NGUYỄN VĂN HIẾU

 

 

 

 

Sinh ngày 6 tháng 5 năm 1946

Đă học tại Bồ Đề, Phan Bội Châu, Phan Thiết

Tốt nghiệp Văn Khoa 69-72

Đă viết trên các tạp chí tại Úc và Thế Kỷ 21 tại Hoa Kỳ.

 

 

a

 

 

VÓ NGỰA VÀ LỜI KINH TRÊN ĐÁ

 

 

Từ lúc khởi hành, con ngựa đă làm ngắn thời gian và không gian, kéo dài biên cương trong những cuộc viễn chinh, những giao dịch đổi chác thương măi xuyên qua từ Âu sang Á qua con đường tơ lụa của Marco Polo hoặc những chặng đường chiêm bái thỉnh kinh. Dấu chân ngựa trải dài trên quả đất đă tạo dựng một phần lịch sử giữa các dân tộc. Có biết bao nhiêu những con ngựa gắn liền qua từng trang sử đời sống của đất nước và con người đó.

Con ngựa Xích Thố của Quang Vân Trường vượt qua năm cửa ải trảm sáu tướng của nhà Ngụy rồi phải chạy lạc loài trong trận bị phục binh của Đông Ngô ở đất Kinh Châu. Con ngựa xông xáo tả xung hữu đột của Triệu Tử Long trong trận Trường Bản. Con ngựa ô của Hạng Vơ bị vây khốn trong dắm lầy vùng rừng núi sông Dương Tử từ bến đ̣ Bạch Hà đến Ô Giang. Con ngựa không mỏi chân bon đưa Lưu Bang ngồi trên yên ṛng ră năm năm trời cùng hẹn Hạng Vơ đến đất Hàm Dương. Những con mă chiến sơn của Thành Cát Tư Hăn, của Hốt Tất Liệt và cùng đạo quân Mông Cổ luôn sống trên lưng ngựa băng ngang xẻ dọc dẫm nát vùng Trung Á đến bờ biển Địa Trung Hải. Con ngựa chứng dưới tay cương của Alexandre Đại Đế tung hoành vùng Biển Đen đến Bắc Phi rồi qua sông Tigris đến bờ sông Indus xứ Ấn Độ. Con ngựa của Nă Phá Luân vượt qua vùng Bắc Âu từ Austêrlitz đến Waterloo đến vùng băng tuyết nghiệt ngă của Nga Hoàng. Con ngựa vượt hết chặng đựng gai góc của tướng quân Lư Thường Kiệt trong đợt phá Tống b́nh Chiêm. Con ngựa đưa tin nhanh như chớp của Trần Nguyên Hăn đời Lê chiến thắng quân Minh. Con ngựa thần tốc của Bắc B́nh Vương Nguyễn Huệ thẳng tiến đến Bắc Hà nhanh chóng đánh tan quân nhà Thanh. Con ngựa sắt của Thánh Gióng Phù Đổng Thiên Vương tung trời trở thành chuyện truyền kỳ của tinh thần tuổi trẻ bảo vệ đất nước Việt Nam chống lại giặc nhà Ân xâm lăng đến từ phương bắc. Đến con thần mă màu trắng của chàng tài tử Rogers Roy “vua của phim cao bồi” sôi nổi vẫy vùng miền viễn Tây Hoa Kỳ trên màn ảnh. Con ngựa nổi tiếng Phar-Lap trở thành huyền thoại trong thú đua ngựa ở Úc và con ngựa gỗ ngụy trang cứu thoát nàng Helens thành Troy trong cổ sử Hy Lạp.

Những con ngựa trên làm rạng danh và cũng gieo nhiều tang thương đẫm máu. Người và ngựa đă đi đến cùng điểm chiếm đoạt tất cả mang về những chiến thắng khải hoàn với lời thề “lấy da ngựa bọc thây”.

Những chiến sử trên là những cuộc chiến tương tranh không ngừng. Từ một vùng thảo nguyên thật b́nh yên, tia nắng chiếu dài lướt thướt qua đồng hoang, những con ngựa đàn thản nhiên ăn từng ngụm cỏ, buông nhẹ gót chân thong thả qua triền đồi, xuống từng hồ uống nước. Trong khi Huyền Trang ngồi trên yên vuốt khe khẽ trên má, xoa dài trên bờm ngựa. Con Bạch Mă đứng im Huyền Trang vừa g̣ ngựa lại vừa nói:

- Các môn sinh! Chúng ta sẽ lên đường qua Tây Vực vào trăng thượng tuần này.

Cũng vào một đêm trăng, con ngựa Kiền Trắc và Sa Nặc đă đưa Thái Tử Tất Đạt Đa vượt ḍng sông Anoma đi t́m chân giải thoát. Nhưng suốt cuộc hành tŕnh sắp tới của chúng ta sẽ đầy gian khổ. Ta vẫn cứ đi v́ niềm tin sắt son của cuộc đời này, của mỗi con người muốn thoát ra khỏi nỗi khổ đau của kiếp người.

Rồi Trường An, dần theo sông Hoàng Hà, nước sông tuôn đổ vào đồng bằng bao la. Núi Hoàng Ly trải dài về phương Bắc, đâu đây vài mái nhà tranh của nhân gian vạn lửa cơm chiều.

Qua vùng sa mạc Gobi nóng bỏng, những con trốt cao cuồn cuộn như muốn nuốt tươi chôn lấp thầy tṛ Huyền Trang trên đường thỉnh kinh. Đến vài thành phố hùng vĩ trong rừng sâu, những thành quách đền đài im đứng với thời gian, những rặng núi âm u huyền bí chỉ c̣n lại những mảnh vụn của một nền văn minh rải rác đó đây trên vùng hoang phế.

Huyền Trang đếm những bộ kinh mang về Trung Hoa. Khi băng qua ḍng suối lớn, nước đổ xiết ào ào trên những tảng đá tung toé thấm ướt vài cuốn kinh. Huyền Trang sai các môn đồ đem phơi từng trang kinh trên các phiến đá ven bờ suối của buổi trưa từng cơn nóng sa mạc thổi đến. Lúc khô định gở ra th́ có vài tờ đă dính cứng vào đá không sao gỡ được. Những lời kinh này bỏ lại in trên đá của ngàn năm trước đây bây giờ để vũ trụ nhân sinh miệt mài t́m kiếm.

Huyền Trang miên man nghĩ đến một sự mất mát to lớn trong sự nghiệp khó t́m lại. Với ta, đây là linh hồn của nghĩa sống, là hạnh nguyện độ sinh và là tiếng nói của con tim trần thế đi t́m lần bừng sáng của trí tuệ. Nhưng suốt cuộc hành tŕnh qua ta có c̣n để lại phía sau những ǵ? Phía sau là những dấu chân người và vó ngựa đă bị gió cát tuyết băng lấp đầy. Những cánh nhạn giữa lưng trời đâu c̣n để lại đường bay. Và vó câu đă qua từng truông ngơ hẹp.

Về đến Trường An, ngàn hoa kết thành chào đón Huyền Trang, nhà chiêm bái hành hương trở về. Huyền Trang buộc ngựa, âu yếm cảm ơn con tuấn mă đă giúp đưa đi qua suốt đoạn đường dài. Rồi Huyền Trang tŕu mến quay lại các môn đồ đồng hành nh́n lại suốt thời gian cuộc hành tŕnh thỉnh kinh trước các hiểm nguy và trước mọi cám dỗ của con người. Mỗi chặng đường đi qua là mỗi chặng đường vượt qua ṿng sinh diệt để thiết lập được sinh diệt và làm hồi sinh được cây chủng tử tươi tốt hôm nay. Mỗi bước đi như c̣n vọng lại lời kinh “Do nương theo trí tuệ Bát Nhă, mà tâm không bị chướng ngại, v́ không bị chướng ngại nên không sợ hăi, xa rời các thứ mộng tưởng điên đảo, tiến tới đạo quả Niết Bàn”. Gịng tâm thức bừng sáng Huyền Trang lần bước vào Lôi Âm tự:

Ta thỉnh kinh vô tự

Tụng lớn lời vô ngôn

Kinh ướt phơi bên suối

Ngẩn ngơ

Vái thinh không.

 

Những lời kinh “Bất thành văn tự” bây giờ chỉ c̣n là thinh không. Tiếng chuông ngân lạy bài Bát Nhă. Chân Kinh là kinh vô tự. Nhưng khó khăn thay làm sao đọc được, khi nhân sinh đi t́m hướng giải thoát khổ đau nhưng chưa nói lên những điều thực tướng. Bỗng lời kinh bên bờ suối năm nào tuởng đâu không t́m lại được. Cũng hơn ngàn năm sau kể khi lời kinh ướt nhũng nḥa, vừa t́m lại trên đá kia nét chữ to như lời kinh đọng lại trong bài thơ “Phong Kiều Dạ Bạc” của Trương Kế đời Đường được Thanh tạc ghi trên đá ở chùa Hàn Sơn đất Tô Châu.

 

“Nguyệt lạc ô đề sương môn thiên

Giang phong ngư hỏa đối sầu miên

Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn Tự

Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền”.

 

Tạm dịch:

 

Quạ kêu trăng lặn sương rơi

Đèn chài, lửa băi đối người nằm co,

Thuyền ai đậu bến Cô Tô

Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn

 

Lời kinh in trên đá chỉ c̣n thu về lại tiếng chuông tỉnh thức trong đem thanh vắng khơi động qua mọi miền pháp giới vang vọng măi trong ḷng người.

Bây giờ tiếng ngựa hí vang trời, tiếng lục lạc ma quái trở thành tiếng chuông gọi người trở về nơi thương yêu, yên b́nh sau ngày chinh chiến.

 

 

 

 

oOo

 

 

THI SĨ NGUYỄN BẮC SƠN

TỪ KHU RỪNG LAU

ĐẾN KHU RỪNG PHONG DU

 

 

Thi sĩ Nguyễn Bắc Sơn với tập thơ “Chiến tranh Việt Nam và Tôi” xuất hiện khi cường độ chiến tranh Việt Nam gia tăng khốc liệt vào năm 1870-1971. Nguyễn Bắc Sơn tên thật Nguyễn Văn Hải sinh năm 1943 tại Phan Thiết, B́nh Thuận. Như Nguyễn Bắc Sơn viết: “Những bài thơ chiến tranh được viết dưới hầm ngủ trong một trại Lực Lượng Đặc Biệt sau những lần say sưa cùng bạn hữu, những bài thơ chứa đựng Thiền vị viết sau những buổi tĩnh tọa sớm tinh sương trong một ngôi nhà ấm cúng tại B́nh Thuận, về chiến tranh, phần đông người đọc sẽ ưa thích những loại thơ viết về chiến tranh hơn. Thêm vào đó, những bài thơ này được viết trong khuôn khổ h́nh thức phô diễn của thơ tiền chiến, loại thơ đă quen thuộc với cảm quan đa số”.

Và tập thơ gây tiếng vang trong giới thơ văn lúc bấy giờ như lời phê b́nh mục điểm sách: “Tập thơ hát lên tiếng hát lồng lộng bi tráng của một người tham dự chiến tranh Việt Nam, một thiền sư bụi đời, một gă du đăng trầm mặc”.

Những bài thơ xa như tiền chiến, xưa như Đường Thi, nhưng kỳ lạ thay, mới tinh và gần gũi như sáng hôm nay.

Thật vậy, sự xuất hiện kỳ lạ nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn đă làm không biết bao nhiêu thi sĩ kết t́nh, những nhà văn, những nhà phê b́nh văn học yêu thích chỉ v́ Nguyễn Bắc Sơn đă tinh luyện tâm t́nh ḿnh vào trong những xót đau nhớ tưởng về t́nh sống nghĩa núi, cùng t́m đến nhau bằng cả tấm ḷng. Tấm ḷng chân thật của con người có t́nh thương, có t́nh đồng loại.

Trong một bức thư 27/11/1969, nhà thơ Viên Linh đă viết “Mấy bài viết về chiến tranh có cái hào sảng, bi đát của Quang Dũng bài “Chân dung Nguyễn Bắc Sơn” thật hay. Đọc được bài thơ hay, thấy sung sướng cả ngày…” Đây bài thơ chính Nguyễn Bắc Sơn tự phát họa chính ḿnh:

 

Ta sống ở đời như một kẻ nhàn du,

Trôi qua thán, trôi qua ngày, trôi trên cuộc đời huyễn mộng.

Trôi từ chiếc nôi ru đến nấm mồ

Trên trái đất có rừng già núi non cùng biển sóng

Trong Nguyễn Bắc Sơn có một kẻ làm thơ

Kẻ làm thơ đôi khi biến thành du đăng

Hoặc nhà tu theo khí hậu từng mùa

Bạn bè đă chia xa, ta khề khà cùng sách vở

Mất bảy năm trời ta hiểu Thích Ca

Ôi nụ cười đó từng đêm ta mất ngủ

Những ngày ăn gạo lứt muối mè chữa bệnh

Tắm ḿnh trong ḷng triết lư Cực Đông

Những ngày xem Zen là lẽ sống

Hạnh phúc về như nước lấp con sông

Ta đổi mới ta nồng nàn sức sống

Như mùa mưa phân phối ruộng đồng xanh

Ta dự tính giă từ vai khán giả

Nối ṿng tay, ṿng tay lớn Việt Nam.

 

Từ đó, Nguyễn Bắc Sơn nhập cuộc đi vào khu rừng lau trong cuộc tương tranh sống chết. Tại Mật khu Lê Hồng Phong, những đoạn đường chia ngang xẻ dọc c̣n in dấu xe xích như một bàn cờ, như một Bát quái đồ. Nơi đây có là một đêm den hay đêm trăn sao theo cơn gió biển từ vùng Mũi Né B́nh Thuận thổi vào bên Bàu Thiêu nước trong mát lịm. Bỗng đêm rùng ḿnh chợt nhớ Động Thái An từ giải cát dài thấp thoáng đâu đây:

“Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,

Mặt chinh phu, trăng dơi dơi soi,

Chinh phu, tử sĩ mấy người,

Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn”.

Trong không khí chiến tranh này, nhà văn Chu Tử trên báo “Đời” số 9 tháng 11/69 đă nâng niu lời thơ Nguyễn Bắc Sơn và ca tụng là một nhà thơ lớn, rồi trên báo Sống lại đề nghị gởi dự tranh giải thơ văn học quốc tế. Chu Tử viết “Có cái ngang tàng đượm màu sắc Lăo Trang, đánh giặc không cần lư tưởng mà vẫn đánh, coi cuộc chiến như tṛ chơi, thương xót kẻ thù như ruột thịt”. “Chiến tranh Việt Nam và Tôi” là tên một bài thơ, cũng là tựa đề của tập thơ:

Ḷng suối cạn phơi một bày đá cuội

Rừng giáp rừng gió thổi cỏ lông măng

Đoàn quân anh đi những bóng cọp vằn

Gân mắt đó lạnh như tiền sắc mặt.

Kẻ thù ơi, các ngài du kích

Hăy tránh xa ra đừng chơi bắn nheo

Hăy tránh xa ra ta xin xí điều

Lúc này đây ta không thèm đánh giặc.

 

Lũ chúng ta sống một đời vô vị

Nên chọn rừng sâu núi cả đánh nhau

Mượn trời đêm làm nơi đốt hỏa châu

Những cột khói giả rồng thiêng uốn khúc

Mượn bom đạn chơi tṛ chơi pháo Tết

Và máu xương làm phân bón rừng hoang.

 

Lời thơ ghi nhận một cuộc chiến tranh thật mới, thật khốc liệt. Như một tai trời ách nước dành cho dân tộc Việt Nam. Nguyễn Bắc Sơn tham dự trận chiến trong tâm cảnh vô tư lự. Người lính Nguyễn Bắc Sơn hiền thật, “Ta vốn hiền khô ta là lính cậu” chắc khác xa với người lính hiền của thi sĩ Chính Hữu:

Có người đi lính hiền như đất

Mùa hạ tưng bừng thương núi sông

Một sớm mang về tin xuất trận

Vội vàng súng đạn nao nức ḷng

 

Đỗ Quí Toàn trong “T́m Thơ Trong tiếng nói” đă viết: “Nguyễn Bắc Sơn tạo nên một tín hiệu trong thơ làm tim đập mạnh, đầu óc ngây ngây. Nguyễn Bắc Sơn thành công v́ hệ thống tín hiệu thơ bảy chữ của ông quen thuộc với tất cả chúng ta, ông dùng để truyền đi những cảm xúc mà chúng ta rụt rè không biết nói sao. Cho nên thơ ông sáng, không tối:”

Ngày vui của lính sao mà ngắn

Mặt trời thoắt đă ở phương Tây

Lỡ mai ta chết v́ say rượu

Linh hồn chắc sẽ thành mây bay.

Người lính Nguyễn Bắc Sơn uống rượu nhưng chỉ muốn khỏa lấp nỗi buồn trong “Cuộc chiến tàn tệ”. Chỉ “Một tiếng đồng hồ trước khi lên đường hành quân”. “Hăy nhanh lên! Thời gian không c̣n nữa. Hăy gởi trọn đời ḿnh bên ly rượu gạo nồng cay, sợ một ngày đời ḿnh sẽ mất.

“Khi tạo đi lấy khẩu phần

Mày đi mua rượu để Nùng cho tao

Chúng ḿnh nhậu để trừ hao

Bảy ngày sắp đến, nghêu ngao trong rừng

Mùa này gió núi mưa bưng

Trong ḷng thiếu rượu anh hùng nhát gan.

 

Nguyễn Bắc Sơn cùng bạn bè uống rượu rất đơn sơ làm ta nhớ lại Vương Hàn một nhà thơ đời Đường trong bài “Khúc Lương Châu” ghi lại cảnh uống rượu Bồ Đào, chén ngọc quí. Rượu ngon rót trong chén quí, thú vị biết chừng nào! Hạnh phúc đă gần kề th́ những tiếng tỳ bà hiệu lệnh hành quân dục phải lên đường. Trong tâm trạng bi thương của thời chiến tranh, họ cố tận hưởng trong những bất thường, bất trắc sớm c̣n tối mất của đời người đi chinh chiến:

Bồ Đào, mỹ tửu dạ quang bôi

Dục ẩm tỳ bà mă thượng thôi

Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu

Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.

 

Tạm dịch:

Bồ Đào rượu ngát chén ly bôi

Toan nhấp tỳ bà đă giục đi

Say khướt sa trường anh chớ mĩa

Xưa nay chinh chiến mấy ai về.

 

Có phải rượu là một liều thuốc bổ ích dành cho chinh nhân! Câu chuyện uống rượu của người lính không phải ở phương Đông này, mà ta c̣n t́m gặp trong quân ngũ trời Tây. Đời lính là chuỗi ngày lo âu t́nh bầu bạn quây quần bên nhau đàm tiếu, chia nhau từng giúm thuốc hút, cùng nhau uống rượu xoay ṿng để bền gan chiến đấu trên chiến trường mới; rồi biết ngày sau sẽ ra sao! Cảnh tượng đó cũng t́m gặp trong tập truyện “Mặt trận miền Tây vẫn yên tĩnh” (All quiet on the Western Front) của Erich Maria Remarque. “Một đám khói thuốc dầy đặc bay qua chúng tôi. Có một người lính nào lại không hút thuốc? Căng tin trong trại lính là nơi ghé tạm, rượu bia c̣n là một cái ǵ hơn một thức uống, nó là một biểu hiện của một người lính năng động và biết ứng phó trong an nguy”.

Trong lo âu của người lính trận, đời sống bây giờ đặt bên cái chết. Một buổi chiều thê lương nào đó bên một thị trấn đ́u hiu, con đường cát bụi Sông Mao ngắn rất ngắn mà nỗi đau dài mênh mông như nhà phê văn học Bùi Bảo Trức đă viết “Nguyễn Bắc Sơn có cái ngông nghênh, bất cần, bạt mạng:”

Mai ta đụng trận ta c̣n sống

Về ghé sông Mao phá phách chơi

Chia sớ nỗi sầu cùng gái điếm

Đốt tiền mua vội một ngày vui

 

Cảnh chịu đựng dai dẳng của người lính trận bắt đầu, khi mây kéo về báo tới một cơn mưa. Mưa trong cuộc chiến tất là nỗi bi đát nhất, đọng lại một chuỗi dài liên tưởng. Mưa khuya hắt hiu xuyên qua manh t́nh ngăn cách rồi. Hăy phủ kín poncho bên này sợ nước làm buốt lạnh bờ vai. Hăy kéo tấm nylon xuống bên tai để tiếng mưa rơi chậm lại, cho một ngày rất ngắn:

Linh hồn ta sẽ thành đom đóm

Vơ vẩn trong rừng động Thái An

Miền Bắc sương mù giăng bốn quận

Che mưa giùm những nắm xương tàn.

Không phải chỉ có Nguyễn Bắc Sơn sợ nỗi cô đơn trong đêm mưa. Con mưa bất chợt hoặc cơn mưa chiều gợi nhớ dù nơi đây lượng nước mưa do được thấp nhất Việt Nam.

Mưa này gió núi mưa ngàn

Mùa này gió núi mưa bưng.

Nhưng chính mưa là h́nh ảnh kéo dài t́nh cảnh bi đát trên chiến trận. Thử nh́n lại khuôn mặt trong phim Farewell to arms (Giă từ vũ khí) dựa theo kiệt tác của văn hào Ernest Hemingway, bị thương trên mặt trận, yêu cô y tá, rồi gởi ra lại chiến trường. Cảnh buổi tiễn đưa ra sân ga “Được em sợ mưa, đôi khi em thấy em chết dưới con mưa”. Trời mưa chỉ làm buồn chúng ḿnh thêm. Một cuộc chiến tranh vô tích sự và mối t́nh tan vỡ tan theo chiếc bong bóng nước mưa trên đường về. Về nơi đâu giữa cơn mưa. Chàng chiến binh lặng lẽ, thất vọng đi trong mưa. Nỗi buồn chiến tranh cũng từ đó. Cho dù sao, thi sĩ Nguyễn Bắc Sơn cũng nh́n đặc tính của chiến tranh trong tâm cảnh thân phận của người lính ngoài trận mạc như nhạc sĩ Phạm Duy ghi nhận trong “Hồi Kư, thời phân chia Quốc Cộng” của ông “Là thơ cảm khái hay thơ ngất ngưỡng” của Nguyễn Bắc Sơn, một trong hàng triệu thanh niên miền Nam phải đi lính, nh́n địch quân là đứa xâm ḿnh, ăn muối đá, điên say chiến đấu và ḿnh là lính cậu hiền khô, đi hành quân rượu đế vẫn mang theo th́ chúng ta đánh nhau không hề v́ thù hận:

Ta bắn trúng người v́ người bạc phước

Chiến tranh này cũng chỉ một tṛ chơi

Để rồi những ngày tháng tới thương đau nghe tin người bạn nằm xuống. Nguyễn Bắc Sơn ngẩn ngơ. Có lẽ lời trầm buồn Nguyễn Bắc Sơn thốt ra nỗi nghẹn ngào trong đôi mắt đẫm ướt nhưng tiếng kèn trompette bi ai do tài tử Montgomery Clift trong phim “Thói đời” (tant qu’I; y aura des hommes thối lên làm nhiều người bật khóc tiễn đưa người bạn già đồng ngũ (Frank Sinatra) bị đánh chết tàn nhẫn chỉ v́ những người nhân danh kỷ luật đày đọa con người mang ḷng đố kỵ thù hận. Bây giờ tất cả an nghỉ như trong lời thơ Nguyễn Bắc Sơn:

Gă du kích mù

Bắn viên đạn mù

Vào thân thể vị sĩ quan lim dim ngoài trận mạc

Trong trận chiến mù mịt này

Chúng ta làm sao tỉnh thức

 

Khi em chết đi

Em sẽ thành sấm sét

Thành bụi vàng

Thành gió thành mây

Trong vũ trụ hoài hoài sinh diệt.

 

Trong những nhà phê b́nh văn học, nhà văn Vơ Phiến đă dành cho thi sĩ Nguyễn Bắc Sơn một chỗ đứng đặc biệc của một giai đoạn thơ tác động sâu thẳm vào ḷng người những bề trái ngă nghiêng hiện thực của chiến tranh. Vào tháng bảy năm 1988, trong dịp viếng thăm Úc tại Melbourne, nhà văn Vơ Phiến tŕnh bày những vấn đề văn học, đặc biệt Vơ Phiến đưa ra hai thi sĩ tiêu biểu: Nữ thi sĩ Hoàng Hương Trang và thi sĩ Nguyễn Bắc Sơn trong một giai đoạn lạ trong văn học Việt Nam trong “Hai mươi năm Văn Học Miền Nam 1954-1975”. Nhận xét và phê b́nh “Những trận nhậu trong thơ Nguyễn Bắc Sơn không giấu giếm… Phật hay Chúa có chứng kiến cũng lấy làm thương cảm. Đất nước mịt mù khói lửa, và bấy giờ người ta nói thế nào, nghĩ ngợi thế nào về chiến tranh? Nguyễn Bắc Sơn ngất ngưởng bảo địch quân, C̣n ‘ta’ vượt lên trên chính nghĩa, bên trên mọi hăng say tinh tưởng ‘ta’ là nhân vật của thời đại, ‘ta’ mới xuất hiện đấy thôi, và bạn bè của ‘ta’ cùng lớp ‘ta’ đều hiền khô như thế cả”.

Kẻ thù ta ơi những đứa xâm ḿnh

Ăn muối đá và điên say chiến đấu

Ta vốn hiền khô, ta là lính cậu

Đi hành quân, rượu đế vẫn mang theo.

 

Không như những người th́ sĩ trường phái tự do lớp trước, ḍng thơ Nguyễn Bắc Sơn không chứa những ưu tư hoang mang như Nguyễn Bắc Sơn luận về những sống ở đời, cái bữa tiệc nhân sinh mà Nguyễn Bắc Sơn khề khà không có ǵ thịnh soạn:

“Bậc thánh triết là những tay biếng nhác

Sống khề khà quanh bữa tiệc nhân sinh”

Vơ Phiến nhận định “Chính những người trong cuộc, những người cầm súng vào sinh ra tử là những người thênh thang khinh khoái hơn cả.”

Đời một người lính qua ngưỡng cửa sinh tử Nguyễn Bắc Sơn tự phác họa chân dung:

“Kẻ làm thơ đôi khi biến thành du đăng. Hoặc nhà tu theo khí hậu từng mùa”.

Có thể chưa một thi sĩ nào nói rơ những điều ḿnh nghĩ về ḿnh. Một vẻ ngất ngưởng, vào sinh ra tử coi sống chết chuyện đời là một chuỗi ngày tan loăng vào hư vô để h́nh ảnh trong thơ Nguyễn Bắc Sơn chứa đựng đâu đây hương vị thiền: “Hỡi ơi sống chết là mưa nắng. Gió tối mưa đêm chớ lạnh ḿnh Và vĩ nhân là những cây lếu láo như ta đây chờ sung rụng ngoài hiên”.

Nguyễn Bắc Sơn đi vào khu rừng phong du từ một đêm như kẻ đi đêm t́m gặp ánh đèn. Tiếng gơ cửa tưởng chừng làm ấm ḷng lữ khách. Viên đá cuội tưởng chừng làm khua động mặt hồ. Tất cả làm một tiếng chim buổi sáng, một tia nắng đầu cành, một thoáng lá xôn xao trong “Mùa thu đi ngang cây Phong du” một bài thơ t́nh đầy hạnh nguyện:

Khi nhớ ḿnh, ta muốn ghé ta thăm

Ngôi nhà gần ngôi nhà xa vạn dặm

Con đường t́nh có cội nguồn sâu thẳm

Tử sinh cùng của bà mẹ mênh mông

Ai xui ngôi nhà em cất bên kia sông

Khiến đời anh cứ măi qua cầu, cứ trèo lên dốc

Bầu trời quá cao, phải chăng v́ ḷng ḿnh quá thấp

Chiều mù sương v́ t́nh yêu mù sương

Ai xui ngôi nhà em cất giữa ngă tư đường

Khiến đời anh cứ ngập ngừng ba ngả

Con phố thân quen bất ngờ con phố lạ

Nơi hàng cây rụng tiếng tắc kè kêu

Nơi lầu cao khung cửa sổ đ́u hiu

Soi thấp thoáng ngọn đền hoa thiếu nữ

Những sợi tóc rụng trên chồng sách cũ

V́ thanh xuân theo nước lũ trường giang

Rớt tiếng động khơi nỗi niềm viễn xứ.

 

Cây phong du trong bài thơ là h́nh ảnh tượng trưng hương vị thiền v́ cây phong du là một cây dầu rất tốt, thả những bông g̣n có hạt bay khắp nơi. Trong sách cổ nói rằng loại cây này có linh hồn. Nếu cây sống đến hơn 500 năm khi chết sẽ đầu thai làm con bạch tượng. Con Bạch tượng có sáu ngà biểu hiện của lục căn như h́nh Bồ Tát Phổ Hiền ngồi trên ḿnh voi. Trải qua bao nhiêu quốc độ với giông sâu thẳm của tâm thức, hạnh nguyện trong này để biến thành những thành tựu từ tâm và công đức của phẩm 28 trong bộ kinh Pháp Hoa. Và cũng ở Đà Lạt, Việt Nam, có cây phong loại hoa Geranium, c̣n có tên hoa phong lữu ư nghĩa là loài hoa đi trong gió. Tuy có cái tên phiêu bạt, gian truân nhưng đó là loài hoa luôn nói lên những điều nhân ái cầu mong cho chúng ta hạnh phúc. Dù bay khắp nơi nào nó cũng bày tỏ những nguyện vọng tốt đẹp trong quan hệ giữa người và người.

Qua những băo tố cuộc đời, khi môi họ kề bên chén đắng, và những đám mây che khuất ánh mặt trời, chỉ c̣n những giấc mơ chập chùng trước mặt là những ǵ tạo nên đời sống. Nguyễn Bắc Sơn trong niềm tin và thương yêu có lần miệt mài t́m hiểu lúc đức Phật đưa lên một cành sen hỏi ngài Ca Diếp. Trong cuộc đời, trên môi chỉ cần thoáng mỉm một nụ cười. Vậy thôi:

Mất bảy năm trời ta hiểu Thích Ca

Ôi nụ cười từng đêm ta mất ngủ.

Như lời viết mở đầu của Nguyễn Bắc Sơn “Những bài thơ chứa đựng thiền vị dễ bị xem thường v́ chúng được viết trong một h́nh thức diễn tả thông tục. Phải chăng khả năng rung cảm trước sự giản dị những thâm thúy ẩn vị”. Lời phát nguyện của Nguyễn Bắc Sơn cần một chân như tiến thẳng vào căn nhà pháp thân trí tuệ, bài “Kính mời” với tâm hồn đôn hậu:

Khi tôi uống ly cà phê sữa

Khi tôi ăn bát cơm ngậm ngùi

Tôi kính mời thập loại chúng sinh

Kính mời giai nhân, anh hùng liệt sĩ

Tổ tiên ông bà

Tôi đâu dám ăn riêng một ḿnh

Bầy chim én đă bắt đầu tư lự

Ngủ âm thầm trên những đường dây cao

Đi ngang qua, đi ngang qua

Đi ngang qua, không dừng lại trong đời nhau.

Hẹn gặp nhau ở nhất nguyên thế giới.

 

Nguyễn Bắc Sơn nhận hiểu những khổ đau trầm luân của kiếp người. Không thể trốn chạy thực tại v́ nơi đây cho ta những hoài vọng làm trọn vẹn lời nguyện an b́nh từ lời gọi t́nh thương tiếp giáp đời của bài “Trở lại trần gian”:

Một sáng phiêu bồng qua bến sông

Bỗng nhiên hiểu Phật cũng đau ḷng

Phật cũng khổ đau như người khốn khổ

Cúi đầu quay lại bên này sông

 

Thi sĩ Nguyễn Bắc Sơn là một kẻ lữ hành, là một hành giả đi từ cánh đồng tang tóc bên chân đèo vật vă hoang sơ thấm đượm u hoài. Nguyễn Bắc Sơn đi thở mệt nhoài như loài bách diệp mùa đông để bước ra khu rừng phong du đổi biết bao nhiêu lần màu lá như một ḍng đời chuyển hóa. Nỗi đau đớn kiếp người vẫn c̣n đây. Và niềm an lạc cũng chính là đây cho chính ḿnh, cho mùa hoa phong du bay trong muôn phương.