NHƯ HÙNG

 

 

Tên thật:  Lê Phước Dũng

Pháp danh:  Như Hùng

Bút hiệu:  Như Như

Sinh tháng 2 năm Mậu Tuất, 1958 tại Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.

Cựu học sinh Trường Trung Học Trần Qúy Cáp, Hội An; Trung Đẳng Phật Học tại Phật Học Viện Quảng Nam; Cao Đẳng Phật Học tại Tu Viện Quảng Hương Già Lam, Sài G̣n; Los Angeles City College; Samra University of Oriental Medicine.

Vượt biên năm 1983 ở trại tỵ nạn Galang, Nam Dương.

Định cư tại miền Nam California, Hoa Kỳ 1984.

Đă có bài đăng trên Bán Nguyệt San Tự Do tại trại tỵ nạn Galang 1983, các báo chí và trang nhà điện toán toàn cầu Phật Giáo Việt Nam như Chân Nguyên, Trúc Lâm, Thân Hữu Già Lam, Hoa Đàm, v.v…

 

Tác phẩm đă xuất bản:

Thiền Sư Và Tư Tưởng Giác Ngộ - 1987

 

Tác phẩm đă hoàn tất, chưa xuất bản:

-  Tư Tưởng Thiền Tông Việt Nam

-  T́m Hiểu Thơ Thiền Việt Nam

 

Những bài viết khác:

-  Thiền và thi ca trong thi kệ Măn Giác Thiền Sư

-  Ư nghiă khổ đau và con đường giác ngộ vượt thoát trong Thiền Tông

-  Sự tương quan giữa hạnh phúc và khổ đau trong chuỗi dài biến động của tử sinh.

 

a

 

THIỀN VÀ THI CA

TRONG THI KỆ MĂN GIÁC THIỀN SƯ

 (trích từ Thiền Sư và Tư Tưởng Giác Ngộ, cơ sở Chân Nguyên xuất bản 1987)

 

 

 

"Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết

Đêm qua sân trước một cành mai".

Măn Giác, một thiền sư mang đầy nghệ sỹ tính đă để lại trần gian đóa mai vụt nở trước sân mà ngàn năm vang vọng trong vô cùng vẫn không hề tan ră, ở đó hương sắc quyện vào hư không tô thắm khung trời nghệ sỹ, trong ấy c̣n lại những vần thơ mang mang bao phủ đất trời.

Cả cuộc sống được dựng nên từ lời thơ, thế giới núp ḿnh trong đóa mai chớm nụ và tính chất nghệ sỹ đượm nhuần trong hương sắc phảng phất đi vào cơi tĩnh mịch trong vô cùng. Chỉ có lúc đêm khuya bặt hết tiếng côn trùng, mọi vật ch́m lặng trong màn đen cô tịch mờ ảo, chỉ c̣n đóa mai hé nụ điểm tô cho đêm trường, những rung cảm bỗng chốc đi vào từng thớ thịt làm ấm lại sinh động cho tâm thức, cuối cùng những tinh hoa của đất trời từ từ tuôn chảy dệt nên những vần thơ tiếng nói trong thời không.
Bóng dáng và dấu vết của chặng đường đó bật tung ra khỏi ngưỡng cửa của quyền năng, c̣n lại những biến hóa phù thủy quyện vào đôi tay tung ra những vần thi kệ mà cho đến bây giờ cành mai của năm xưa bỗng hiện h́nh làm tươi mát cho đất trời cho cuộc sống hôm nay.

 

Con người và thi ca, biên giới của mộng và thực:

Sự hiện hữu của con người được kể như vô nghĩa nếu không nhờ thi ca làm đẹp cuộc đời. Con người vốn là ḍng sinh mện trôi lăn giữa phongng ba băo tố, thỉnh thoảng dừng lại với những biến động trá h́nh hạnh phúc mà đúng ra là cửa ngơ của những nghịch cảnh khác. Hạnh phúc mà chúng ta đang trực diện nếu có, chỉ là bóng dáng giữa mộng và thực, ranh giới của nó tựa như đường tơ kẽ tóc, như nhát kiếm chém phăng vào ḍng nước đang chảy, biên giới nầy mong manh như chính thân phận con người.

Thực cũng chỉ là mộng được dệt nên từ có của thời gian, những khởi động đi qua nhanh như tia chớp, tạo cho ta tưởng chừng đó là hiện thực, sự thấp thoáng mờ ảo đó biến thế nhân trở thành đối tượng chỉ sống với cảm quan phong phú, được dệt nên và h́nh thành từ cuộc sống vốn tràn ngập phi thực. Ư tưởng nhận thức được hưng khởi theo chiều hướng sai sử tác động, không nằm nơi nguyên ủy của lư lẽ vượt thoát.

Con người sống với niềm kiêu hănh, ôm giữ những ǵ có được trong đôi tay, yên ḿnh theo nghĩa thực hữu, quan cảm nếu được xuất hiện trở thành định lư bất di bất dịch, v́ thế chặng đường đập vỡ thành tŕ cứng nhắc của tưởng quan lắm lúc trở nên bất lực.

Biên giới được xem là ngăn cách không tạo cho con người cảm thông với sự biết và không biết, giữa say với tỉnh, giữa mộng với thực. Khi nào ranh giới này bị san bằng tiêu hủy th́ mộng và thực ấy c̣n lại một khối duy nhất, vượt ra ngoài những biên kiến, say bới tỉnh như cơn lốc cuốn hút vào hư vô. Có ai tỉnh hoài mà không say? Có ai say hoài mà không tỉnh? nhưng, nếu tỉnh theo nghĩa tỉnh của thực tại th́ điều này cũng chỉ trá h́nh của say, bởi lẽ hiện thực được dựng nên từ cảm quan, tưởng chừng chứ không phải là một thực tại với những tra vấn khám phá, những đặt lại nếu có, th́ thực tại này trở thành phi thực ngay. Nếu trở thành phi thực th́ sự có mặt của con người há không phải đang say hay sao?
Biên giới thi ca nằm ngay trong khoảng đó tạo cho con người cách thức nh́n sự vật theo những cảm xúc lạ thường, vượt ra khỏi cuộc đời bên cạnh lối nh́n thi vị. Với thi nhân, nếu trăng là trăng th́ trăng không c̣n thơ mộng, huyền ảo nữa và Lư Bạch đâu có tự ḿnh nhảy xuống sông v́ chỉ muốn ôm giữ một vầng trăng. Vầng trăng mà họ Lư muốn có được trong đôi tay bé nhỏ của ḿnh chính là vầng trăng của mộng và thực. V́ nếu, họ Lư biết là trăng chiếu rọi bóng ở dưới nước, th́ đâu tự ḿnh t́m lấy cái chết oan uổng. C̣n nếu bảo rằng trăng là thực th́ ông cũng thừa hiểu rằng cọi thực ấy chỉ có ở trên nền trời trong xanh chứ đâu nằm ở dưới nước, nhưng họ Lư đă thoát ra ngoài tương quan, nên t́m đến vầng trăng mà không cần biết trăng ấy từ cơi nào. Chừng đó cũng đủ rồi, tra vấn nhiều th́ trăng không c̣n thơ mộng nữa.
Nhưng không có nhĩa nh́n trăng và thấy đó là đơn thuần th́ cuộc sống và thi nhân hóa ra vô vị sao? Ngôn ngữ thi ca trở thành một thứ quyền năng biến hóa không lường. Có như thế Hàn Mặc Tử mới bắt "trăng nằm sóng soăi trên cành liễu" hay Xuân Diệu mới bắt "gió hôn trên má". Không phải thi nhân có quyền năng, nhưng sự sáng tạo để dệt nên thi ca trở thành quyền biến và đưa tri giác của thi nhân thoát ra ngoài những sai biệt mà một con người b́nh thường không thể t́m được. Thi nhân là kẻ cố gắng khám phá những ǵ đang bị che dấu, khuất lấp trong thực tại. Sự cố gắng này không có nghĩa phải nặn óc để có những vần thơ, mà điều này là cách nh́n mới lạ vốn đă được un đúc sẵn trong thi nhân, có cơ hội nh́n ngắm đối tượng th́ cảm xúc trào dâng, vui buồn đối với thi nhân cũng chỉ là sự pha trộn giữa mộng và thực, khám phá truy t́m những mới lạ không có nghĩa để từ đó chạy trốn cuộc đời mà phải sống thực và gần gủi với đời. Trong niềm hoan lạc hay trong khổ đau ngôn ngữ thi ca đều có mặt, diễn tả những trạng huống nầy thơ mộng ngay lúc khổ đau đến độ dư thừa:

"Một chiếc cùm lim chân có Đế"

Ba ṿng xích sắt bước th́ Vương"

(Cao Bá Quát)

Điều quan trọng là phải hoán chuyển những thực trạng đó trở thành ngôn ngữ mà đối tượng thưởng thức t́m thấy giá trị siêu việt. thi nhân không cần phải áp dụng đến nghệ thuật v́ thi nhân vốn đă là một siêu nghệ thuật rồi, nếu sự chuyển hóa phải có nghệ thuật th́ sự trào dâng để có thi ca trở nên đè nén trong nghệ thuật. Thơ được xuất hiện khi đi qua quá tŕnh cảm nhận và rung cảm, nếu muốn xử dụng nghệ thuật th́ phải xử dụng trước khi rung cảm. Một khi rung động xuất hiện, thi nhân không nỡ chèn ép dù đó là nghệ thuật để thi vị lời thơ. Nhưng nếu thơ được xuất hiện trong ngăn ngại th́ hồn thơ trở nên tức tưởi và ngôn ngữ thi ca không c̣n dệt từ những cảm quan tuyệt diệu nữa. Nó trở thành công lệ của nghệ thuật.

 

Thiền trong thi ca:

Thiền là thực thể của những sinh động, biến hóa liên tục, gây chấn động tâm thức để từ đó đạt được giác ngộ. Thiền hướng đến trực ngộ, chứng nghiệm thực trạng trong những sinh khởi b́nh thường, không qua lăng kính phân biệt mà phải nh́n thẳng bằng định lực, không đắm ch́m trong những lư luận huyền ảo, quán chiếu mọi tương quan hiện tượng bằng đôi mắt cảm thông không ngần mé, nhưng hẳn chắc không ǵ ngăn trở nổi.

Trong hầu hết những công án của Thiền đều ẩn mang cốt cách văn chương thi ca, như một câu nói lơ lửng, một bài thơ không hiểu nổi. Nhưng, chính cái lửng lơ ấy tạo cho kẻ đối diện hoang mang, ray rứt, bí lối trước những suy luận và cuối cùng bỗng nhiên lăn ḿnh trường tới cửa ngơ rỗng không.

Thiền bao phủ len lỏi bàng bạc trong thi ca khá nhiều, nhất là thi nhân một khi muốn hiểu cảm thông đối tượng, trước hết phải cảm thông chính ḿnh, và để từ đó bắt nhịp, phơi bày trao gởi lời thơ. Thơ là một cách hiểu, lối sống với sự vật trong mọi hoàn cảnh gợi hứng cho thi nhân, tuy nhiên sự hiểu lắm lúc vẫn c̣n kẹt vào những so đo phán xét theo bản năng lôi kéo những hiện vật trở thành sản phẩm đơn thuần lư trí. Chỉ có sự hiểu biết của siêu nhgiệm, vượt thoát ra ngoài biên giới mọi tương quan thường nghiệm, th́ mới có thể đạt tới đích của Thiền là tạo năng lực thể nhập vào thi ca, không c̣n nhị nguyên mà là một. Bởi v́ trí huệ h́nh thành là nhờ phá tan đi chủ thể, khách thể, những lư luận nếu không tiêu hủy sẽ thành ngăn ngại, như thế chặng đường t́m đến sự dung ḥa hội nhập biến thành hố thẳm chôn chặt cuộc đời.
Thiền có công năng linh diệu trong việc hướng tri thức khi nh́n muôn vật trở nên siêu thực, nh́n với cách nh́n, lối nh́nh như thị, không thành kiến mà phải ly khai ra khỏi những đối lập, phải biến sở hữu của riêng ḿnh thành chung của vạn hữu - Thi nhân nếu không khơi dậy con đường cảm xúc, rung động toàn triệt th́ thi ca không đạt được tận cùng vi diệu và như vậy lời thơ không trải đạt được tận cùng vi diệu và như vậy lời thơ không trài hương, ươm mật. Thi nhân cũng có thể dệt những rung cảm của ḿnh trên lối về thăng hoa hiện hữu, nhưng cũng có thể biến ray rứt của ḿnh nhuộm đen tối khổ đay thêm cho đời. Điều này hoàn toàn tùy thuộc vào bản năng đang ngự tiềm ở thi nhân.

Chúng ta thử t́m những sắc thái đặc thù trong một vào công án bằng thi ca của Thiền, như Viên Chiếu Thiền Sư có lần đáp:

"Gốc tùng trổi gió âm buồng

Mưa qua lối đó vấy bùn nẻo đi".

Ngài diễn tả thực trạng nhưng, trong ấy có một cái ǵ nhắn gởi bất động như chính cái yên lặng trổi buồn của cây tùng. Và cũng lần khác ngài đáp khi được hỏi về "Chân"

"Hoa rừng vướng lệ nữ thần

Gió xao cành trúc tiếng đàn Bá Nha"

Có ai hiểu được tiếng đàn Bá Nga ngoài Tử Kỳ ra? Cái lơ lửng của Thiền như chính cái lơ lửng của thi ca vậy. Nếu nh́n nước với con mắt của khoa học, của lư trí th́ nước được cấu tạo bởi H2O nhưng, với nhăn quan thi nhân lại thấy nước là bến đ̣ tiễn biệt, những hẹn ḥ chờ đợi hoang vắng, cô quạnh trong buồn đau, lững lờ trôi như ḍng nước v.v... cách nh́n đó xuyên qua thực thể, chặng đường nầy gần giống với Thiền trong việc t́m những bí ẩn đằng sau mọi tương quan. Nhưng, thi nhân hầu hết từ đó khởi lên những hoài cảm, xót xa, thương tức, dĩ nhiên vẫn hơn những đối tượng không t́m thấy được lư lẽ này, v́ c̣n cơ may nh́n lại sư đau thương ấy. Ngược lại, với Thiều truy cứu về hiện tượng bằng những cung cách nầy nhưng, vượt lên trên ở điểm Thiền không phải là thực thể chết cứng lặng thinh, mà rất linh diệu, tươi sáng, nh́n sự vật trôi qua, biến hiện, bằng con mắt thờ ơ, lănh đạm không hề lo sợ mảy may nào.

Ngoài những điều trông thấy như nước chẳng hạn, nếu sự đơn thuần nước là nước th́ b́nh thường quá, nhưng mặt trái nuớc vẫn là cái ǵ có thể là điểm nhớ nhung, hy vọng, tùy theo trạng huống mà đối tượng đă gặp. Thiền lột trái bộ mặt ấy và đưa con người nh́n thẳng vào đó, đừng lo sợ vu vơ và đặt tra vấn ngay nếu, mặt trái là sự hẳn nhiên th́ tại sao không từ đó để thấy rằng đàng sau những xô bồ, tan ră có một cái ǵ rất thực, rất thi vị, mà ngôn ngữ không diễn tả được. Đừng run rẩy phải đối diện với hùng lực sẵn có trong mỗi người, dung ḥa được điều này th́ cuộc sống không c̣n đau khổ triền miên nữa, mà phải bắt nhịp cảm thông như thi nhân đă thi vị cuộc đời bằng chất liệu lời thơ, phải vượt ra khỏi trói buộc, như những Thiền sư đă từng vượt, th́ cuộc đời không c̣n phù vân mộng ảo nữa, có một cái ǵ đáng yêu nên thơ trong ấy.

 

Sự dung ḥa giữa thiền và thi ca trong Măn Giác:

Măn Giác Thiền Sư (1052-1096) đă tổng hợp dung ḥa những sắc thái độc đáo của Thiền tác động và hưng khởi cho thi ca. Trong ấy ta t́m được những vần thơ theo h́nh thái thi kệ một cách b́nh dị, thường nhật, thanh thoát, nhưng đă chứa những nghĩa mầu thầm kín, vén mở chân trời huyền nhiệm mà thi ca ẩn ḿnh trong đó.

Măn Giác khơi dậy sự vật hiện hữu trước mắt với lối nh́n đặt nguyên vị trước và sau chính nó đă nằm, không hẳn phải tách rời ra khỏi tư thế. Điều quan trọng từ đó thăng hoa và đưa nó trở nên biểu tượng tối cần để ngắm nh́n. Măn Giác đặt vấn đề hết sức dung dị, sự tồn tạ, diệt vong của nó theo quan điểm con người và thi nhân, cũng như giữa thi nhân với Thiền Sư. Tra vấn của Măn Giác được xuất hiện đồng lúc với thời điểm ngự trị của thời gian, nhưng điều này đă mở bày khi h́nh hài, hương sắc chính nó hiện diện ở trần thế.

Người nghệ sĩ thi nhân đến giữa cuộc đời không nhất thiết phải để lại những vần thơ bất hủ, sự có mặt của họ chính là vần thơ tô thắm cho những giá trị mà con người ít t́m thấy. Có làm thơ cũng chỉ dệt nên những rung động, và sự nói năng nầy là những tiến vọng lên, sau đó vụt tắt qua mau, nhưng có ai dám bảo rằng kẻ ấy không gởi gấm cả một tấm ḷng cho nhân thế? Hồn thơ khi đă được xuất hiện, nó bàng bạc ăn sâu và thâm nhiễm vào chính ngay đối tượng. Nếu, sự vật được đôi mắt thi nhân ghé qua dù không dệt nên thi ca th́ nó vẫn in dấu và tỏa ra những sắc hương thơm, làm đẹp cuộc đời bằng ngữ ngôn im lặng. Sắc vị ấy phảng phất bay chập chờn trong hư không, một lúc nào đó chúng ta thật sự nh́n ngắm giải lục trắng trên nền trời xanh, hay ánh trăng lung linh huyền ảo, màu sắc và yên lặng đó cho chúng ta những rung động mà chính nó đă được un đúc những cảm nhận của thi nhân từ trước.

"Cổ nhân bất kiến kim thời nguyện

Thời nguyệt năng thường chiếu cổ nhân"

Người xưa không thể trông thấy được vầng trăng hôm nay, nhưng ánh trăng hôm nay trước đó vốn đă chiếu rọi người xưa. Để rồi bây giờ hương sắc người xưa vẫn c̣n đó, ẩn ḿnh trong thăm thẳm mênh mang. Cổ nhân đă đi qua nhưng ánh trăng c̣n ở lại để điểm tô và làm đẹp con người. Sự ngự trị rung động của thi nhân có mănh lực phi thường, hoán chuyển sự vật theo cách nh́n và tạo cho con người duyên theo đi vào lối khác tràn ngập màu sắc âm thanh kỳ ảo.

Măn Giác thiền sư người đă để lại một bài thơ mà ngàn năm trôi qua giá trị vượt ra ngoài tử sinh. Âm vang của nó tựa như tiếng th́ thầm được cất lên từ đỉnh cao chất ngất vang vọng xuống trần gian. Làm cho con người sực nhớ đến sự tàn phá hủy diệt của thời gian, nhưng trong đó âm hưởng vẫn tồn tại trong vô cùng, vượt thoát có không.

Xuân khứ bách hoa lạc

Xuân đáo bách hoa khai

Sự trục nhăn tiền quá

Lăo ṭng đầu thượng lai

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

Đ́nh tiền tạc dạ nhất chi mai

Dịch:

Xuân trỗi, trăm hoa rụng

Xuân đến, trăm hoa cười

Trước mặt, việc đi măi

Trên đầu, già đến rồi

Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết

Đêm qua sân trước một cành mai

(Ngô Tất Tố)

 

Thời gian là mấu chốt cột chặt, được con người lập nên và cũng chính từ đó hủy hoại những h́nh ảnh không chút tiếc thương. Nhưng với Thiền sư kẻ thoát ra ngoài cơi sống chết thời gian không c̣n động đến, bốn mùa không duyên theo lấy ǵ mà lập. Khi tạo cho đời sự dung ḥa, Thiền sư y cứ nơi đó hé mở cho thế nhân đàng sau những chồng chất tàn phá ấy c̣n lại một cái ǵ rất là thơ, rất là thực. Hoa tàn rơi rụng để rồi ch́m lặng ẩn ḿnh trong hư vô, tạo nên kiếp lang thang trước ngưỡng cửa chờ đợi tiếp nối. Nhưng, đó là sự chuyển ḿnh để sinh thức tồn tại ở môi giới khác. Với nhăn quan của Thiền sư nó đă bị chiếu vào tận cùng nguyên thể mà chính nó đă đi qua, đây cũng là phương cách huân trưởng cho sự vươn lên một lối và cách tồn tại khác. Sự hiển lộ nầy vẫn trá h́nh len lơi chứ không hẳn kết thúc một đời. Hoa tan biến theo bản năng thông thường được dựng nên theo những nguyên lư thành, trụ, hoại, diệt. Nhưng đêm qua sân trước một cành mai nở rộ măi măi tồn tại trong vô cùng, không ai có thể tàn hủy mà chính nó đă hiện hữu trong vượt thoát. Cành mai Măn Giác thi sỹ trông thấy, không được dựng lên từ thời gian, nó đă xuất hiện tồn tại ngay trong mọi sinh diệt của cuộc đời. Bóng dáng của nó không nằm ở đâu trong hay ngoài nhưng tất cả chính là sự có mặt phi thường của nó.

 

Tính chất nghệ sĩ trong con người Măn Giác:

Măn Giác được mệnh xưng là con người nghệ sỹ, nhưng vượt lên trên tất cả những ǵ được gọi là nghệ sỹ. Nghệ sỹ ở đây được hiểu theo nghĩa những rung động, những cảm hứng vụt khởi, để rồi c̣n chỉ lại lời thơ, một chút ǵ đẹp thấp thoáng ẩn hiện trong vô cùng. Và nghệ sỹ ở đay theo nghĩa lăng quên, làm tất cả nhưng không hề nhớ ḿnh đă làm cái ǵ cũng như không có cái ǵ để làm cả, không một vật nào có thể trói buộc ngăn ngại được. Nếu có nhớ th́ sự nhớ ấy chỉ là cách để quên và đôi khi sự nhớ nầy trở thành vô niệm trong đó. Vượt lên trên những phê phán ngộ ngận, đạp tung những ǵ được gọi là định thước. Những thứ ấy không cần thiết và không làm trở ngại nhất là con người nghệ sỹ giải thoát.

Măn Giác đă đẩy lui thời gian ra khỏi ngưỡng cửa chờ mong, phóng ḿnh tới đích phi thời gian. Đêm trước sân cười một nhánh mai đă chấn động cả đất trời, như tiếng vang đinh tai nhức óc làm con người chơi vơi giữa khoảng tử sinh.

Con người đo lường cuộc sống và sự sống bằng thời gian, chờ đợi để được trả lời những nghi vấn, thực ra nó h́nh thành cũng do chúng ta muốn kiểm chứng đo lường, để rồi sau đó chính nó gây nên những tác động, làm con người trở nên lệ thuộc và đau khổ khi bị đào thảo tàn phá, như Xuân Diệu chẳng hạn, xuân vừa đến bỗng sợ xuân mất. Dù rằng Xuân Diệu đă thấy được sự vô thường trong đó.

"Xuân đang đến nghĩa là Xuân đang qua

Xuân c̣n non nghĩa là Xuân sẽ già

Mà Xuân hết th́ đời tôi cũng mất!"

Trái với Măn Giác bỏ đi thời gian, quên đi mọi vật, chỉ c̣n cành mai đang phôi sắc tồn tại măi nơi tâm thức, không c̣n ǵ có thể chi phối được nữa. Bản thể khi đă thấu rơ, đâu c̣n băn khoăn lo lắng, thương đau, ngược lại có thái độ b́nh tĩnh, tự tại, an nhiên trước những đổi thay biến hiện. Con người nếu đạt được điều này có thể vẫy tay chào tạm biệt thời gian không một luyến tiếc như Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu với mấy vần thơ:

"Người đời ai cảm? Ta không biết

Ta cảm thương ai viết mấy lời

Thôi th́: Cùng thu tạm biệt

Thu hăy tạm lui

Chỉ để khách đa t́nh đa cảm

Một ḿnh thay cảm những ai ai?

Tính chất nghệ sỹ ấy nếu được khơi mở đúng mức th́ cuộc đời là một cuộc thơ, thăng hoa trên lối về, làm nở những đóa hoa trong vô cùng mà h́nh ảnh của nó tô thắm khung trời mơ. Măn Giác đă ư thức một cách thân thiết trọn vẹn về con người, những tương quan hiện hữu nếu không được buông bỏ ra khỏi cuộc đời th́ trở thành gánh nặng cho ḿnh. Chỉ có tính chất nghệ sỹ mới dám đạp tung ra khỏi đôi vai và tâm tư chính ḿnh. Nếu, áp dụng Thiền trong sự pha trộn th́ nghệ sỹ này rong chơi dạo khắp nẻo luân hồi hỗn độn mà không hề bị hề hấn chùng bước. Đi vào cuộc đời tựa như đến khu vườn với trăm ngàn hương thơm cỏ lạ đang chờ đón. Nếu trong ấy có những đóa hoa nào tàn rơi rụng th́ với nghệ sỹ tính không khởi lên mối thương đau, v́ đó là cách biến dạng để đến môi sinh khác. Và nếu có thương đau th́ sự thương đau ấy chỉ là rung động để từ đó dệt nên lời thơ, chắc hẳn sau đó bỗng như gió thoảng mây bay, c̣n lại chút ǵ nghệ sỹ truyền cho nhân thế. Đôi lúc thi nhân không cần đến sự thưởng thức của kẻ khác, bởi lẽ mấy ai rung động trọng vẹn như thi nhân đă từng rung động, và nếu có, chắc ǵ hiểu được ư thơ. Với nghệ sỹ thơ nếu được trào dâng th́ điều ấy có nghĩa là thông lệ, không nhất thiết để người thưởng ngoạn mà không bắt đúng nhịp.
Một bài thơ được kể như hay nhất là bài thơ không bao giờ được viết nên lời.

 

Tại sao Măn Giác để lại cho đời bài thơ:

Đối tượng của thi ca là sự vật sinh động trong im lặng nhiều nhất, chính sự vô ngôn nầy tạo cho thi nhân những tiếng nói trở thành tiếng nói dùm cho đối tượng, theo nghĩa diễn tả những rung động bắt nguồn từ đối tượng.

Sự rung động tuyệt diệu chỉ xuất hiện một lần độc nhất trong một cuộc đời, ngoài ra nếu có rung động th́ sự rung động ấy được hiểu theo nghĩa rung động để trào dâng nguồn thơ chứ không phải điều đắc ư nhất của thi nhân. Cuộc đời thi sỹ chỉ để lại một bài thơ đắc ư của ḿnh được h́nh thành trong một lần tung ḿnh tới đích cảm xúc trào dâng. Truy t́m bài thơ tuyệt tác của thi nhân độc giả phải có những giây phút tiếp nhận những khởi cảm mà thi nhân đă từng rung động, th́ mới có thể nhận được những ǵ thi nhân đă trao gởi trong đó. Và kẻ thưởng ngoạn nếu không đạt tới chiều sâu vi diệt, chính là mức độ thưởng ngoạn của ḿnh bị giới hạn trước những dệt nên của thi nhân. Quả tim con người duy nhất một lần rung động tuyệt hảo, lúc người ấy tiếp nhận một cách trọn vẹn sâu xa, ngoài ra nếu có chỉ là dư hưởng c̣n lại.

Măn Giác Thiền Sư thoáng gặp lần vụt ḿnh trên những chấn động một cách toàn triệt đó là giao điểm thời gian giữa đông và xuân, ở đó t́m về quá khứ của đông sự vật và con người co ḿnh trước những giá buốt, tâm hồn trơ trọi run rẩy như những thân cây phủ tuyết đứng bất động ngoài đường. Ư thức trở nên băng giá khô cứng do thời gian tạo nên. Nhưng với Măn Giác mùa đông ấy là chất liệu đang được huân trưởng trong ngài. Sự lạnh lùng băng tuyết là thực thể đang dội mạnh vào tâm tư của ḿnh, như ḍng nước từ cao điểm đổ xuống tung tóe lên những bông hoa. Mùa đông ấp nụ để chờ cơn gió xuân thổi qua, nụ hoa bổng nhiên bùng lên trong khí trời ấm áp. Nếu không có giao điểm đông tàn th́ sự xuất hiện của mùa Xuân không làm cho cuộc đời trở nên đẹp, sỡ dĩ mùa xuân của hy vọng của muôn hoa, v́ nhờ những tàn phá của Đông trước đó làm cho con người có ước vọng t́m đến mùa Xuân, để vơi đi những bẽ bàng run rẩy trong cô liêu.
Nhưng mấy ai thực sự hưởng trọn một mùa Xuân đúng với ư nghĩa của nó nhất. Nếu Xuân đến để rồi ra đi mang theo những đóa mai tàn rơi rụng, th́ thà nàng Xuân không đến hay hơn. Nhưng rồi Xuân đến và ra đi như chính thân phận tan hợp, con người c̣n lại những nuối tiếc hoang mang, thương đau, hoài vọng, những dư hưởng vẫn c̣n phản phất đâu đay để nhớ dâng chồng chất, để nuối tiếc cho một đời.

Với Măn Giác mùa xuân không c̣n nằm nơi kheo cửa, không phải chờ đợi chúa Xuân ngự đến, mà bất chợt khi đóa mai vụt nở trước thềm cả sự cảm xúc tuyệt hảo phi thường xuất hiện trong chớp nhoáng, để rồi dệt nên bài thơ trao lại cho đời, một đóa mai không tàn phai theo năm tháng.

Duy nhất và chỉ một lần đắc ư mà trong cuộc đời Măn Giác đă t́m được, nếu không phải là lần cùng cực rung động, hẳn đă không có những vần thơ bất hủ như thế. Sự giác ngộ được kể như gơ thẳng vào tâm điểm để đạt đến sự thể nhập tuyệt cùng. Sự rung động cũng là cách cần phải thể nghiệm trọn vẹn mới có thể t́m hiểu được những ǵ mà đàng sau đó đang ẩn chứa. Và biết đâu chính những nguyên lư đó đưa đến giác ngộ?

Thiền sư là những con người có được sự bén nhạy nhanh và năng cảm nhất, v́ khám phá uyên nguyên sự vật trước hết, trên hế phải chuyển ḿnh trở thành sự vật đang hiện hữu, không thể đứng ngoài sự vật mà t́m thấy những thầm kín trong ấy, muốn t́m ra gốc rễ phải sống và thở như chính nó đă sống. Nếu không có những điều nầy th́ làm sao có thể thành tựu trong việc truy lùng uyên nguyên vật thể.

Thiền sư là những kẻ đang thở và sống trong tất cả mọi hiện tượng và sự vật, hoán chuyển để trở thành nguồn sống nuôi dưỡng cho nhữgn trổi dậy, vượt thoát ra ngoài tương quan hiện thực.
Đoá mai không tàn phai khi mai chính là chất liệu được ngự trị, và Mai đă được nở một lần thể nhập vào vô cùng, th́ cuộc đời lúc nào không có đóa Mai, không có mùa Xuân? Ư của Xuân và hương sắc quyện vào hư vô chỉ tan loăng nhưng không hề nhạt phai trong trời đất. Phải có cái nh́n như thật vượt thoát th́ mớ có thể trông thấy được những ǵ mà kẻ khác không trông thấy. Cái nh́n đó phải là cái nh́n của thi sỹ của Thiền sư của nghệ sỹ th́ sự vật mới lộ nguyên h́nh.

“Nếu không là nghệ sỹ th́ không là thiền sư

Nếu không là Thiền sư th́ không là thi sỹ"

Nhưng tất cả cuối cùng rồi chỉ c̣n trên đường về của im lặng, những lời thơ không bao giờ được cất lên nhưng ở đó một khung trời huyền nhiệm đang ngự tác. Măn Giác để lại một bài thơ hay nhất. Và rồi sau đó tất cả đang mờ dần, kể cả những lần chấn động kế tiếp, nhưng không c̣n làm cho cảm tác dâng cao độ. Một khi nó đă ở từ đỉnh cao th́ chặng đường sau không phải chỉ là cách gượng ép hay sao? Đúng ra không c̣n hứng thú nữa?

Lời thơ ấy cho đến bây giờ vẫn c̣n vang vọng và vang vọng cho đến khi nào bặt hết mọi ngôn từ, lúc ấy nó mới trở về từ nơi mà nó đă xuất hiện. Im lặng.

Như Hùng

(Nguồn www.thanhuugialam.com )