NGÔ NGUYÊN DŨNG

 

 

Tên thật:  Ngô Việt Dũng

Sinh năm 1951 tại Sài G̣n

Du học và định cư tại Đức từ năm 1970.

 

Tác phẩm đă xuất bản:

-  Ḍng Chữ Tâm T́nh - Truyện, 1988

-  Mười Hai Hoa Cúc - Truyện, 1988

-  Đêm - Truyện, 1989

-  Tiếng Núi - Truyện, 1992

-  Chuông Đêm – 1992

-  Gia Đ́nh Cún – 1994

-  Âm Bản – 1995

 

a

 

 

CHỮ HẠNH

 

 

 

Người đàn ông trẻ đón ông Lâm Định ở phi trường nội địa thành phố D. đưa tay bắt, miệng cười vồn vă:

- Chào mừng giáo sư Lâm Định. Tôi là Andreas Moretti, người thường xuyên liên lạc với ông từ nhiều tháng qua. Ông vẫn khoẻ? Chuyến bay thoải mái, không có ǵ trở ngại chứ, thưa giáo sư?

Ông Lâm tươi mặt, cố nén cái đau đằm đằm vạch đường chữ thập trên phiến lưng:

- Rất hân hạnh được gặp anh. Tôi xin có lời khen ngợi, dấu giọng Việt ngữ của anh vô cùng tài hoa, hiếm người Âu tây đạt được tŕnh độ như vậy.

Câu nói khách sáo ông thường sử dụng mỗi lần chứng đau nhức khớp xương tới cữ hoành hành. Moretti cuốn vội tờ giấy cứng tô đậm mấy chữ tô dấu rơ ràng “Giáo sư Lâm Định”, cắp vào nách, dằng lấy cái xắc da nâu cũ từ tay ông giáo sư, bật tiếng cười ngắn:

- Giáo sư quá lời đó thôi.

Rồi anh nhỏ giọng ra điều quan trọng:

- Mà... mà biết đâu chừng, kiếp trước tôi là người Việt nam, thưa ông.

Ông Lâm cười xoà, thoáng đưa mắt quan sát anh thanh niên. Anh cao hơn ông nửa cái đầu, tóc nâu sẩm cắt ngắn. Màu mắt xanh cobalt trong vắt sau lớp kính gọng bạc thanh mảnh. Anh mặc sơ-mi dài tay xám nhạt, quần đen ủi nếp kỹ lưỡng. Thần sắc anh toát sáng nét thân thiện hiếm thấy ở người bản xứ mà ông Lâm đă tiếp xúc trong ngày hôm nay. Những gương mặt nhân viên đoan thuế lạnh băng. Những tia mắt vô cảm của mấy nữ tiếp viên chăm bẳm ḍ xét sau quầy nhận, trước màn ảnh máy vi tính, dè xẻn lời nói như thể phải trả chúng bằng một giá đắt đỏ.

Moreti cho biết xe anh đậu dưới hầm. Trong thang máy, anh nhẩn nhơ kể chuyện thời tiết:

- Giáo sư may mắn lắm đó, tuần trước trời c̣n đổ tuyết.

Ông Lâm không khỏi ngạc nhiên:

- Tháng năm mà c̣n rơi tuyết sao?

Moretti chép miệng:

- Khó ḷng biết được chuyện thời tiết xứ này, đặc biệt tại đây, một nơi nhiều núi đồi, thưa giáo sư.

Bất chợt anh bừng giọng hứng khởi:

- Vậy mà, như có phép lạ, chỉ sau một cuối tuần trời trở ấm, nắng ráo cho tới bữa nay. Tôi sẽ chỉ giáo sư xem đại lộ anh đào trên đường tới học viện. Tuyệt diệu không tả nổi.

Cách nói và điệu bộ của người đàn ông trẻ khiến ông Lâm háo hức, tưởng chừng quên đi cảm giác nhức buốt dửng dưng lan khắp thân người. Nhưng không thể. Thỉnh thoảng chúng lại nhói lên như có kẻ nghịch ngợm rạch đường dao lam lên từng lóng xương lỏng lẻo. Ông hỏi Moretti pḥng vệ sinh, bước nhanh vào, lấy ra lọ thuốc giảm đau, run tay mở nắp. Ông vốc nước ực liên tiếp ba ngụm, khép mắt định thần giây lâu. Ngẩng lên, khuôn mặt trong gương nh́n ông như kẻ lạ. Mái tóc hoa râm thưa sợi. Ba vạch nhăn ngang trán. Hai nếp gấp giữa cặp chân mày mọc sợi đen cứng, bừa băi, xen kẽ sợi bạc. Ông tự dặn ḷng, tối nay phải nhổ chúng đi. Nhưng làm sao ông bôi xoá được những đường nhăn, những đốm da mồi tuổi tác trên đôi g̣ má, lấm chấm dọc sống mũi? Và vô số ư nghĩ ngổn ngang dằn vặt tâm trí ông lâu nay về một chữ, chỉ một chữ duy nhất mà ông không thể định nghĩa rành mạch, xác đáng: chữ Hạnh.

Bưu tín từ nước ngoài đến tay ông vào một ngày mùa mưa tháng tám. Ngoại ô Sài g̣n bầm dập cơn mưa chiều xối xả. Thằng cháu nội chạy xầm xập lên gác, trao ông lá thư đẫm mưa lấm tấm. Ông Lâm bật đèn, lật qua lại phong b́ dán góc bưu hoa một xứ Âu châu xa xôi, giơ ra vũng đèn vàng ối. Thằng cháu c̣n đứng đó, xoe mắt ṭ ṃ. Tiếng trẻ con giỡn mưa trong ḷng hẻm lầy lội vang dội từng chặp. Nó, cũng như ông, dường như cảm nhận điều khác thường gói đựng trong phong thư lạ mắt này. Ông Lâm không mở thư đọc vội, ngoắt tay gọi cháu. Nó bước lại, ngoặt đầu lên đùi ông trên ghế gỗ như một con mèo đói. Ông không nhớ rơ, từ bao lâu rồi ông ít khi gần gũi chuyện tṛ cùng con cháu. Căn hộ chật, ba thế hệ. Từ dạo biết ḿnh vướng hội chứng suy nhược thần kinh hệ, ông Lâm bắt đầu ẩn dật trong chính chiếc bóng ḿnh. Ông luồn ngón tay vào đầu tóc rậm ŕ của thằng bé. Ông cháu thủ thỉ tṛ chuyện. Tiếng mưa sầm sập mái tôn lẫn tiếng sấm loé trời thỉnh thoảng cắt ngang câu chuyện. Trũng đèn chớp tắt run rẩy theo ḍng điện đứt đoạn. Có tiếng giục giă gọi tên thằng nhỏ. Nó ngấc đầu, phắt cái liến chân chạy biến. Ông Lâm tần ngần cầm phong thư, ngắm nghía hàng chữ người gửi, lờ mờ đoán hiểu. Ông rọc mạnh ŕa thư, gắn gọng kính lăo lên mắt...

- Chúng ta đang rẽ vào đại lộ anh đào, thưa giáo sư.

Ông Lâm chập choạng hé mắt. Cảnh không gian mở ra trước mặt, không phải ṿm mây ẩm mưa xám ngoét đất quê nghèo một ngày lê thê, mà trong vắt khung trời không một gợn mây. Và, đại lộ rợp hồng anh đào nhật bản một hàng thẳng tắp giữa ḷng đường hai ḍng lưu thông ngược xuôi. Giáo sư Lâm Định xoáy mắt ngắm, không chớp. Những cḥm hoa bụ bẫm, tươi rói thanh xuân kiêu hănh khoe dáng trong màu nắng vàng nơn. Ông lẩm bẩm:

- Một bữa tiệc thịnh soạn cho thị giác. Ngon ngoài sức tưởng tượng.

Moretti từ tốn:

- Giáo sư nói chi?

Ông Lâm cười xoà, bỡn cợt:

- Có khi nào cặp mắt anh được thiên nhiên dọn cho một bữa ăn măn nhăn như thế?

Người thanh niên hiểu ra, cười khẽ:

- Mỗi năm chỉ một lần. Mỗi lần chỉ dăm ba ngày.

- Đủ rồi. Trước kia bà Từ hy Thái hậu đăi đằng quan khách ba ngày ba đêm, ăn mệt nghỉ là vậy.

Chợt, Moretti rụt rè cất giọng:

- Có lẽ giáo sư đói bụng? Xin lỗi, tôi sơ ư.

Ông Lâm không khỏi cười lớn:

- Tôi ăn bữa điểm tâm trên phi cơ rồi, vẫn c̣n no, anh đừng lo.

Và ông buộc ḷng nghĩ tới mấy thứ cỏn con cất giữ trong xắc tay: cái bánh con nâu quánh gói giấy bóng, mấy túi giấy đường muối, hộp nhựa tí tẹo đựng mứt dâu tây, vài thỏi sô-cô-la. Ông định bụng, để dành những thứ này làm quà mọn cho lũ cháu loắt choắt. Biết ông được phép du hành ra nước ngoài, đứa nào cũng thỏ thẻ dặn ḍ. Ôi, những đứa trẻ ra đời sau 1975 chưa từng hít thở thứ dưỡng khí của một xă hội chưa bị ngôn ngữ của giáo điều ô nhiễm. Ông là một trong hàng ngũ trí thức đă một thời dốc ḷng tin tưởng vào tín nghĩa ẩn sau mớ từ vựng độc lập, tự do, hạnh phúc. Ông không phải đi học tập cải tạo. Nhưng ông thấy rơ hoàn cảnh sa sút và sa đoạ của đất nước. Đau ḷng nhất là biến chất của ngữ vựng. Những công tŕnh soạn thảo tự điển công phu không c̣n bao nhiêu giá trị. Đói không c̣n là trạng thái trống rỗng của dạ dày ba lần mỗi ngày, mà trở thành bản sắc khắc sâu vào ư thức, di truyền qua nhiều thế hệ, là nguyên nhân của mọi tệ trạng. Ông không ngạc nhiên, khi từ láo đương nhiên hàm chứa ba đầu chín tay quyền phép. Và một lần, bất chợt, ông thẫn thờ suy ngẫm về ư nghĩa sâu kín của chữ Hạnh.

‘‘Kính thưa giáo sư Lâm Định,

Học viện chuyên ngành văn hoá và ngữ học Đông Nam Á thuộc đại học thành phố D. dự định tổ chức hai ngày Lễ Hội Việt Nam vào mùa xuân năm tới. Qua lời giới thiệu của nhiều nhà ngữ học có uy tín tại đây, chúng tôi trân trọng gửi tới giáo sư lời mời tham dự buổi hội thảo về đề tài ‘Vai tṛ của Đông triết trong thời đại vi tính’. Ngoài ra, nhân dịp này chúng tôi cũng ước mong được giáo sư cho nghe một bài thuyết tŕnh khoảng mười lăm phút. Tất cả mọi phí tổn sẽ được chúng tôi đài thọ...’’

Ông Lâm đặt tờ thư mở toang hoác xuống mặt bàn, trật gọng kính dụi mắt định thần. Mưa vẫn sàn sạt bạo hành lên mái tôn. Lũ trẻ tắm mưa trững giỡn vô tư, rầm rập đuổi nhau trong hẻm chật. Giọng người la mắng, gọi khan. Lẳng tẳng đâu đó tiếng tây ban cầm một giai điệu không rơ. C̣i giao thông từ lộ chính cách đây một dăy nhà hớt hải đua chen. Trang thư giấy trắng tinh, những ḍng chữ trịnh trọng nhưng mạch lạc, ấn hiệu của học viện trên góc phải, cái tên của một người chưa hề nghe: Andreas Moretti. Lạ chứ. Một kẻ, không biết xuất xứ từ đâu, soạn một lá thư ẩn giữa những hàng từ ngữ khách sáo là một khối tâm t́nh tha thiết, như những cuống rún không thể ĺa xa nhúm đất chôn nhau khốn khó. Bóng đèn bàn viết điện yếu soi vàng mặt chữ. Ông Lâm vói tay rút pho tự điển bong gáy trên kệ. Những tựa sách hiếm quí, ông đă bao phen chật vật giấu giếm, theo ông sống sót sau nhiều đợt huỷ diệt văn học văn chương theo chỉ thị.

Ông Lâm tấm tắc không tiếc lời:

- Nếu tôi dùng chữ đẹp để tả cảnh đoạn đường này, nghe tầm thường lắm. Ngặt nỗi, ngôn ngữ cũng như chữ viết rất thường khi thiếu sót. Đành mượn cái này để nói cái kia, rằng nhăn quan tôi vừa trải qua cơn dục lạc tột đỉnh.

Moretti bật cười sảng khoái. Anh tỉ tê:

- Gần đây có thành phố lớn ăn chơi truỵ lạc nổi tiếng. Nếu giáo sư muốn, tôi sẽ đưa giáo sư tới đó một tối cho biết.

- Đúng, phải biết để c̣n về nước lớn lối khoe khoang với chúng nó một bận cho đă miệng. Bị dán keo lâu rồi!

Chàng thanh niên bản xứ chừng như hiểu ư, gật gù:

- Ra đây, giáo sư khỏi lo.

Ông Lâm trợn mắt:

- Lầm to, anh bạn ơi! Kiểm soát hết đấy! Tôi già rồi, được dịp bung một lần cho thoả.

Xe rẽ vào khuôn viên đại học chia lối ngăn nắp. Nhiều vườn cỏ dốc thoải lên đỉnh đồi nhấp nhô tầng kiến trức đồ sộ. Tháng năm, cây cành mơn mởn lộc non. Moretti giảm tốc độ tối thiểu, không ngớt thuật chuyện:

- Đại học chúng tôi giao hữu với đại học Tokyo. Hàng anh đào, giáo sư vừa thấy lúc năy, là của họ trồng tặng nhân lễ khai mạc mối giao t́nh. Thuở ấy tôi c̣n là sinh viên phân khoa ngữ học Á châu, mê chữ không thể tả. Mà không hiểu sao, phải là thứ chữ biểu tượng á châu mới thích. Rồi từ từ tôi chuyên ngành, chọn tiếng Việt. Có lư do hết đấy, thư giáo sư.

Ông Lâm c̣n dụ dự chưa kịp hỏi th́ Moretti đă lách xe vào ô trống trong băi đậu bên hông hàng cây chưa rậm lá. Ông bước ra, ngước mặt quanh quất. Hương hoa lạ, mùi nhựa cây và nắng mới lây lất, chan hoà. Nhiều dăy xe đậu xéo hai lối tráng nhựa dẫn vào toà chung cư năm tầng. Những ô cửa đồng dạng, cánh mở cánh đóng. Vài tia mắt ṭ ṃ quét dọc người ông, lúc ông cùng Moretti bước vào hành lang kê hàng hộp thư sơn xám. Moretti bảo ông Lâm đứng chờ, anh vào văn pḥng quản gia ghi danh nhận pḥng, lấy ch́a khoá.

Căn pḥng rộng vừa, chiếc giường đơn trải khăn trắng muốt, kê một bàn thấp và hai ghế mây lót nệm, một ghế gỗ thông cạnh bàn làm việc đặt trong góc, chụp đèn nâu có cần điều chỉnh, máy điện thoại sơn trắng. Ông Lâm c̣n váng vất trước sự vật sạch bóng, ngăn nắp th́ Moretti đă tới kéo màn cửa vàng nhạt, mở rộng khung kính.

- Đại học có riêng vài pḥng dành cho khách phương xa trong cư xá sinh viên, thay v́ mướn cho họ chỗ trọ trong khách sạn, có thể đầy đủ tiện nghi hơn, nhưng xa trường và không gần gũi với sinh hoạt của học viện.

Rồi anh đảo mắt một ṿng xem xét, nói như xin lỗi:

- Pḥng hẹp, nhưng yên tịnh và khoảng khoát.

Ông Lâm rối giọng:

- Không, không, ấm cúng thế này, tôi đâu muốn ǵ hơn.

Moretti xoa tay:

- Vậy, tôi xin phép cáo lui cho giáo sư nghỉ ngơi. Sáu giờ chiều tôi trở lại đón giáo sư đi ăn tối.

Anh c̣n chỉ ông Lâm chỗ kê tủ lạnh con đựng thức uống, vài cái tách úp ngược trong khay nhôm. Pḥng vệ sinh và bồn tắm gương sen hai ṿi lạnh nóng. Tất cả, đối với ông không lạ, nhưng mới sạch, gần như miễn nhiễm. Lúc ông tới cạnh khung cửa mở, trông ra, ṿm mắt choáng ngợp trước quanh cảnh bày biện. Thị giác lại thêm một lần no nê ảnh sắc. Pḥng ở tầng trên cùng. Từ đỉnh đồi nh́n xuống, đại lộ anh đào chỉ c̣n một vành hồng tươi vắt ngang những chéo khăn cỏ non đầu xuân. Trường đại học chia ra nhiều phân khoa, kiến trúc h́nh hộp lạ mắt, tường vôi nhiều màu khác nhau, rải rắc dọc ngang như những rương bê-tông khổng lồ đựng đầy năo bộ tri thức của nhân loại. Tin học và ngữ học. Vật lư hạt nhân và triết học cổ điển. Kinh doanh quốc tế và văn chương cận đại. Đối tính kề cận nhau, bổ sung, dung hoà. Không cấm đoán. Không tiêu diệt. Không xảo trá nguỵ biện bằng uy lực của quyền bính.

Ông Lâm khép cửa, thay quần áo, đi tắm rồi lên giường nằm. Cái mệt bấy giờ mớt thật sự ùa tới. Toàn bộ xương cốt ông nhói nhừ, rần rật ngh́n nghịt nọc kiến châm chích. Ông đă luyện tập, khắc phục nỗi đau bằng cách tập trung tư tưởng tại huệ nhăn. Chỗ đó, soi gương, rành rành hai nếp gấp thời gian. Đôi khi ông hoa mắt thấy chúng biến dạng thành đôi nét chữ Nho, không rơ nghĩa ǵ. Trí nhớ ông càng lúc càng tồi tệ, không thể giữ lại để ông ghi ra giấy, giở tự điển t́m ṭi. Cũng khởi xuất từ nguồn sáng bật phát từ lớp lớp cơn đau buốt xương rách thịt ấy, ông đă phát nghiệm đề tài cho mười lăm phút thuyết tŕnh vào ngày mai: ‘‘Chữ Hạnh trong tâm thức Việt hiện đại’’. Nghe qua, tưởng triết lư học thuyết ǵ mới mẻ, cao siêu. Thật ra chỉ là những suy tư lấn cấn, vật vă ông từ nhiều thập niên qua. Dịp này, không xuất ra, e trễ mất.
Ông ư thức ra điều này trong suốt thời điểm ông bị giam lỏng trong bốn vách nhà riêng. Mái tôn vách ván, cửa sổ một tấm gỗ mỏng, cửa lớn trổ ra ban-công có lan can gác chéo nhiều thanh gỗ tróc sơn xanh đỏ nhặt nhạnh đó đây, nhiều chậu kiểng con sần sùi thân nhánh nhưng cùi cụi rậm lá, dây ny-lông phơi quần áo, đồ lót ông tự giặt lấy. Bàn thuốc lào lạnh hơi môi, bị ông ruồng rẫy từ khi sức khoẻ tuột dốc. Bút, giấy chi chít ư nghĩ gạch xoá, sợ hăi giấu giếm mỗi lần nghe tiếng chân người kót két giẫm lên thang gỗ. Những khuya trằn trọc lắng đợi thời gian trở ḿnh, nghe tiếng mối mọt sột soạt gặm ṃn những trang chữ suy dinh dưỡng. Lũ cháu nội ngoại mớ máy những mơ tưởng thơm tho cổ tích. Đă nhiều phen ông bị mời ra cơ quan làm việc. Những câu hỏi dằn xốc. Liên lạc với ai ở nước ngoài? Bạn bè, thân nhân là những ai, làm ǵ, ở đâu? Đă trước tác những ǵ, khi nào? Đôi khi rắn giọng doạ dẫm, có lúc mật bùi hứa hẹn. Những lúc đó, nếu ông không định thị vào điểm sáng rực rỡ giữa hai chân mày, có lẽ ông đă xuôi tay tuân phục theo sức nén của áp lực. Chữ là một lẽ, niềm tin vào lương tri tuyệt đối là lẽ khác. Ông kiên tŕ bấu víu vào đó để tồn tại, chờ ngày phục sinh của chữ.

Tiếng chuông đồng hồ tay rón rén báo thức. Ông Lâm mở mắt, thấy nắng tháng năm c̣n lấp loé ngoài rèm cửa. Chiều nơi xứ lạnh khua khẩy những thanh âm từ tốn. Không phải giọng rao hàng khắc khoải suốt chiều dài con hẻm chật. Không nghe tiếng leng keng xe kem chằm chặp thúc bách. Giọng thiếu nữ thảnh thót hột vịt lộn hột gà vữa, đứt ngang ở âm ữa như một nốt nhạc què quặt. Đúng sáu giờ chiều, loa khuếch âm đầu hẻm lanh lảnh bản tin những thắng lợi siêu việt của nhà nước. Điệu nhạc lè rè ḍng điện câu. Lâu rồi, ông thấy nhớ tiếng chim dáo dác gọi bạn trong ṿm cây úa lá nghi ngại.

Cho tới một ngày, ông được phép qua đây thuyết tŕnh về một chữ đă ám tưởng tâm thức ông nhiều thập niên qua. Không ngớt. Lên đường một ḿnh. Nhưng không dáo dác, nghi ngại mà phấn chấn trong cơn đau ngấm ngẫm từng khớp xương theo ngần ấy độ ấm lạnh sai biệt.

Moretti lái xe qua phố lớn cách đấy gần nửa tiếng xa lộ. Trung tâm phân chia phố cổ phố tân rạch ṛi nhà cửa xây thấp, ngơ ngách chằng chịt trải đá xanh, những thánh đường kiến trúc kiểu la-mă cân xứng chặt chẽ với những cao ốc lắp kính màu tân kỳ, khu thị tứ san sát cửa hiệu hào nhoáng xa xỉ phẩm. Cạnh hải cảng là trụ điểm của truỵ lạc, chen chúc quán xá, hộp đêm, nhà chứa, kẻ bán người mua lạc thú nhốn nháo sau chín giờ tối.
Chiều sớm, nhiều quán rượu, nhà khách chưa thức. Moretti rảo xe chậm ngang, chỉ trỏ hài hước, giải thích. Rồi anh ngắn gọn kết luận:

- Chúng tôi đặt cái chơi trước cái ăn v́ vậy.

Ông Lâm nhỏ nhẻ:

- Th́ đă sao? Có khác nhau mới thú. Triết tây xưa kia lấy thượng đế làm nền, bây giờ dựa vào lư thuyết thực dụng. C̣n triết đông t́m cách bôi sạch ư thức, định nghĩa chân lư, cho rằng động vật và thiên nhiên hiện hữu hỗ tương... Ối, rắc rối. Sở học một đời người không thể nắm trọn.

Moretti cắc cớ:

- Thế sao người Á châu coi trọng miếng ăn?

Ông Lâm ngần ngừ:

- Không biết tổ tiên chúng tôi thuở trước nghĩ sao, chứ hiện giờ, dễ giải thích thôi. Tại đói!

Quán ăn trong phố cổ lợp ngói đá núi xám, tường vôi trắng, dọc ngang trục gỗ đen bóng khắc hoa văn sơn đỏ rượu chát, vàng lúa ḿ, xanh hồ thuỷ. Bàn ghế gỗ sồi vạm vỡ, đèn vàng ấm cúng, tranh sơn dầu cổ điển nhiều sắc nâu, khung nhũ vàng nhũ bạc sáng loáng. Hầu bàn trong đồng phục áo trắng quần đen, tạp dề lết phết lục sẫm.

Giáo sư Lâm Định cầm tờ thực đơn b́a da, lật đọc chăm chú một đỗi rồi gấp lại, cười lấp lửng:

- Tiếng Đức khó lắm, phải không anh?

Moretti gật đầu:

- Giáo sư uống thử loại bia đặc sản vùng này.
Cặp mắt ông Lâm sáng lên, lắng tai chăm chú. Moretti chậm răi t́m chữ:

- Bia và bánh khoai tây nướng với dồi thịt mỡ un khói, thức ăn dân giả miền Hắc Lâm, đậm đà không thể tưởng. Giáo sư thử nhé?

Ông Lâm hớn hở, quên tuốt mấy qui luật kiêng cữ do y sĩ căn dặn. Và tiêu chuẩn ẩm thực được lặp đi lặp lại ṃn tai: không bị cấm đoán thứ ǵ cả, nhưng càng ít càng tốt, bỏ hẳn là lư tưởng nhất. Ông dí dỏm so sánh với thứ luật pháp dị hợm ở xứ sở ông, tóm tắt vỏn vẹn chỉ mấy chữ: đừng tưởng bở!

Bữa ăn tối đáp ứng trọn vẹn lề ăn thói uống được Tản Đà tiên sinh ghi chép. Có nên thêm thắt cái hoa thị kèm mấy ḍng chú thích: câu chuyện cũng phải ngon? Mẩu tâm sự của Moretti bên lề bàn ăn đặt hai ly bia vàng sủi bọt trắng xốp, thẩu sứ khoai nướng hôi hổi thơm lừng hương gia vị kích thích ngũ giác, bắt đầu bất ngờ.

- Tính mê chữ Việt của tôi từ mẹ mà ra.

Ông Lâm ngừng tay xẻ bánh, nhếch mắt đăm đăm nh́n chàng thanh niên ngồi đối diện. Ông thích lối dụng ngữ của Moretti, là lạ bất chợt như cắn phải hạt lựu mỡ chài béo bở ẩn trong lớp khoai tây thái sợi, khen khét mùi khói, loáng thoáng vị đậu khấu đậm nồng gai lưỡi.

- Nghĩa là sao?

Moretti nâng ly bia, hớp ngụm đầy. Chút bọt trắng bám mép. Anh giơ khăn chặm, nét mặt không chút giao động. Ông Lâm đoán chừng anh đang lựa chữ thích hợp. Ông tiếp tục nhai nhằn những hạt thịt mỡ, chờ.

- Tôi là con nuôi của ông bà Moretti từ thuở sơ sinh, mẹ tôi kể vậy. Bà goá bụa ngót chục năm rồi. Cha tôi mất v́ chứng ung thư phổi. Không hiểu nổi, v́ ông chỉ hút x́-gà mỗi năm một lần sau bữa tiệc tân niên cùng họ hàng bên nội.

Bất giác ông Lâm liên tưởng hương thuốc lào loọc soọc sực nức căn gác giam hăm. Hai lá phổi buồn bă dưỡng khí, phần năo bộ căng thẳng cùng cực những tính toán mưu sinh. Sản nghiệp của ông, những trang chữ phế thải cần được chỉnh trang cho thích ứng với thời thế.

- Ông mất, để lại một gia tài lớn. Phần của tôi chỉ được hưởng khi tôi lập gia đ́nh...

Ông Lâm xen lời:

- Bằng không?

- ...sẽ được phân phát cho các cơ quan từ thiện. Phần của mẹ tôi được bà quyên tặng dồi dào cho phân khoa ngữ văn Đông Nam Á. Bà không khuyên, nhưng ư bà rơ ràng muốn tôi theo học ngành này.

Ông Lâm tươi tắn:

- Tôi phải cám ơn mẹ anh. Nhờ bà mà tôi được dịp rời nước một bận, quen biết anh, tạm quên nhiều nỗi bức bách trong cuộc sống.

- Ngày mai mẹ tôi tới nghe ông nói chuyện.

Ông Lâm cầm chéo khăn lau miệng, không nói. Khó h́nh dung dáng điệu một người đàn bà, lại là một người đàn bà tây phương trong kinh nghiệm của ông, ư thức của một người á châu suốt quá khứ vừa qua đă bị nhiều giáo điều bào ṃn không thương tiếc. Ông không biết nói ǵ hơn ngoài mấy lời giao thiệp nhạt nhẽo, lạnh tanh lớp mỡ đọng váng dưới đáy thẩu sứ.

Moretti hỏi ông có muốn trở lại góc phố truỵ lạc đang sửa soạn thức giấc. Ông Lâm cám ơn, xin được về lại pḥng trọ, nghỉ ngơi lấy sức cho ngày mai. Đêm sậm sật mê hoặc. Trời ngoài khung của xanh huyễn. Hơi lạnh không quen nổi gai da thịt, đóng đinh rách đoạn những lóng xương. Cảm giác nhức nhối rành rành loang ṿng mặt nước thần kinh hệ, cùng lúc là nỗi dật lạc của kẻ leo núi, vừa trèo tới đỉnh, lả người phóng mắt bao quát vùng bao la trước mặt. Khoảng khoát vô biên. Thấy ra tính hiện hữu của cá nhân ông có thật. Không c̣n là nhúm thịt xương vô dụng, trong một xă hội vô dụng, của ngày của tháng của năm vô ư nghĩa. Ông tưởng ḿnh có thể sờ nắm, sở hữu điều trừu tượng lẽo đẽo ám nặng tâm trí ông bấy lâu nay.

Ông uống thuốc, nằm đắp chăn lắng nghe tiếng đêm tan vào giấc ngủ chập chờn.


*

 

Mảnh vườn phía sau ngôi nhà trệt thoai thoải dẫn xuống lối đi hẹp, cạnh con suối lớp ngớp đá tảng. Bậc thềm lót thân cây cưa khúc. Hàng rào nguyệt quế lá lục bóng. Cây tỉa ngọn, tàn xoè cành đang độ đơm lá non. Vườn cỏ rực vàng thổ tiên. Tượng Phật đúc xi-măng thiền toạ bên bụi mẫu đơn trổ nụ mũm mĩm. Ao nước con chỗ mặt cỏ phẳng, róc rách ḍng nước len lỏi ḥn non bộ đắp sỏi vụn. Chiều tây phương sẩm bóng lướt thướt trong vườn nhà đông phương goá bụa. Giáo sư Lâm Định được Moretti đưa tới đây theo lời mời của mẹ anh.

Lúc Moretti giới thiệu bà với ông Lâm trong lúc nghỉ giải lao sáng này, ông không khỏi sửng mặt ngạc nhiên. Không phải một người đàn bà tây phương như ông tưởng mà là một phụ nữ á đông mảnh khảnh nói tiếng Việt. Bà chắp tay lễ độ:

- Hân hạnh được biết giáo sư.

Ông Lâm lúng búng:

- Chào bà... bà... Moretti.

Người đàn bà chúm chím:

- Tôi không biết Andy đă kể những ǵ với ông, chắc không nhiều?

Moretti bật tiếng cười to:

- Khá nhiều, thưa mẹ. Chỉ có điều, mẹ là người Việt nam, con không tiết lộ.

Ông Lâm vỗ nhẹ vai Moretti:

- Tôi có lời khen lần nữa cách sử dụng Việt ngữ của anh, tài hoa lịch thiệp, không giống ở trong nước.

Moretti thoáng đỏ mặt, ngượng ngập choàng tay qua vai mẹ:

- Giáo sư phải khen mẹ tôi mới đúng.

Người đàn bà tha hương luống tuổi ấy, bây giờ, đang ngồi cách giáo sư Lâm Định một mặt bàn gỗ thông dưới mái hiên trông ra cảnh vườn sau đẫm bóng tối sáng. Tách trà bốc khói thơm thanh thoát. Dĩa bánh hạnh nhân xếp cánh sao. Lọ hoa thổ tiên vàng mởn, sắc vàng hiếm thấy ở xứ nhiệt đới. Chiều tà khoả hơi mát lạnh. Bà Moretti khoác áo len mỏng màu lam nhạt, gương mặt không trang điểm trắng xanh, màu mắt nâu rợn tia sáng lạ thường, tuôn ra luồng giao cảm tin cậy, thân cận.

Bà nâng tách trà, thủng thẳng hớp ngụm. Ông Lâm khơi chuyện:

- Khung cảnh nơi đây thanh tịnh, đậm đà thiền vị, cho thấy chủ nhân phải là người có nội tại vô phân biệt với ngoại giới.

Người đàn bà mỉm cười:

- Nhà tôi rất thích ăn thứ bánh này, nướng bằng hạnh nhân Thỗ-nhĩ-kỳ xay nhuyễn, gia vị thêm chút bột quế. Mời giáo sư dùng thử, xem có cạnh tranh nổi với bánh hạnh nhân thuần tuư ở quê nhà.

Miếng bánh vỡ gịn khứu trong miệng người đàn ông, rồi tan theo hớp trà thơm vừa vặn. Ông gật đầu khen ngợi, chữ toả khói qua rănh môi. Ông văn hoa so sánh, người tây phương có thói quen uống cà-phê c̣n dân á châu uống trà khi ăn bánh, cả hai thức uống đều là sản phẩm thiên nhiên, cà-phê hiếm khi được uống thô, c̣n trà pha sao uống vậy. Chủ quan mà nói, lẽ đó mà trà gần với thiên nhiên hơn, lại là một nơi khí tiết tươi mát, cỏ hoa thi vị thế này.

Thần sắc bà Moretti trở nên lăng đăng:

- Ngôi nhà và cảnh vườn này cho tôi nhiều kỷ niệm khó quên.

Tuy bà không nói ra, nhưng ông Lâm nghĩ rằng, ư bà muốn nhắc tới thời quá khứ hạnh phúc với người bạn đời đă ra đi. Tự dưng ông rùng ḿnh tưởng ra, tách trà này, chỗ ngồi này, vùng khí quyển này trước đó thuộc về một người đàn ông khác. Giờ, chỉ c̣n lại những mảnh quế vong lạnh lẽo đây đó.

Giáo sư Lâm Định muốn biết, thế c̣n đất nước Việt nam th́ sao?

Bà Moretti ngập ngừng:

- Nhẩm lại, khoảng thời gian tôi tha hương đă dài hơn hai mươi mốt năm tôi sống ở quê nhà. Từ đó tới nay có nhiều thay đổi như bàn tay úp ngửa, nhân tính cũng như ngoại cảnh. Tôi không... không... dám chắc ḿnh c̣n có thể thích nghi với môi trường mới.

Ông Lâm lư luận:

- Dù úp ngửa cách nào cũng là bàn tay ḿnh, thưa bà.

Mà Moretti cười lửng lơ:

- Chính điều đó làm tôi đau ḷng. Một khi chữ Hạnh không đủ sức cản trở th́ bàn tay hoá thành một thứ khí giới nguy hiểm. Sáng này giáo sư đă không thuyết tŕnh như thế hay sao?

Ông Lâm tủm tỉm:

- Tôi cứ tưởng không ai chú tâm tới bài nói thiếu thực tế của một ông già đang ḍ dẫm bàn chân vào cỗ áo quan. Chỉ thấy hiện diện vài khuôn mặt trẻ. Tôi ngại rằng họ không hiểu ư tôi nói ǵ.

- Không đến nỗi như vậy. Chứng cớ là Andreas, con trai tôi, thưa giáo sư.

Ông Lâm tở mở:

- A, người bạn vong niên nói tiếng Việt lưu loát dấu giọng, hiếm thấy ai được như vậy.

Giọng người đàn bà rộn ràng hănh diện:

- Nó chính là biểu tượng của một quê hương Việt nam c̣n nặng ḷng với thói ăn nết nói của tôi nơi đất trích.

- Lẽ đó mà bà vẫn giữ được những tâm t́nh rặt ṛi Việt tính.

Trong nước, hiện nay, đâu c̣n mấy ai.

Vừa khi ấy, vẳng lại trầm trầm hồi chuông giáo đường gióng lễ chiều. Ánh ngày nấn nán vài đốm nhợt nhạt lên mặt đất. Vành chân trời phương xa thấp thỏm bức xạ đỏ lườm tia sáng. Bấy giờ ông Lâm mới nhận thức âm suối bền bĩ len lách. Tàn cây đổ bóng loằng ngoằng lên vườn cỏ nghiêng vai cạnh lối đi tráng nhựa uốn lượn thân rắn. Bà Moretti đứng lên cất tiếng xin lỗi. Lát sau, từ nhà trong hắt ra ánh đèn vàng ấm. Hương nhang nhè nhẹ lan qua khung cửa mở, như mời mọc bóng quế người khuất mặt trở về. Sống lưng ông Lâm rạch đường lạnh âm dương cách trở, khiến ông nhớ ra nỗi đau toa rập hành xác mỗi chiều. Cơn đau chiều nay rất khác mọi ngày. Lạnh mà không nhức buốt. Không bén ngót lưỡi dao bổ cau cứa sâu mà như thể có đầu móng tay ai ấn xuống cột tuỷ ông, xao động những ṿng cảm giác nhớn nhác của viên sỏi vừa ném xuống mặt nước không rơ độ sâu. Loe rộng rồi mất biến trong từng lỗ chân lông. Ông Lâm run tay nâng tách trà đóng váng lợn cợn. Tia sáng ngọn đèn hiên nhà rơi rớt, t́nh cờ loè nhoè một gương mặt. Không phải của ông. Diện mạo sóng sánh đáy trà lạnh hơi người, lạ lùng nhưng không xa cách. Trái lại, dường như ông đă thoáng thấy nét mặt ấy đâu đấy một lần rồi. Chợt, một tiếng mơ se se trong vắt loang vào không gian huyễn hoặc. Thanh âm như mũi nhọn chích vào mặt người trong tách nước, nứt mảnh tan vào lớp men mỏng mảnh, không bền của kiếp người.

Giọng đàn bà mềm mại cất lên:

- Xin lỗi đă để giáo sư ngồi một ḿnh ngoài hiên lạnh. Chiều nào tôi cũng thắp nhang, gióng mơ bàn thờ cho nhà tôi. Hôm nào quên, ông ấy nhắc.

Một đường rợn buốt sống lưng người đàn ông.

- Sương đă xuống lạnh, mời giáo sư vào nhà trong, tôi sửa soạn bữa cơm tối.

Rồi giọng bà Moretti rực màu:

- Adreas có nói sẽ tới muộn. Chương tŕnh buổi chiều theo dự định, tám giờ mới xong. Nó dặn tôi đừng chờ.

Ông Lâm đứng lên, ra bậc thềm, soi mắt nh́n cảnh hoàng hôn bàng bạc sương mỏng. Nắng tắt theo độ sâu của bóng tối. Con suối vẫn đều đều giai điệu thuỷ chung. Ông lẩm bẩm như nói với riêng ḿnh:

- Vậy mà tưởng nhà có thêm khách.


*

 

Khoảng thời gian sau đó, về lại quê hương, có khuya giáo sư Lâm Định lại rúng người tỉnh ngủ. Độ ẩm và sức nóng của ngày sót đọng mái tôn, tươm mồ hôi chăn chiếu. Hơi gió yếu ớt đưa lại mùi rác rưởi hôi hám. Mùa nắng năm nay oi bức khác thường. Bụi không rơ từ đâu thốc tháo ngập không gian. Có người cho đó là hậu quả của ngọn núi phún lửa bên đảo Java. Sài g̣n, một tổ ṭ ṿ vĩ đại, nhớp nháp đầy mật bụi.

Đèn ngoài hẻm hắt lặt ĺa bên khung cửa mở bung. Tiếng ngáy của vài đứa cháu ngủ chung giường kḥ khè chen nhau. Ông Lâm vạch mùng, tới bàn viết bật đèn, xoè diêm châm ṿng nhang xua muỗi đặt dưới chân. Ông đeo kính, giở quyển tập kư chép, nâng bút ghi tiếp đoạn hồi ức dở dang, dập xoá rối rắm.
‘‘...Bộ chén đũa và khăn ăn dành cho người khách thứ tư trong bàn cơm tối nhà bà Moretti hôm đó không người đụng tay. Ghế bỏ trống. Andreas tới lúc chúng tôi bắt đầu món tráng miệng. Nét mặt anh sẩm mệt nhưng tia mắt tươi sáng ánh nến ba ngọn. Bà Moretti vào bếp hâm lại thức ăn. Có xúp cà chua đậu hũ thơm lừng ng̣ ta, cơm với nấm rơm xào măng sốt Tứ xuyên, tráng miệng bằng chè bánh trôi chay nước đường thẻ. Toàn những món thanh vị. Bà chủ nhà cho biết, từ lâu rồi bà không đụng đũa tới thịt cá. Không hẳn chỉ v́ lư do tín ngưỡng mà v́ bà đă ư thức rơ ràng lợi hại của thực phẩm. Andreas vừa ăn vừa nhũn nhặn bàn chuyện. Những đề tài của buổi thuyết tŕnh sáng nay rất độc đáo, thú vị. Ba chuyên gia từ Đông Nam á với ba chủ đề tưởng lỗi thời nhưng vẫn c̣n thích ứng tuyệt đối với thời đại vi tính hiện nay. Anh làm tôi nghĩ tới vị học giả đến từ Vạn tượng đă luận bàn vừa vặn mười lăm phút về không tính trong Phật học. Người dịch thuật không tránh khỏi lúng túng nhiều đoạn trong máy nghe. Thoạt đầu Andreas lo ngại, nội dung đề tài quá phức tạp, ít ra đối với những bạn trẻ thuộc thế hệ lưu vong thứ hai. Nhưng vị giáo sư Lào, vóc người nhỏ thó, nước da nâu sạm, đă linh hoạt dụng ngữ b́nh dân, gần như khinh suất. Ông so sánh tính đối đăi của Phật triết với mô thức có không căn bản của tin học hiện đại. Con người cần có sức công phá siêu việt của một loài vi khuẩn điện tử cực kỳ thông minh để huỷ diệt toàn bộ hệ thống, xoá sạch, t́m cách đạt tới chân lư tuyệt đối. Rồi ông xuống giọng, ít ra trong khoảng thời gian lắp ráp lại tầng cấu trúc có không của mạng lưới điện tính. Vài tiếng cười vang lên rắc rải, chứng tỏ có người hiểu ư. Điều này khiến Andreas vô cùng phấn khởi, đă không phí sức chuyển bị đằng đẵng hơn nửa năm trời chỉ cho hai ngày cuối tuần. Bà Moretti ngồi lắng tai chăm chú. Tôi để ư thấy bà đôi lúc choàng tay đặt lên lưng ghế trống bên cạnh. Cung cách bà âu yếm kỳ lạ, như thể thanh gỗ vô tri là bờ vai gần gũi, thân quen. Chén cơm xới lưng lạnh lẽo hương lửa. Vai ghế ám đọng hơi ấm tay người. Sóng mắt người đàn bà lặng lờ mặt nước mùa lặng gió. Andreas thỉnh thoảnh lại xoay người, nắm tay mẹ lắc nhẹ như muốn lay thức bà ra khỏi cơn mê bất chợt. Bà Moretti góp ư, giọng thản nhiên không ngờ: Nghe các ông chuyện văn tưởng như mấy mươi năm chiến tranh kinh hoàng hoàn toàn không có. Vậy mới biết, con người là một sinh vật có khả năng sinh tồn dai dẳng, dám chừng hơn cả loài gián. Andreas gọi khẽ, mẹ ơi... Giọng anh lệch đi, nghe như ‘mè ơi’, buộc tôi phải nghĩ tới những hạt mè rang bùi bẳm trong chén chè men trắng. Những viên bánh bột nếp vo tṛn, cỡ đầu ngón tay cái, lấp lửng trắng đục trong ngấn nước đường nâu sánh, thơm ngát hương gừng non, xoáy ṿng nước cốt dừa trên mặt. Và lấm tấm hạt mè rang ray rứt mảnh vụn cổ tích quê hương, mộc mạc đằm đằm giấc ngủ ấu thơ qua giọng kể của bà.

Tất cả những hương vị thuần gạo nếp quê nhà cớ sao tồn tại ở một nơi quạnh quẽ đất Âu châu ấy? Trong khi ngay trên đất quê hương, khó t́m lại. Có phải đó là ư nghĩa thầm kín của chữ Hạnh với đất, với những nặng nợ cưu mang, với cả hồn ma người phối ngẫu không cùng màu da, ngôn ngữ? Tôi nghĩ ḿnh đă thoáng gặp bóng quế ông Moretti hiện về trong chén trà chiều hiên nhà.

Trên đường về lại chỗ trọ, Andreas tỏ ư lo ngại cho sức khoẻ của mẹ anh. Những lúc gần đây, anh cho biết, anh nhận thấy hành động và cách nói của bà lộ vài dấu hiệu khác lạ. Bà ngủ ít, dỗ giấc thường xuyên bằng tiểu thuyết, thỉnh thoảng c̣n uống thêm thuốc an thần. Những liên hệ bè bạn thưa dần. Bà chỉ rời nhà để lo liệu những chuyện cần thiết. Điều làm anh bận tâm nhất, bà thường kể chuyện gặp lại cha anh. Andreas ngỏ lời, sẽ sắp xếp để về sống chung với mẹ. Tôi tán đồng ư kiến này. Tôi thấu hiểu tâm trạng cô đơn của bà Moretti hơn ai hết. Một ḿnh trong ngôi nhà ngập ngụa vết tích của một thuở như đũa có đôi. Tôi, một kẻ c̣n nguyên vẹn người thân, quê hương, ngôn ngữ vây quanh. Ngặt nỗi, chúng đă trở nên què quặt, chỉ v́ thiếu sót mỗi một chữ Hạnh.’’

 

(tháng 8.2006)

 

oOo

 

 

 

MỌT TƯỢNG

 

Sư cụ cho gọi chú tiểu Bửu vào, nói:

- Con tới đây làm công quả đă lâu, hạnh tu coi như đă có, nên thầy muốn nhờ con một chuyện.

Tiểu Bửu cung kính xá:

- Thưa thầy, con xin nghe.

- Con biết, chùa ḿnh dọn từ Mai Sơn về đây đă nhiều năm mà vẫn chưa thỉnh được tượng Quán Thế Âm theo. Nay, t́nh thế tương đối yên ổn trở lại, thầy muốn con tới chùa cũ thỉnh về, có được chăng?

Tiểu Bửu bối rối:

-    Dạ, được... nhưng...

-    Nhưng sao?

-    Không biết con có đủ sức vượt qua mọi khó khăn, hiểm trở.

Sư cụ điềm nhiên:

- Con cứ thơi thả mà đi, coi đó như đường tu hành, thong dong buớc, thế nào cũng tới.

Tiểu Bửu cúi mặt:

- Thưa thầy, con không ngại đường xa cách trở mà ngại ḷng ḿnh chưa đủ đạo hạnh để thỉnh tượng về đây.

Sư cụ cười khoan dung:

- Đáng lẽ chuyện này là của thầy, nhưng thầy biết sức ḿnh hết kham nổi thử thách ngoại cảnh, nên phải nhờ tới con, người mà thầy hết dạ tin tưởng.

Tiểu Bửu xúc động rơm rớm lệ:

- Thầy đă nói vậy, con xin tuân.

Rồi từ đó cho tới ngày lên đường về lại Mai Sơn tự, không đêm nào tiểu Bửu yên giấc. Chú cứ trằn trọc mơ tưởng về chuyến đi sắp tới. Tiểu Hạnh, bạn đồng tu, gọi đó là ‘‘sứ mạng cao cả của Tề Thiên đại thánh”, và lộ vẻ ganh tị ra mặt. Tiểu Bửu phải an ủi: ‘‘Chú c̣n nhỏ, thầy đâu dám nhờ.” Tiểu Hạnh hờn dỗi: “Sao thầy không cho anh em ḿnh đi chung cho có bạn?” Tiểu Bửu cười khẽ: ‘‘Phải có người ở lại chăm sóc thầy và lo chuyện chuông mơ chớ.” Dẫu hiểu, nhưng tiểu Hạnh vẫn ấm ức trong bụng. Tiểu Bửu biết vậy, nên ít khi đem chuyện đi thỉnh tượng ra nói.

Tội nghiệp, tiểu Hạnh là trẻ mồ côi, được thân nhân gởi vô chùa từ năm sáu tuổi. Không những tiểu Bửu có bổn phận dạy học cho tiểu Hạnh, mà c̣n chỉ vẽ nó cách quán xuyến chuyện chùa chiền như nấu cơm, giặt giũ, lau chùi hay gióng chuông và thắp nhang đèn cúng Phật mỗi thời kinh sớm chiều. C̣n nhỏ, nên tiểu Hạnh ham chơi hơn thích làm. Mỗi năm tới mùa dế, nó ra ruộng bắt vài con đem về nuôi trong hộp thiếc, giấu dưới ụ rơm ủ nấm. Khi bị tiểu Bửu bắt gặp đang chơi đá dế, nó ngỏn ngoẻn cười nhận lỗi. Tiểu Bửu không la mắng hay ngăn cấm chi, chỉ ôn tồn giải thích. Một hôm, chú bắt gặp tiểu Bửu ngồi khóc lặng lẽ bên ao nước. Hỏi sao khóc, nó rấm rứt: “Em vừa thả mấy con dế ra ruộng.” Tiểu Bửu cảm động lây, đặt tay lên vai bạn: “Làm một việc thiện, lẽ ra phải cười, sao lại khóc?” Tiểu Hạnh ngước mặt cười mếu, lộ hàm răng sún. Nụ cười ấy, tiểu Bửu suốt đời không bao giờ quên.

Thỉnh thoảng sư cụ lại vui miệng kể chuyện phong cảnh Mai Sơn cho hai chú tiểu nghe. Rừng núi ấy, như tên gọi, có nhiều mai dại. Không hoàn toàn giống như mai chưng vào dịp đầu năm, dă mai có cánh hoa thuôn dài, hơi úp, mau nở mà cũng chóng tàn. Hằng năm, tới độ mai măn khai, sáng ra suối múc nước, thấy lưng núi đơm rực hoa vàng. Chiều hôm rịn sương, tưởng như có bầy hoàng hạc từ tây phương trở lại thăm chùa. Tiểu Bửu ghi đậm h́nh ảnh thơ mộng ấy vào tâm. Để đến hôm nay, chú cứ thẩn thơ mộng mị cảnh rừng mai trong chiều sương toả.

So với phần số tiểu Hạnh, tiểu Bửu may mắn hơn, v́ c̣n mẹ và bảy anh chị em. Tháng chạp năm nào mẹ cũng tới thăm tiểu Bửu. Quà cáp mẹ mang, toàn những thứ tiểu Bửu hảo ăn như bánh hạnh nhân, bánh chuối hấp và thật nhiều bánh ít bột khoai ḿ. Chú biết, thật ra đó chỉ là cái vui tạm, sự có mặt của mẹ mới là niềm vui chính. Mẹ là cái gạch nối ấm áp cuối cùng giữa chú và thế tục bên ngoài. Mẹ nán lại chùa vài ngày, phụ làm công quả. Lâu rồi, mẹ không c̣n nhắc tới cha, người mà mẹ kể đă tập kết ra Bắc từ năm 1954. Cũng lâu rồi, tiểu Bửu không c̣n hỏi mẹ lư do tại sao mang chú gởi cho chùa. Tiểu Bửu đă bắt đầu cảm thọ nhịp sống tu hành. Dù vậy, tới lúc mẹ con chia tay nơi bến đ̣, tiểu Bửu không khỏi sa nước mắt. Chú chờ bóng con đ̣ khuất dạng sau lùm cây và mặt nước im sóng mái chèo, mới quay lưng lầm lũi, mắt lệ ngắn dài. Thuở ấy chưa có mặt tiểu Hạnh. Trong những buổi tiễn đưa về sau, có tiểu Hạnh bên cạnh, tiểu Bửu cố ngăn nước mắt. Rồi cũng tới lúc, chú không c̣n khóc khi từ giă mẹ nữa, chỉ buồn. Buồn trong những lần bóc bánh ra ăn. Rưng rưng tưởng lại tiếng chân mẹ quạnh quẽ trong sân chùa lót gạnh tàu. Và đậm đà biết mấy món canh bí mẹ nấu dâng Phật rằm tháng chạp.

Tiểu Bửu xoay lưng, hé mắt nh́n ra liếp cửa vằng vặc trăng soi. Đêm nay cũng rằm. Tiểu Bửu khó ngủ, mơ vá quàng chuyện này chuyện nọ. Tự dưng chú cảm thấy nhiệm vụ sư cụ giao phó gian nan quá. Đường từ đây lên Mai Sơn tự non mười cây số, nhưng phải đi bộ, v́ không có lối sông. Đi về ít nhất hai ngày. Tiểu Bửu định ở lại chùa cũ một đêm một ngày để ngắm cảnh hoa cho măn nhăn. Không biết, sau mấy năm chinh chiến, cảnh vật có c̣n như xưa? Có c̣n những cội mai hoá long ngủ quên lưng chừng núi? Có c̣n những hoàng hôn, bầy công núi bay về đậu trên cḥm sứ trắng đợi nghe chuông? Có c̣n bóng trăng thuỷ ngân soi trong lu nước ngậm bông sứ mỗi đêm rằm? Tiểu Bửu rợn người tưởng ra bàn tay ai thon muốt đẩy giạt lớp hoa, vốc làn nước thơm rẩy lên tượng Phật. Ngón tay dịu nhiễu, mềm mại. Mặt nước run gợn sinh thú. Hương hoa chập chờn vọng tưởng. Tiểu Bửu giật ḿnh nhận ra đó là bàn tay con gái.

Bên cạnh, tiểu Hạnh nẩy người, ú ớ mê sảng.

 

*

 

Tiểu Bửu sắp bầu nước lọc, hai củ khoai luộc, đ̣n bánh tét nhưn chuối, quyển kệ mỏng và cái xẻng con vào bọc vải. Tiểu Hạnh lăng xăng dặn ḍ:

- Chú đi, nhớ về sớm. Đừng quên cái chăn bông!

- Lâu lắm là ba ngày.

- Chú đem theo bao nhiêu đó thức ăn, đủ không?

- Đủ rồi. Nếu thiếu, dọc đường chú hái trái ăn thêm. Khát th́ uống nước suối. Thầy bảo, có ḍng suối bắt nguồn từ dăy Trường Sơn, vắt ngang lưng núi.

Tiểu Hạnh hít hà:

- Chú sướng hơn em.

Tiểu Bửu cười mỉm:

- Tại tiểu Hạnh không biết, chớ chú lo lắm, sợ ḿnh không làm tṛn bổn phận.

Tiểu Hạnh thắc mắc:

- Không hiểu sư cụ thỉnh bức tượng đó về làm ǵ? Sao không đặt làm tượng mới, lớn và đẹp hơn?

- Sao em biết tượng cũ nhỏ và xấu?

Tiểu Hạnh nhăn nhó giải thích:

- Xấu th́ em không dám nói, nhưng chắc chắn là nhỏ và xưa cũ lắm rồi.

- Quí v́ cũ xưa đó em. Bây giờ tượng là một món cổ ngoạn hiếm có.

Rồi tiểu Bửu trầm ngâm cất giọng:

- Theo lời sư cụ, vài năm trước ngày chia đôi đất nước, lúc t́nh thế c̣n hỗn mang, một hôm có anh thanh niên ghé ngang Mai Sơn tự xin tá túc một khoảng thời gian. Anh ta là thợ mộc, biết đẽo khắc tượng gỗ. Sư cụ không nhờ, nhưng ngày nọ, anh vào rừng vác về một khúc gỗ huỳnh đàn. Thế là suốt buổi anh ta cày cục nâng niu đẽo thành tượng Phật. Trước đó anh ta c̣n kỹ lưỡng ngâm gỗ trong nước bông sứ. Hỏi để làm ǵ, th́ anh bảo, có vậy gỗ mới dẻo dai bền vững với thời gian và lúc nào cũng thoảng hương hoa. Sau vài tuần, anh hoàn tất bức tượng. Sư cụ bảo rằng, chưa thấy tượng Phật nào có thần sắc từ bi nhân ái như thế. Tượng nhỏ thôi, chừng ba gang tay, vậy mà chỉ cần nh́n qua diện mạo, đă thấy cái tâm vô biên vô lượng hiện ra rành rành. Cho tới đêm nọ, chàng thanh niên xin phép sư cụ rời chùa, rồi không thấy trở lại như đă hứa. Khi chiến tranh tràn lan, sư cụ nhờ người chôn giấu bức tượng bên cội bông sứ sau chùa. Hôm tản lạc về đây, quên đem theo. Bây giờ tính lại đă gần mười năm, mau thật.

Tiểu Hạnh thở ra, hỏi:

- Không biết anh thanh niên ấy làm ǵ, quê ở đâu?

- Sư cụ không nói, chú cũng không hỏi. Mà biết, có ích chi?

Tiểu Hạnh đoán xa đoán gần:

- Chắc anh ấy làm chuyện đại sự, không muốn cho ai biết.

Tiểu Bửu cười nhẹ:

- Ờ, sư cụ c̣n kể thêm, theo lời anh ấy dặn, muốn cho tượng có thần sắc, phải ngâm gỗ trong nước in bóng trăng rằm ba đêm.

- Rủi nhằm bữa trời xấu, không trăng th́ sao?

Tiểu Bửu nhăn mặt, nói như trách:

- Th́ chờ mùa trăng sau, có vậy cũng hỏi.

Tiểu Hạnh cười lỏn lẻn:

- Em hỏi cắc cớ cho vui vậy mà.

- Người đó có căn tu mà chưa gặp duyên đó thôi.

Nét mặt tiểu Hạnh đột ngột sa sầm:

- C̣n em?

Tiểu Bửu đặt tay lên vai bạn:

- Nếu em không có căn tu, đă không lạc tới nơi này.

- Vậy mà chú cứ trách em là đứa có căn chơi chớ không phải căn tu.

Tiểu Bửu cười xoà:

- Đôi lúc chú thấy em ham chơi, xao lăng chuyện tu tập, nên nói vậy chớ không có ư trách mắng.

Tiểu Hạnh thỏ thẻ:

- Mà em ham chơi thật. Nhiều khi ra chợ, thấy mấy đứa trạc tuổi chơi đánh đáo, bắn bi, đá dế, đá cầu, tạt lon, tạt h́nh, em ham quá. Chú tiểu Bửu nè, rủi sau này em... em... bỏ chùa đi như anh thanh niên nọ, chú có buồn không?

Tiểu Bửu ngừng tay sắp, nhíu mày nh́n tiểu Hạnh một chặp, không đáp, rồi thắt chặt bọc vải vào đầu đ̣n sóc, quẳng lên vai gánh thử. Có tiếng sư cụ ho khan từ buồng bên. Tiểu Bửu vội ngó ra sân, thấy bóng cây hoàng lan ngả về đông từ khi nào chẳng hay. Mải tṛ chuyện, hai chú tiểu suưt quên thắp nhang đèn cho tuần kinh tối.

 

*

 

Tiểu Hạnh đưa tiểu Bửu tới cuối lộ đất. Nơi đó, con đường rẽ thành hai nhánh, phải về hướng Mai Sơn, trái ra chợ làng. Lối phải ít người léo hánh, đường hẹp, cỏ lau mọc đầy hai bên, cao xấp xỉ tiểu Hạnh.

Tiểu Bửu đặt đ̣n sóc xuống cỏ, nheo mắt ngó quanh:

- Trời nắng ghê.

Tiểu Hạnh bặm môi lặp lại lời nhắn cũ:

-    Chú đi, nhớ về sớm.

Tiểu Bửu xoa tay lên chỏm đầu lởm chởm chân tóc của tiểu Hạnh, cười nói:

- Về, chú sẽ cạo tóc cho em. Thôi, chú đi.

Hai mắt tiểu Hạnh long lanh:

- Em có nhét vô bọc cho chú lọ dầu gió.

Tiểu Bửu xúc động:

- Em về đi!

Tiểu Hạnh lắc đầu nguầy nguậy:

- Không, chú đi khỏi, em mới về.

Tiểu Bửu quẩy đ̣n sóc lên vai, trước khi dợm bước, c̣n dặn ḍ:

- Nhớ tưới rau và lo chuyện nhang đèn hộ chú!

Tiểu Hạnh khum tay che nắng, dơi theo bóng tiểu Bửu nhấp nhô thoăn thoắt giữa cánh đồng cỏ lau, ḷng cô quạnh mênh mông.

Hôm nay, như mọi ngày mùa khô, nắng tràn rực rỡ. Đi được quăng ngắn, tiểu Bửu lại dừng chân, lấy nước ra uống. Càng lên cao, cảnh sắc càng ngoạn mục. Cỏ bông lau xen với bông thẩu dại, rờn rợn cánh đỏ. Đă thấy cây to vươn cành, rợp bóng mát. Lâu lâu lại nghe tiếng gà rừng thấp thỏm kêu lẻ. Mây trời nổi vân hoành tráng, tựa như bức tranh tàu. Giữa trưa, tiểu Bửu xót dạ, dừng lại nghỉ chân bên gốc cây non. Ăn xong củ khoai luộc, hớp vài ngụm nước lọc, tiểu Bửu khép mắt định thần toạ thiền. Không được lâu, đă bị tiếng chim gọi tỉnh. Tiểu Bửu dáo dác ngước mặt. Một con quạ núi dang cánh lượn ṿng trên không, buông tiếng hốt hoảng như vừa đánh mất vật ǵ. Bóng chim quét chập chợn lên cánh đồng chan nắng. Câu chuyện nhà sư hoá thành con chim áo dà suốt đời sục sạo bay t́m trái tim tướng cướp chờn vờn hiện ra trí tiểu Bửu. Chú rợn người kêu thầm, tại sao cứ măi đi t́m, mà không phá chấp, buông xả thơi thái như hạnh của thiên nhiên?

Và cứ nghĩ ngợi luông tuồng như thế, tới chiều tiểu Bửu đến chân thềm đá 49 bậc dẫn lên Mai Sơn tự. Không một bóng người. Nắng sẫm vàng, rắc hơi tàn lên rừng cây. Gió thầm th́ tuôn qua rănh lá. Tiểu Bửu ngẩng nh́n, thấy cḥm rễ già bấu ngoằn ngoèo kẽ đá, trông như bầy tinh xà canh giữ cửa hang huyền thoại. Chú thở ra, hít vào từng hơi dài. Bầu trời nghiêng theo tầm nh́n, choáng váng nứt ra những đường mây. Có bầy hạc xám đang khoan thai nối đuôi bay về tổ, buông tiếng náo động một góc trời. Tiểu Bửu ḍ dẫm trèo lên từng nấc đá, bàng hoàng nhận ra tâm ḿnh giao động theo mỗi bước chân.

Trong sân chùa, sứ trắng rộ nở, hương lan nhè nhẹ. Thềm gạch lở loét mấp mô. Chùa tróc mái, chỉ c̣n trơ lại những cột gỗ xiêu và chân vách cháy nám. Nơi này, như nhiều nơi khác, có lẽ đă được dùng tiêu thổ kháng chiến. Tiểu Bửu đặt đ̣n sóc xuống đống gạch đất vỡ vụn, mọp người chắp tay. Chú h́nh dung lại cảnh chùa trước cơn biến động. Điện thờ được xây theo h́nh bán liên, nhắc nhở tính bất toàn của con người. Cánh phải là nhà trai. Cánh trái là pḥng toạ thiền. Sau chánh điện là hành lang dài và hẹp, kê tủ chứa kinh điển và vật thờ. Cách một lối ngắn trải gạch nung là nhà bếp, một góc được ngăn vách làm tư pḥng cho tiểu Bửu thuở bé và hai bạn đồng tu khác. Bên trái là buồng sư cụ. Bên phải là pḥng tắm và nhà vệ sinh. Giờ đây, tất cả đều đổ nát. Tiểu Bửu rưng rưng hồi tưởng kỷ niệm, thẫn thờ dọn dẹp một góc chùa làm chỗ trú đêm. Từ mớ gạch vụn, một con cắc kè rối chân chạy ra, dừng lại ngấc đầu ngơ ngác giây lát, rồi lủi nhanh vào khe trống.

Tiểu Bửu trải chăn ra đất, ngả người, tay gối đầu, suy tư vu vơ. Gió mát hiu hiu. Nắng chiều xuyên mỏng cành lá, nhấp nháy từng đoá. Ngày đang chuyển ḿnh vào đêm. Chưa bao giờ tiểu Bửu cảm thấy ḷng ḿnh gần gũi cùng thiên nhiên như bây giờ. Ư tưởng ḿnh là sinh vật tầm thường nhỏ nhoi trong cơi vũ trụ bao la vô bờ càng thêm sắc nét. Cùng lúc là những hoài nghi về thân phận. Tại sao lại có mặt ḿnh tại đây mà không là nơi khác? Tại sao lại có những phân biệt giữa ḿnh và tha nhân? Ngă của ḿnh, ôi, nhỏ như hạt cát, bẩn như cục phân, mà cũng rộng như đất trời, tinh khiết như giọt sương sớm. Sau bao năm tu học, ḿnh đă chuyển hoá được ǵ chưa, ḿnh đă dứt bỏ được những ràng buộc của khổ đau và dục vọng chưa, hay ḷng ḿnh vẫn c̣n vướng mắc vào những móc xích mê chấp? Đă có lần sư cụ dạy rằng: “Tu không phải để lánh đời, mà để nh́n đời bằng tâm tư tích cực hơn. Chuyển được tâm ḿnh, tức là chuyển được cái tâm đời đầy u mê ám chướng.”

Tiểu Bửu khép mắt lửng lơ, hai tay xoắn lại đặt trên bụng. Tiếng chim gọi chiều, tiếng lá cựa ḿnh vào đêm hoà với tràng âm thanh không tên nghiến ṃn lê thê trong ḷng chú, làm thành điệu ru êm. Chú thiếp vào giấc ngủ rối.

Có tiếng chim ụt lạc giọng từng hồi. Tiểu Bửu tỉnh giấc, ngẩn ngơ giây lát. Trăng rưới nhàn nhạt lên nền chùa hoang phế. Hơi đêm dịu mát. Côn trùng rỉ rả không mỏi. Tiểu Bửu ngồi dậy, vươn vai, mở bầu nước, vốc ngụm nhỏ rửa mặt. Chú nhẩn nha bóc vỏ củ khoai lang luộc c̣n lại, vừa ăn vừa ngắm tàn bông sứ sau sân chùa. Trăng không sáng lắm, mà không hiểu sao mắt chú nhận rơ những đốm bông trắng muốt như ngậm chất phát quang. Lời dặn của sư cụ vang lên trí chú: “Thầy chôn tượng Phật bên gốc sứ sau chùa, có tảng đá núi làm dấu. Đá hơi to, con phải đào đất, lấy cây nẩy mới xê dịch được.”

Giờ đây, tiểu Bửu đang đứng bên cội sứ già, cạnh tảng đá vừa được bẩy sang bên. Một hơm đất nông bày ra dưới luồng trăng nhợt nhạt. Tiểu Bửu qú gối, tay cầm xẻng con, thận trọng xắn đất. Khí trời thoáng mát mà lưng áo tiểu Bửu rịn ướt mồ hôi. Tự dưng chú nghĩ tới thắc mắc ngây thơ của tiểu Hạnh: “Không biết sư cụ đ̣i đem bức tượng đó về làm ǵ?” Phải rồi, chi vậy? Không phải tất cả h́nh tượng đều là vọng tưởng sao? Tại sao không ‘‘ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, như kinh Kim Cang đă dạy? Tiểu Bửu c̣n đang lan man tự hỏi, chợt giật thốn người khi có cảm giác lưỡi xẻng chạm phải vật cứng. Chú nới tay, xới từng lớp mỏng. Mồ hôi chú lăn thành ḍng xuống cổ áo. Tiểu Bửu tận dụng thị lực, soi chăm chăm vào hố đất con. Đoán thấy đủ độ sâu, chú vất xẻng, dùng tay không cẩn thận bới quanh vật thể được bọc trong nhiều lớp vải, miệng lâm râm niệm Phật. Chú mọp người, khuân khối vải đặt bên miệng hố, chỗ sáng trăng. Tim chú đập liên hồi. Chú phủi sạch đất cát, run tay tháo vải. Nước mắt chú tuôn ràn rụa khi nhận ra pho tượng vẫn c̣n bóng ngời chất gỗ quí. Chú lẩy bẩy nâng pho tượng lên, toan áp má vào mặt tượng th́... trời ơi, chú thấy từ ḷng tượng rỉ ra từng ḍng trắng đục như sữa. Hai mắt tiểu Bửu trợn ngược, miệng lắp bắp không tṛn câu:

- Mô... mô... Phật, tượng ớ... mọt ăn.

Rồi chú buông tượng xuống đất, khóc nghẹn.

 

Ngô Nguyên Dũng

(Đức, 19.5.1996)