đă làm ǵ và sẽ làm ǵ để duy tŕ và phát huy cho sự phát triển tốt đẹp nầy?

 

III. Người Cư Sĩ Hải Ngoại Cần Đi Đúng Đường

 

Phần trên chúng tôi vừa tŕnh bày chỉ đưa ra con số các chùa mà không nói đến số lượng Phật tử bởi v́ chúng tôi chưa có con số chính xác, tuy nhiên nếu lấy điển h́nh riêng miền Nam California này với số người Việt đinh cư là trên ba trăm ngàn mà đồng bào thuộc các tôn giáo khác khoảng bốn mươi ngàn như vậy tỷ số là 1/8. Sự so sánh nầy không có nghĩa là cứ tám người Việt th́ có bảy người là Phật tử mà sự thật th́ chỉ có khoảng bốn hoặc năm người là Phật tử c̣n 2, 3 người khác vẫn chưa theo hẳn đạo nào. Nhưng một điều mà tôi có thể khẳng định là ở khắp nơi tại hải ngoại số Phật tử bao giờ cũng đông hơn các tín đồ khác. Chúng ta đông hơn nhưng lại thiếu tổ chức, thiếu lănh đạo, không đoàn kết và nhất là luôn bị chao đảo khi bị ngoại đạo dụ dỗ, v́ chưa vững niềm tin và chưa hiểu được rằng Đạo Phật mới thật sự đem đến b́nh đẳng, tự do, hạnh phúc và ḥa b́nh toàn vẹn cho nhân loại.

Trở về với tinh thần phục vụ đạo pháp và hoằng dương Phật giáo của người Cư sĩ hải ngoại, chúng tôi xin ca ngợi sự đóng góp của tất cả mọi người để các chùa nở rộ.

Chúng tôi vô cúng tán thán về nỗ lực tu học của quư vị Phật tử trong sinh hoạt “Bát quan trai”, “Ngồi thiền”“Tụng kinh“ đều đặn. Theo chúng tôi th́ những việc làm trên đem đến muôn vàn phước báu, nhưng nếu muốn chuyển thành “Công đức giải thoát” th́ người tụng kinh cần phải hiểu kinh và đem áp dụng lời Phật dạy trong kinh vào đời. Tu theo Đạo Phật cần phải đủ “Phước và Trí”, tụng kinh là có phước nhưng nếu được nghe giảng kinh để hiểu đúng chính kiến mới có huệ, rồi đem thực hành vào đời th́ mới tṛn điều gọi là “Phước Huệ song tu” và mới chắc chắn đi vào con đường hướng đến giải thoát.

Trở lại vấn đề con đường chúng ta đi trong xă hội Âu Mỹ ngày nay, người Phật tử Việt nam cùng một lúc phải đáp ứng hai việc:

* Một là hội nhập với đời sống xă hội và văn hóa nơi ḿnh cư trú.

* Hai là phát huy tinh thần Phật giáo ngay trong cuộc sống mới, áp dụng đúng nghĩa “Tùy duyên bất biến” tức tùy môi trường và hoàn cảnh mà không để mất đi cái bản sắc Phật giáo.

Trong sinh hoạt đời sống, người Mỹ thường nhắc tới chữ “mainstream”  tức là “ḍng chính”. Vậy ḍng chính của người Phật tử là ǵ? Là ḍng tâm hướng thiện, vị tha, quên ḿnh, được thắp sáng bởi lửa Từ bi và Trí tuệ để thắm tô cuộc sống và làm ấm ḷng người khác. Từ đó dần dần chuyển hóa xă hội mà ḿnh hội nhập.

Thế giới ngày nay đang phát triển với hai đặc điểm là:

* Xă hội tin học

* Xă hội hướng đến “toàn cầu hóa” về Kinh tế.

Đứng trước bối cảnh nầy người Phật tử phải áp dụng Phật Pháp vào đời, bổ túc cho khoa học bằng phát huy ba hướng sau đây:

 1. Khoa học th́ duy nghiệm, Phật giáo th́ chứng nghiệm và chứng lư.

2. Khoa học th́ phân tích, c̣n Phật giáo th́ vừa phân tích vừa tổng hợp qua trực giác tâm linh.

3. Khoa học khuyến khích cạnh tranh và phát sinh mâu thuẫn, Phật giáo th́ hợp tác và ḥa đồng.

Muốn hoàn tất ba điều trên th́ người Phật tử phải hiểu Đạo và tích cực hành Đạo trong môi trường mới để tiến tới thực tu thực chứng mới mong chuyển hóa được ḿnh và người.

Con đường đúng là con đường “Đạo chẳng ĺa Đời”, con đường phục vụ chúng sanh, quên ḿnh v́ người và không cầu danh lợi, tất cả v́ Đạo pháp.

 

IV. Vấn Đề Tu Thời Nay

 

Chúng ta đang sống trong một thế giới tiến bộ, khoa học, khác xa với thời đức Phật, cách đây 2,500 năm, v́ vậy việc tu học cũng phải khác. Nhưng, Đạo Phật không bao giờ lỗi thời v́ chủ trương “Khế cơ, Khế lư”, tức hợp thời, hợp cảnh, hợp lẽ thật và tùy duyên. Thế nhưng, chúng ta không được quên điểm chính của Đạo Phật là “Tu tâm” nên mọi sự việc và h́nh thức bên ngoài đều chỉ là phương tiện. Tu theo Đạo Phật là trong mọi hoàn cảnh đều phải “trở về Tâm” cho nên giáo lư Phật nói là “Tu ở mọi nơi, trong mọi lúc”. Câu nầy nói lên việc “Xóa bỏ giáo điều và h́nh thức”, lại cũng không trói buộc ai, mà mỗi người và mọi người sẽ “Tự tu, tự hành, tự thành Phật Đạo”. Nhưng, đây không phải là kiểu đánh vơ tự do mà có mũi tên chỉ đường là giáo lư thực nghiệm của “Bốn sự thật mầu nhiệm”“Tám điều thực hành chân chính tức Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo.

 Tu ngày nay khó hơn thời xưa nhiều v́ ngoại cảnh lôi cuốn con người khiến chúng ta luôn luôn mất ḿnh trong cuộc sống, đó là ta luôn thường chạy theo cảnh, theo t́nh mà quên mất tâm t́nh. Ở đây chúng tôi không nói đến cách tu v́ đó thuộc phạm vi giảng dạy của các tu sĩ, hơn nữa Đạo Phật đă chỉ rơ là có tám vạn bốn ngàn pháp môn, nghĩa là rất nhiều phương pháp, bởi nó c̣n phải tùy theo căn cơ và phúc đức của mỗi người mà áp dụng, không có một công thức cố định nào. Tôi chỉ xin quư vị lưu ư ba điều, đó là:

Thứ nhất:  Thời đại nầy rất ồn náo khó định và tịnh để trở về Tâm.

Thứ hai:  Khoa học càng phát triển th́ sanh mạng con người càng gặp nhiều thử thách và bất an.

Thứ ba:  Được làm người rất quư, phải tu ngay kẻo trễ và phải luôn nhớ rằng “Phật xa, ma gần” để mà tỉnh giác.

Sau khi biết rơ những điểm trên th́ người Phật tử với sự hướng dẫn của giáo lư và sự chỉ dẫn của vị Thầy hay bạn vững tâm đi t́m con đường giác ngộ, giải thoát cho ḿnh trong thế giới tạm bợ và phù du nầy.

V. Nhận Định Về Tương Lai

 

Sự nở rộ của Phật giáo Việt nam tại hải ngoại trong  gần ba chục năm qua là một điều mừng, nhưng nh́n vào thực tế th́ nó “Có lượng nhưng chưa có phẩm”. Đây có thể gọi là thời kỳ phát triển mà cần phải 20 năm nữa để ổn định. Thời kỳ ổn định là lúc mà số lượng chùa rút bớt đi, nhưng được củng cố vững vàng hơn về mặt tổ chức cũng như bảo trợ, với sự đóng góp của những người điạ phương và thế hệ trẻ Việt sinh trưởng tại hải ngoại.

Thực trạng của các chùa Việt nam ở hải ngoại ngày nay là một hiện tượng phát triển theo nhu cầu của các Phật tử hải ngoại. Họ đă quy tụ từng nhóm, từng khu vực, rồi t́m các Thầy hay Sư cô mà lập “Đạo tràng”. Sau đó “chuyển nhà thành chùa” tức “Cải gia vi tự”. Hiện tượng nầy đang diễn ra khắp nơi, về mặt h́nh thức th́ cũng hay nhưng nó chỉ mang tính chất tạm thời, để đáp ứng nhu cầu, chứ không phải tạo cơ sở tu học bền vững. Tại sao?

V́ những nơi đó thiếu Tăng đoàn, thiếu giảng sư thuyết pháp, chỉ nhằm cầu an, cầu siêu và tụng kinh một cách máy móc, cơ sở lại chật hẹp, bị chung quanh khiếu nại, chính quyền không cho phép tụ tập đông, cấm chuông mơ ồn ào, thế th́ làm sao thành cơ sở tu học bền vững được. Đấy là chúng tôi chưa kể về những ngôi Chùa và Tịnh thất tạm nầy phải trả tiền nhà đến hàng mấy chục năm, mà Phật tử bảo trợ ngày một ít đi, các Thầy hay các Cô trụ tŕ không có lợi tức nào để đóng tiền nhà khiến càng ngày càng khó khăn, rồi phải tự động đóng cửa. T́nh trạng nầy đă và đang xảy ra, nên chúng ta phải sáng suốt mà t́m giải pháp. Mong rằng chư Tôn đức Tăng Ni lưu ư và quư vị Phật tử cẩn trọng. Theo ư kiến riêng của chúng tôi là nếu Đạo Phật trong Cộng đồng Việt nam Hải ngoại muốn phát triển th́ chư Tăng Ni phải ngồi lại với nhau, thành lập những “Giáo đoàn hoằng pháp”. C̣n vấn đề phương tiện vật chất th́ để các Phật tử tại gia đảm trách, hỗ trợ. Vấn đề “Đổi nhà thành chùa”, nên mua lại các nhà thờ Tin Lành hiện bán rất nhiều mà lập chùa, v́ nơi đó có cơ sở rộng và đă được phép chính quyền cho tập trung đông, không trở ngại về mặt sinh hoạt.

Tóm lại trong tương lai nếu muốn c̣n tồn tại và đứng vững th́ từ việc hoằng pháp đến tổ chức và cơ sở đều phải xem xét lại và cần có một cái nh́n mới để phát triển thật sự hữu ích, cũng phải nhắm vào ngay giới trẻ Việt nam và đến cả những người ngoại quốc nữa.

 

VI. Kết Luận

 

Hiện tượng người Việt bỏ nước ra đi sau năm 1975 đă làm ngạc nhiên thế giới về mặt sự việc, nhưng có lẽ ít ai nh́n thấy về mặt tâm linh là hạt giống Bồ đề đă được tung ra từ Việt nam để “Chuẩn bị cho một thời đại mới”, với những bầy con Phật Tây tạng trên triền Hy mă Lạp sơn, cùng bầy con Phật dưới đồng bằng ḍng Cửu long giang đang lang thang khắp chốn, để gieo mầm giải thoát hầu chuyển hóa thế giới.

Trái đất của chúng ta đang bước vào một kỷ nguyên mới, một thời đại mà “khoa học thực nghiệm vật chất” cần đến sự quân b́nh của “khoa học chứng nghiệm tâm linh”, mà chỉ Đạo Phật là tôn giáo duy nhất có thể đáp ứng nhu cầu nầy.

Nhân loại đang tiến và c̣n tiến măi, đang mới và c̣n mới măi, không một cá nhân, một đoàn thể, một quốc gia hay một tôn giáo nào có thể cản được trào lưu tiến hóa này. Chúng ta, những người Cư sĩ Phật giáo hải ngoại xin hăy chuẩn bị tinh thần và giúp đỡ tư lương cho con cháu ḿnh nhập cuộc.

 Để kết thúc tôi xin kính tặng quư vị bốn câu thơ trong bài “Viễn Du” của tôi mang ư khoa học tâm linh để làm chút duyên gặp gỡ hôm nay:

 “Một hạt cát rung rinh vũ trụ,

  Một cánh hoa thắm cả ngàn thu,

Ḍng sinh hóa lúc tan, lúc tụ,

Cả Thiên hà vui cuộc Viễn Du.”

Vâng, thưa Quư vị hành trang đă đủ, phương tiện đă sẵn sàng, xin mời tất cả cùng với Vũ Trụ “vui cuộc Viễn Du”, vào thời đại mới... Thời Đại Của Phật Giáo và Khoa Học.                                  

 

California, ngày 06-03-2003

Mật Nghiêm ĐẶNG NGUYÊN PHẢ

(Trích từ trang mạng Từ Đàm Hải Ngoại www.tudamhaingoai.com )