TRẦN NGUƠN PHIÊU

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Pháp danh:  Phước Lư

Sanh năm 1927 tại Gia Định. Lớn lên ở quê nội Cao Lănh (SaĐéc) và quê ngoại, ấp Phước Lư (Biên Ḥa). Cựu học sinh các trường Trung học Petrus Kư và Chasseloup Laubat. Trong thời kỳ Kháng Chiến đă tham gia phụ trách báo Nam Thanh của tổ chức Nam Bộ Thanh Niên Kháng Chiến Đoàn (Nam Thanh Đoàn).

Tốt nghiệp Y Khoa Đại học Bordeaux (Pháp). Trở về nước, đă phục vụ hơn 17 năm trong ngành Quân Y Hải Quân. Chức vụ trước khi giải ngũ là Cục phó Cục Quân Y Việt Nam Cộng Ḥa.

Đă từng đảm nhiệm:

- Tổng trưởng Xă Hội từ 1968 đến 1973,

- Chủ tịch Hội Y sĩ VN tại Texas,

- Chủ tịch Hội đồng Quản trị Hội Y sĩ VN tại Hoa Kỳ,

- Chủ tịch Hội đồng Đại diện Hội Y sĩ Quốc Tế VN Tự Do,

- Và, Hội trưởng Hội Phật Giáo miền Bắc Texas.

 

Sách đă viết:

- Phan Văn Hùm, Thân thế & Sự nghiệp

- Những Ngày Qua

 

 Đă từng cộng tác trên các tập san:  Thế kỷ 21, Văn Hóa, Lướt Sóng, Y Tế Nguyệt san, Nội san các Hội Y-Nha-Dược, và một số báo Tập san, Đặc San Phật giáo...    

 

 

a

 

 

MÙA VU LAN NHỚ NGOẠI

 

 

Triệu mồ côi mẹ rất sớm, khi chưa tṛn năm tuổi. Mẹ Triệu vốn thuộc một gia đ́nh công chức khá giả,  lớn lên ở Sài G̣n nhưng sau khi có chồng th́ về làm dâu ở Mỹ Long, một làng nhỏ thuộc quận Cao Lănh, tỉnh Sa Đéc, ven biên Đồng Tháp Mười. Nơi đây là một nơi thực sự quê mùa, xa thành phố Sa Đéc cách hai nhánh sông lớn Hậu Giang. Từ Sài G̣n xuống, đường bộ không đi ngang qua làng. Thuở đó con đường  từ An Hữu, sau khi qua bến Bắc Mỹ Thuận, đi đến quận Hồng Ngự chưa được xây cất như trong thời Đệ nhất Cộng Ḥa. Dân trong làng nếu không có dịp ra tỉnh th́ chưa biết được h́nh dáng một chiếc xe hơi ra làm sao!

Ông nội Triệu là một nhà nho, quê ở Hà Tỉnh vào Nam để theo ông Bác của Triệu bị Pháp xử lưu đày ở Nha Mân (Sa Đéc) v́ tham gia hoạt động trong phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục. Nhiều nhà cách mạng khác cũng bị Pháp chỉ định cư trú như cụ  Vũ Hoành ở Sa Đéc, cụ Dương Bá Trạc ở An Giang, cụ Phan Tây Hồ ở Định Tường ... Từ Hà Tĩnh, ông nội Triệu đă đi bộ vào Nam t́m người anh cả. Cuộc hành tŕnh này là một giai thoại được con cháu thường nhắc nhở trong gia đ́nh. Ông nội Triệu đă lănh trách nhiệm dạy học ở làng và đă lập nghiệp ở đây, vừa làm vườn vừa làm ruộng. Cả làng đều gọi ông là Ông Giáo.

Cha Triệu là một tư chức làm việc với Pháp có được cơ hội giúp việc khi Pháp thành lập các khách sạn lớn như Continental, Majectic ở Sài G̣n, Langbiang Palace, Hôtel du Parc ở Đà Lạt. Lúc Triệu ra đời th́ cha Triệu đă trở thành chuyên viên nên được chỉ định phụ trách các khách sạn ở Siemréap, Đế Thiên Đế Thích và nhà hàng Bokor ở Campuchia. Mẹ Triệu v́ có hai con c̣n nhỏ nên chưa theo chồng được, phải về quê làm dâu. Từ một nơi phồn hoa là Sài G̣n về chốn quê mùa, mẹ Triệu vẫn thích nghi được với cuộc sống mới. Từ một cuộc sống tương đối theo lối Âu tây trong một gia đ́nh công chức, mẹ Triệu vẫn sinh hoạt b́nh thường trong một gia đ́nh Nho giáo theo lề lối sống khắt khe.

V́ mất mẹ khi c̣n quá nhỏ, Triệu chỉ c̣n nhớ  mang máng được h́nh ảnh mẹ như khi mẹ xắt chuối nuôi heo hay xay lúa, giă gạo, sàng gạo với các cô... Chỉ có một lần được mẹ tắm ở giữa sân, khi gội đầu bằng xà bông, Triệu đă nhắm chặt mắt chờ khi mẹ xối nước xong mới dám vuốt mặt, mở mắt ra. Nắng chiều chiếu qua các giọt nước c̣n đọng trên mi, mặt mẹ Triệu cúi gần mặt Triệu, nên khi mở mắt Triệu thấy h́nh ảnh mẹ lung linh tuyệt đẹp. Bảy chục năm về sau, mỗi lần hồi tưởng nhớ mẹ, Triệu vẵn c̣n giữ măi nét mặt của mẹ qua ánh nước lóng lánh của buổi chiều ngày đó.

Nhưng rồi, một hôm, mẹ Triệu trở bịnh nặng, hôn mê nhiều ngày. Triệu và em  được cho ngủ riêng với các cô. Một buổi chiều, mẹ Triệu hồi tỉnh lại, các cô đưa anh em Triệu khép nép vào thăm mẹ. Nhưng đó có lẽ là những phút hồi dương ngắn v́ sáng hôm sau, các cô khóc sướt mướt đánh thức anh em Triệu dậy và cho hay “Mẹ đă mất rồi”. Vào tuổi đó Triệu thấy người lớn khóc nên cũng khóc theo, nào có hiểu  mất mẹ là ǵ! Cả nhà rộn rịp, rối rắm lo việc tẩm liệm. Trưa hôm đó, không ai c̣n th́ giờ lo cho anh em của Triệu. Hai anh em đều thấy bụng đói cồn cào nhưng không dám nói cho ai biết đành rủ nhau nằm vắt vẻo ở cầu thang v́ nhà ông nội Triệu được cất theo loại nhà sàn cao, theo lối nhà người Miên. Sau cùng có người nhận thấy, nhớ là quên cho anh em Triệu ăn mới lo cho hai đứa nhỏ vừa mất mẹ. Đó là lần đầu tiên Triệu mới nhận thức được thân phận mồ côi của ḿnh!

Mẹ Triệu  được chôn ở thửa ruộng trước nhà không xa. Chiều chiều Triệu vẫn ngồi trước nhà nh́n ra mả mẹ. Bên mộ thấy có trồng một cây chuối, v́ h́nh như mẹ Triệu chết trong lúc đang mang thai. Nghe người lớn bàn: khi chuối trổ buồng, lúc đó là em Triệu sẽ được sanh ở cơi âm? Trước mộ, Triệu c̣n thấy con chó tên Nết mà mẹ Triệu thường chăm sóc cho ăn mỗi ngày đang nằm ủ rũ. Con chó trung thành đó vẫn ra nằm nhiều ngày bên mộ mẹ Triệu!

Khi mẹ Triệu trở bịnh nặng, ông ngoại Triệu được thông báo nên hấp tấp về thăm, nhưng khi đến nơi đă thấy áo quan đang được chuẩn bị sơn đỏ khiến ông đă ngất xỉu, bộ Âu phục đang mặc bê bết màu sơn. Sau buổi chiều mẹ Triệu đă được chôn cất, ông đă ở lại đêm để chờ đến sáng đáp chuyến đ̣ trở qua Sa Đéc. Đêm đó ông đă thao thức không ngủ được, đưa mắt nh́n ánh đèn dầu trên bàn thờ vừa mới dựng lúc ban chiều cho mẹ Triệu. Chiếc đèn đó là một loại đèn dầu rất tốt, hiệu Hirondelles mà ông ngoại Triệu đă mua của hăng Armes et Cycles de Saint Étienne ở Pháp để tặng mẹ Triệu v́ biết mẹ phải về sống ở nơi quê mùa, không có ánh đèn điện. Ánh đèn tốt như thế lại bỗng nhiên bị tắt. Ông ngoại Triệu đang thức nên đă đốt lại đèn hơn hai lần trong đêm, nghĩ rằng có lẽ bướm đêm đă lọt vào bóng đèn làm đèn tắt, nhưng rồi ông lại nhớ khi chưa về nhà chồng, mẹ Triệu ngày trước cũng thường hay tắt đèn như thế để ông được ngủ an giấc. Cả nhà v́ thế  thường tin tưởng là mẹ Triệu đă chết khi c̣n quá trẻ, chưa đến 24 tuổi, mà lại đang mang thai nên rất linh hiển!

Năm mẹ Triệu chết là lúc thế giới đang ở vào thời kỳ khủng khoảng kinh tế trầm trọng. Thương măi, mùa màng ruộng vườn... đều không đem lại đủ lợi tức cho dân chúng. Cha Triệu đang có được chỗ làm ăn tốt phải trở lên Cam Bốt tiếp tục hành nghề. Ông, Bà ngoại Triệu đă thuyết phục bên nội Triệu để đem hai anh em Triệu về nuôi nấng.

Thế là Triệu có được cơ hội từ biệt nơi thôn dă để đến sinh sống trong một môi trường mới, nhộn nhịp tiếng người và xe cộ. Ông ngoại Triệu lúc ấy được thuyên chuyển về tỉnh Vĩnh Long, không xa Sa Đéc bao nhiêu nhưng đối với tuổi thơ của hai anh em Triệu, đó là cả một cuộc thay đổi to lớn.

Thành phố Vĩnh Long không lớn lao ǵ, xe hơi không có được bao nhiêu chiếc, phần nhiều là xe của các cơ quan chánh phủ hoặc các xe lô, xe đ̣... Hai anh em Triệu rất thích ra trước nhà ngắm các loại xe tự động, nhất là những ngày mưa để nh́n các quạt nước nhịp nhàng đều đặn lau các kính xe. Đặc biệt vào thuở ấy, phương tiện di chuyển, ngoài loại xe kéo, tư nhân c̣n có thể mướn một loại xe ngựa, được gọi là xe song mă. Loại xe có hai ngựa kéo này trông rất thanh nhả nay c̣n được thấy ở Pháp hay Mỹ, nơi các thắng cảnh có nhiều du khách muốn được ngồi xe rong chơi theo lối nhàn hạ thời xưa. Loại xe này được trang bị loại chuông báo hiệu do người lái xe đạp bằng chân, tiếng chuông ngân lớn nhưng rất êm tai.

Triệu không quên được buổi cơm chiều đầu tiên khi được đưa về sống bên ngoại. Ông Tám, người bếp già của ông ngoại Triệu, rất vui mừng khi thấy trong nhà có thêm hai đứa trẻ thay v́ chỉ toàn là người lớn như từ trước đến nay. Triệu được cho ăn món súp đầu tiên, trong súp có bỏ thêm nhiều miếng bánh ḿ nhỏ chiên; nhưng cả hai anh em Triệu đều ngồi ngẩn ngơ, chỉ vớt ăn các miếng bánh ḿ nào c̣n gịn, chưa thấm nước súp nhiều. Ông bếp Tám thất vọng khi thấy hai thực khách tí hon không biết thưởng thức món súp đặc biệt của ông. Triệu thú thật là ăn không được v́ vị quá lạ, nuốt không vô. Lúc ấy cả nhà mới vỡ lẽ là hai đứa nhỏ nhà quê ở làng nên chưa bao giờ miệng lưỡi lại được nếm mùi thịt ḅ và mỡ ḅ! Từ đó, cả nhà thỉnh thoảng vẫn hay đùa gọi anh em Triệu là các cháu nhà quê. Mà quả thật anh em Triệu quá quê v́ đă sống trong một làng nhỏ, ít khi được đưa đi chợ, mặc dầu là chợ làng. Lần đầu tiên được bà ngoại dẫn đi ăn ḿ, Triệu thấy món ăn này sao mà mùi vị ngon đến thế. Cả đến hôm được dẫn đi mua sách vở và cặp để chuẩn bị nhập học, ông chủ tiệm bán cặp da tặng cho một viên kẹo caramel sữa-càphê. Khi ngậm viên kẹo mới nhận thức được hương vị thần tiên của viên kẹo ngoại quốc đầu đời!

Ba năm theo học các lớp tiểu học ở Vĩnh Long là ba năm được tiếp xúc với các bạn bè nhiều giới. Triệu lại có tánh hay thích kết bạn, gặp ở lớp chưa đủ, ngày nghỉ thế nào cũng t́m cách đến nhà để tiếp tục bày tṛ. Triệu rất thích một anh bạn có cha làm nghề sửa xe hơi v́ nhà anh có bao nhiêu là viên đạn sắt đủ cỡ, bao nhiêu cơ phận máy móc hư phế thải... Triệu c̣n một anh bạn khác tên Long, cũng mồ côi mẹ, cha là một y sĩ phải đi hành nghề xa quê. Long cũng như Triệu, được gởi ở với bà ngoại. V́ cùng cảnh ngộ nên Long và Triệu thường gặp nhau trong các ngày nghỉ. Thật ra, việc t́nh cảnh gia đ́nh Long là do bà ngoại Triệu t́m ra. Như đă nói ở trên, Triệu có tánh thích kết bạn nên cuối tuần là t́m đến nhà các bạn. V́ tánh mê chơi nên quá buổi trưa thường hay quên trở về nhà. Có lẽ v́ Vĩnh Long là một thành phố nhỏ, mà bà ngoại Triệu lại có nhiều người quen nên những lần Triệu đi quá giờ như vậy, tuy không cho nhà hay trước nhưng rồi bà ngoại Triệu cũng t́m ra được nhà các bạn Triệu. Mỗi lần đi t́m cháu, bà ngoại Triệu thường hay ở lại chuyện tṛ nên thường biết thêm gia cảnh của các bạn Triệu. Việc người lớn quen nhau qua con cháu nhiều khi cũng giúp bạn bè Triệu được thuận lợi. Như có một lần, Triệu đă t́m cách lân la với một bạn học chỉ v́ biết anh bạn này có nuôi nhiều gà tre, loại gà rừng nhỏ con mà giới trẻ rất thích. Có một lúc vào ngày lễ, thầy giáo lại cho một lô bài toán cho học sinh phải làm trong các ngày nghỉ. Anh bạn này vốn yếu về toán nên rủ Triệu đến nhà để cùng làm bài. Anh cũng có hứa sẽ tặng cho Triệu một con gà để đem về nuôi. Đến măi xế trưa, sau khi đă giúp làm xong các bài toán, anh bạn này mới lựa cho Triệu một con gà bé tí teo, mà lại là một con gà mái! Triệu thất vọng quá nhưng không dám nói ra. Nhằm lúc ấy bà ngoại Triệu lại đi t́m cháu và được hướng dẫn đến đúng nhà bạn Triệu. Như thường lệ, bà ngoại Triệu bắt chuyện với gia đ́nh bạn Triệu. Trong câu chuyện ngoại Triệu có cho gia đ́nh bạn biết là sáng trước khi đi, Triệu có cho bà biết là hôm đó Triệu có một bạn hứa đến nhà anh ấy “lấy gà”. Ngoại Triệu đă dạy Triệu là phải nói “đến nhà bắt gà, chớ không ai lại nói: đến để lấy gà”. Mọi người đều cười ồ về việc dùng sai danh từ của Triệu và kết cuộc câu chuyện là gia đ́nh bạn Triệu bắt anh phải tặng thêm cho Triệu một anh gà trống đàng hoàng cho “đủ cặp”!

Ông ngoại Triệu là một trong những người được huấn luyện đầu tiên về ngành họa đồ nên thường được đổi đi rất nhiều tỉnh để đo đạc đất đai ở miền Nam. V́ vậy nên Triệu tuy c̣n nhỏ tuổi nhưng trong các câu chuyện nghe được trong gia đ́nh, nhiều địa danh các làng mạc, sông ng̣i, kinh lạch... đă in vào tiềm thức Triệu. Sau này khi phải di chuyển đó đây trong thuở Kháng chiến Nam bộ hay trong thời gia nhập Hải Quân, những nơi như Cầu Kè, Cầu Ngang ở Trà Vinh, Hàm Luông, Mơ Cày, Giồng Trôm ở Bến Tre, Đầm Dơi, Năm Căn,Cái Nước, Sông Ông Đốc ở Cà Mau..., các nơi đó đối với Triệu tưởng chừng như là những nơi đă từng biết trước!

Khi đáo tuổi hồi hưu, Ông ngoại Triệu trở về quê quán ở Biên Ḥa. Từ nơi đô thị tỉnh nhỏ là Vĩnh Long, Triệu bắt đầu làm quen với lối sống nửa tỉnh, nửa quê ở  Phước Lư, một ấp nhỏ bên ḍng sông Rạch Cát, cách tỉnh lỵ Biên Ḥa khoảng bốn cây số. Ông ngoại Triệu quê quán nhiều đời ở Cù Lao Phố, bên kia bờ Rạch Cát và được thừa kế nhiều ruộng vườn ở đó. Tuy nhiên v́ là một công chức thường phải luân lưu sống xa quê nên ruộng vườn ông ngoại Triệu đă nhường cho các cháu canh tác. Khi về hưu, ông tậu một mảnh vườn ở Phước Lư, bên kia bờ của Cù Lao Phố, một nơi gần tỉnh lỵ Biên Ḥa hơn.

Khi di chuyển từ Vĩnh Long về Biên Ḥa, ông ngoại Triệu được một người bạn có xe hơi riêng giúp cho mượn để về lại quê. Lần đầu tiên được đi xe Citroen, Traction 15, hai anh em Triệu sung sướng được ngồi xe có nệm êm, không như lúc di chuyển từ Sadéc qua Vĩnh Long bằng  xe đ̣, phải ngồi chật như nêm mà lại bị xốc nhảy dựng khi xe qua các cầu nhỏ!

Triệu học hết chương tŕnh Sơ học ở trường tỉnh Biên Ḥa. Vào thuở đó, chỉ có ở tỉnh lỵ mới có đèn điện. Phước Lư chỉ cách tỉnh có độ ba, bốn cây số nhưng ban đêm phải thắp đèn dầu để học. Triệu được ông ngoại theo dơi việc học hành và sáng sớm nào ông cũng bắt phải vặn đồng hồ báo thức vào 5 giờ rưởi để ôn lại bài trước khi ăn sáng và lội bộ đến trường. Trong khi đó th́ ngoại đi hâm cơm, một phần để ăn sáng, một phần gói ép vào một tấm mo cau để đem theo ăn trưa. Mỗi khuya thức dậy, quẹt diêm thắp đèn học bài, diêm sanh cháy trong không khí trong lành buổi sáng tỏa ra một mùi hương thật đặc biệt. Biên Ḥa là xứ núi đá nên buổi sáng nhiều khi rất lạnh. Ép mo cơm nóng vào ngực khi đi đường vào sáng sớm, nghe hơi ấm chuyền vào ḿnh là một thú vị khó quên của Triệu.

Về được Biên Ḥa, khác với lúc ở Vĩnh Long, Triệu có được cơ hội cùng với các bạn, đi xa hơn vào các thôn xóm, sông rạch. Vớt cá thia thia th́ được các bạn hướng dẫn đến vớt ở con suối chảy quanh chùa Xóm Hóc Măng Tre v́ cá ở suối đá hay hơn cá vớt ở ruộng. Trái cây rừng như gùi, bứa, sim, dâu... có thể kiếm ê chề nếu biết tháp tùng các thợ đi đốn củi ở rừng Vĩnh Cửu. Nước sông Đồng Nai đặc biệt rất trong xanh, so với nước đục nhiều phù sa của sông Cửu Long. Nh́n nước là đă muốn lội tắm rồi. Nhà ở ven sông, đặc biệt khúc sông Đồng Nai bao quanh Cù Lao Phố rất hiền ḥa nên Triệu đă mau chóng bơi lội khá giỏi. Sau này vào Hải Quân, được huấn luyện thành thạo hơn nên Triệu đă giúp trường  Quân y Hải Quân Pháp đoạt nhiều giải. Khi  ở Biên Ḥa Triệu đă nhiều lần lén nhà lội ra Cù Lao Rùa t́m các “lưỡi tầm sét” đem về nhường lại cho các gia đ́nh có con mắc bịnh kinh phong! Dân chúng thường vẫn hay tin tưởng là đặt lưỡi tầm sét trên đầu giường hay mài lấy nước uống sẽ giúp các trẻ tránh được bịnh này? Cù lao Rùa trên sông Đồng Nai là nơi trú ẩn an toàn cho những người tiền sử xử  dụng đồ đá làm khí giới nên ở nơi đây, lưỡi tầm sét rất dễ t́m.

Cũng v́ mê đi chơi như vậy, nhất là đi bắn chim bằng ná thung nên có một lần Triệu đă bị một trận đ̣n nhớ cả đời. Vào thời ấy Triệu có một bạn là Lương Khánh Chí, có biệt tài bắn ná. Đi bắn chim với anh đó th́ không bao giờ trở về tay không v́ nếu Triệu bắn trật th́ anh sẵn ḷng tặng chim lúc trở về nhà. Vào một thời nghỉ lễ Tết, hết việc đi đánh bầu cua cá cọp Triệu lại chỉ lo ṿ đạn đi bắn với anh Chí, quên lo việc làm bài thầy giáo đă ra đề trước để làm trong các ngày nghỉ lễ.

Hôm hết lễ đi học trở lại, bài không làm kịp nên sáng đó Triệu than bị đau bụng để khỏi đi học. Bà ngoại cưng cháu nên đồng ư nhưng ông ngoại đang làm việc ngoài vườn, thấy Triệu c̣n nằm nhà nên hỏi lư do. Ông bảo đưa tập vở ra xem, khi thấy Triệu chưa làm xong các bài, ông bắt Triệu phải đi học ngay. Ông căn dặn khi đến trường phải ghi sổ xin đi khám bịnh viện nếu thật sự c̣n đau. May thay hôm đó thầy giáo không xét bài của Triệu nên  Triệu cũng khỏi xin đi “khám bịnh”. Chiều hôm đó về nhà, Triệu tưởng là thoát nạn, đâu có ngờ ông ngoại vẫn hạch hỏi xem thuốc nhà thương cho cất đâu?  Triệu phải ăn một trận đ̣n về hai tội: tội nói láo để trốn học v́ không làm bài và tội thứ hai là ham bắn chim, mê cờ bạc, đỏ đen ngày Tết.

Nhờ được uốn nắn như vậy nên sau này Triệu mới học đến nơi đến chốn. Lúc c̣n là sinh viên ở Pháp, Triệu có một bạn người xứ Ba Tư tên Charroki, rất thông minh, hoạt bát, sành đời. Anh ta là một tay biết nhiều mánh lới cờ bạc nhưng anh có chủ trương chỉ cốt ăn thua đủ để có tiền đi coi Ciné với Triệu mà thôi. Anh đă truyền nghề cho Triệu nhưng Triệu chỉ tham dự đánh bài nếu đó là cuộc chơi để vui, không có ăn thua tiền bạc. Mặc  dầu có thể bị bạn chê là keo kiệt, nhát gan, Triệu đă giữ được lời hứa với ngoại.

Sự lo lắng theo dơi việc học hành của ngoại đă giúp Triệu thi đậu trong kỳ thi tuyển vào Trung học Pétrus Kư. V́ đỗ được hạng cao nên Triệu có được học bổng ở nội trú. Sau khi thi đậu được bằng Thành chung, nhiều người trong họ hàng khuyên Triệu nên đi kiếm việc làm để nuôi nấng lại ông bà nhưng ngoại nhất định không chấp thuận, khuyên hăy tiếp tục v́ có đà học đang tiến. Ông bà chấp nhận vẫn có thể sống với huê lợi ít ỏi của vườn bưởi! Khi Triệu thi đỗ được bằng Tú tài, v́  có cơ hội tiếp tục lên Đại học nếu chịu theo học ngành quân y hiện dịch nên Triệu đă được ngoại khuyến khích đầu quân vào Hải Quân.

Đây là một cơ hội hi hữu để được xuất ngoại sang Pháp du học. Ông bà ngoại lúc ấy đă già, không thể qua Sài G̣n đưa cháu nhưng đă tổ chức một bữa cháo vịt là món cháu thường ưa thích để tiễn cháu ra đi!

Ba năm sau thời gian đang du học, Triệu được tin ông ngoại trở bịnh nặng. Sức ông càng ngày càng yếu v́ đă phải mang nhiều bịnh khi băng rừng, lội suối lo việc đo đạc khi hành nghề họa đồ. Triệu được em cho hay là ngày ông ngoại Triệu mất, ông vẫn nhắc đi nhắc lại là ông vẫn chưa chết đâu, v́ ông c̣n chờ cháu ông du học trở về! Một tuần sau đám tang, bà ngoại vốn có bịnh yếu tim có lẽ v́ buồn năo nên đă vĩnh viễn ra đi trong khi nằm nghỉ trên vơng!

Triệu được tin buồn trong thời gian hè, đang đi thực tập học môn học bắt buộc của Hải Quân về thuyền buồm ở Trung tâm Huấn luyện ở Socoa, trong vịnh Gascogne miền Tây-Nam nước Pháp. Thấy Triệu bỏ ăn trong nhiều ngày mặc dầu trong phiên học phải có sức đương dầu với sóng, gió biển, Nguyễn Sanh Nghĩa, một anh bạn người miền Trung rất am tường Phật Pháp đă an ủi Triệu bằng cách nhắc lại những lời Phật dạy về lẽ Vô thường. Anh đă đem các tư tưởng Phật giáo dạy lại Triệu về Sinh, Lăo, Bịnh, Tử, về thuyết Luân Hồi, Nhân Quả, Tứ Diệu Đế v.v...

Vào thời ấy ở miền Nam nước Pháp không có chùa Phật. Chỉ ở Paris và ở Marseille mới có chùa mà thôi. Anh Nghĩa nhắc lại Triệu về các lễ Cầu Siêu mà Triệu đă có cơ hội tham dự lúc c̣n ở bên nhà. Anh đă theo lời hướng dẫn trong quyển Kinh Nhật Tụng nhỏ anh vẫn thường đem theo bên ḿnh để cùng giúp Triệu làm một lễ Cầu Siêu đơn giản.

Sáng sớm Chủ nhật trong tuần đó, Triệu đă lấy xe đạp đi về phía Bắc, lên một cánh đồi ở Guétary. Trong cảnh mặt trời lên buổi sáng, ngồi nh́n về phương Tây, để tâm hồn lắng dịu, vượt qua Đại Tây Dương và cả Thái B́nh Dương, Triệu chú ḷng làm lễ Cầu Siêu cho ông và bà ngoại. Mặc dầu biết rằng trong các lễ cầu nguyện nên cần có tha lực của nhiều người cùng chú nguyện, nhưng cho đến nay, Triệu vẫn tin rằng lần cầu nguyện đơn côi ấy là lần Triệu  thực sự được cảm thông trực tiếp với ông bà ngoại của Triệu.

Sau buổi cầu nguyện, Triệu tiếp tục ngồi lặng yên, tận hưởng những giây phút hiện tại đang được sống giữa cây cỏ, núi đồi, ánh sáng trong suốt buổi ban mai. Triệu lắng nghe tiếng chim hót, Triệu nh́n những con dế hút nước sương trên các cọng cỏ, lá cây... Triệu chợt thức tỉnh, nghĩ đến những lời dạy của Đức Phật về Luân Hồi, về Duyên Khởi. Những cảnh vật quanh Triệu, từ ánh sáng ban mai đến cơn gió lạnh ở đại dương thổi vào, từ côn trùng đến chim chóc, từ hơi thở đến nhịp tim đang đập mạnh trong Triệu... tất cả đều như ḥa hợp duyên khởi nhịp nhàng. Triệu cảm thấy h́nh ảnh của ông, bà ngoại Triệu vẫn c̣n tiếp tục sống trong Triệu cũng như huyết mạch của ông bà nhiều kiếp vẫn luân lưu trong thân thể Triệu.

Buổi sáng tinh sương trên đỉnh đồi Guétary hôm đó đă đưa Triệu đến con đường vào ánh sáng đạo Phật và kể từ đó, đă giúp Triệu có một cuộc sống an lạc trong thân tâm.

Trở về Việt Nam hành nghề, Triệu đă có dịp chứng kiến các tàn phá, đổ nát, chết chóc trong cuộc chiến tương tàn v́ ư thức hệ. Triệu cũng phải như các đồng hương khác, bỏ xứ sau sự thất bại ở miền Nam để ra đi t́m được cuộc sống trong khung cảnh tự do. Trong nỗi đau ḷng xa xứ, Triệu nhận thức thấy trong sự rủi cũng có cái may khi chứng kiến sự thành công vẻ vang của giới trẻ về học vấn, sự thành đạt về phát triển kinh tế của những đồng hương đến xứ người với hai bàn tay trắng, sự phát huy Phật Pháp và Thiền Đạo ở hải ngoại ...

 Sự hủy hoại đau thương trong chiến tranh giữa hai miền Nam Bắc, sự bắt buộc đành bỏ xứ ra đi của dân chúng miền Nam, phải chăng đấy là một cộng nghiệp mà Triệu phải cùng gánh chịu với cả dân tộc ?   

Đến đất Mỹ, sau mười tám tháng làm lao công ở Bịnh viện Tâm trí ở Austin, thủ đô Texas, vừa đi làm vừa tự học, nhờ ân đức tổ tiên ông bà để lại, Triệu may mắn thi đậu lấy lại được bằng hành nghề y sĩ. Cuộc sống trở lại b́nh thường như lúc hành nghề ở Việt Nam ngày trước. Thực ra nếu so sánh với điều kiện hành nghề tư trong 15 năm ở khu xóm lao động Thủ Thiêm bên kia bờ sông Sài G̣n, một khu phố nhỏ không có đèn điện, không có nước máy th́ các tiện nghi hưởng được ở Mỹ hơn trước cả trăm lần. Tuy nhiên, tuy việc hành nghề ở Mỹ với những dụng cụ tối tân, y dược hữu hiệu đă đem lại nhiều thích thú chuyên môn nghề nghiệp nhưng không thể so sánh với sự măn nguyện tinh thần khi c̣n làm việc trong hoàn cảnh thiếu thốn ở quốc nội. Mặc dầu biết ḿnh không tài giỏi trong y nghiệp nhưng Triệu cũng cảm thấy măn nguyện đă cứu giúp được cho bao nhiêu trẻ em gia đ́nh lao động. Cha mẹ các em không được hướng dẫn y khoa thường thức, nên khi các trẻ con bị chứng tiêu chảy lại sợ không cho uống thêm nước. Bao nhiêu trẻ trước kia đă không được cứu sống v́ trạng thái mất nước trầm trọng khi bị chứng tiêu chảy trong đêm. Cha mẹ không biết cho các em uống để cầm cự cho đến sáng trong khi không thể đem đến bịnh viện được trong giờ giới nghiêm, ghe đ̣ bị cấm đoán không được vượt qua sông Sài G̣n. Những lúc may vá các thương tích cho bịnh nhân dưới ánh đèn dầu “manchon” nóng bức lại đem lại nhiều măn nguyện nghề nghiệp hơn là những khi giải phẫu trong pḥng mổ tối tân ở Mỹ có điều ḥa không khí v́ trong ḷng, Triệu vẫn áy náy lo sợ có thể bị thưa kiện sau này...

Triệu đă chọn một thị trấn nhỏ, có một bịnh viện 40 giường để hành nghề. Làm việc ở một làng quê ở Mỹ kể ra cũng có nhiều tiện lợi, ít di chuyển nên tránh được nhiều phiền toái và tai nạn, mọi người đều biết nhau nên t́nh người vẫn thấy c̣n được duy tŕ... Đă  từng được dạy dỗ trong tinh thần “tri túc”, nếu “biết đủ là đủ rồi” nên Triệu thích nghi dễ dàng  với cuộc sống ở một thị trấn thôn dă.

Trong các bịnh nhân của Triệu có một em bé da đen, lễ phép, rất dễ thương, thường được bà ngoại đem đến pḥng mạch chữa trị. V́ được hưởng chế độ xă hội “Medicaid”, khám bịnh miễn phí nên em bé thường đến pḥng mạch. Bà ngoại của em bé là một người đàn bà cao niên, ăn nói lễ độ, chững chạc, đầy phong cách. Khi nhận thấy t́nh trạng y tế của cậu bé không có triệu chứng ǵ là bất thường nhưng lại thường xuyên xin khám bịnh nên Triệu đă đoán được là cậu bé chỉ mắc bịnh “sợ đi học”!

 Biết chắc là bà ngoại cậu bé v́ thương cháu nên nuông chiều, không trị được việc cháu trốn học nên một hôm Triệu xin phép bà để “lên lớp giảng luân lư”. Triệu nói với cậu bé da đen tên Robert Ford: “Cậu hăy trông tôi đây. Tôi thuở nhỏ cũng được bà ngoại nuôi nấng và đă từng được bà ngoại nuông chiều. Tôi cũng từng có dịp ngán đến trường nên ̣n ỷ bà ngoại xin khai bịnh để được ở nhà. Ngày nay tôi đă thành bác sĩ, v́ tôi có được một ông ngoại cứng rắn, bắt tôi phải đến trường khi không có bịnh. Kể từ nay nếu tôi xét thấy anh thật sự bị bịnh th́ tôi sẽ trị bằng thuốc chích cho mau lành, thay v́ cho thuốc uống!” Từ đó quả thật cậu bé ít thấy đến chữa bịnh hơn trước và Triệu vẫn giữ lời hứa: mỗi lần đến chữa bịnh Triệu vẫn t́m cách chích thuốc nhưng vẫn cho thêm toa thuốc uống.

Vào khoảng năm 1997, lúc đó Triệu đă di chuyển pḥng mạch đến thành phố lớn Amarillo trên hơn mười năm. Một buổi trưa sắp đến giờ nghỉ, y tá cho Triệu hay có một bác sĩ muốn xin vào thăm. Trên danh thiếp thấy đề tên Robert Ford! Thật đúng là cậu bé da đen của Triệu ngày trước. V́ có việc qua ngang Amarillo nên anh đă tạt qua thăm Triệu. Hiện anh c̣n đang phải thực tập chuyên khoa. Bà ngoại anh đă mất khi anh chưa ra bác sĩ. Anh lại cho Triệu biết hôm nay anh đến thăm Triệu t́nh cờ lại trùng với ngày ngoại anh đă mất, ba năm về trước. Triệu cũng cho anh hay là ông, bà ngoại Triệu cũng đă mất trước ngày Triệu tốt nghiệp trở về xứ. V́ vậy, ngày nay mỗi lần ngồi lái xe, nhớ lại thời sung sướng lần đầu tiên được đi trên chiếc xe Traction Citroen 15 trên đường từ Vĩnh Long về Biên Ḥa, Triệu vẫn thấy ḷng hối tiếc không được dịp đưa ông bà ngoại Triệu bằng chiếc xe nhà để dạo chơi ngắm cảnh.

Triệu mời Robert cùng đi dùng cơm trưa. Triệu cũng nhắc Robert là ngày trước bà ngoại anh thích món bông cải cauliflower đút ḷ với sữa tươi và cheese. Triệu biết như thế v́ đă có lần chữa trị cho bà. Bà đă phải khẩn cấp vào bịnh viện v́ không tiêu hóa được món đó khi ăn vào buổi tối nên bị chứng nghẹn thở khi đi nằm. Triệu đă từng khuyên bà chỉ được ăn món đó vào buổi trưa mà thôi v́ theo lịch sử y khoa, nhiều cụ già đă chết v́ ăn cái món khó tiêu ấy trước khi đi ngủ. Robert cũng đồng ư là bà ngoại anh có bí quyết nấu món ấy rất ngon nhưng từ ngày suưt chết v́ món đó, bà đă ít khi nấu cho gia đ́nh.

Triệu đưa Robert đến một quán ăn Triệu thường đến và dặn trước nhà bếp: khách có gọi món ǵ th́ gọi, phải có thêm món bông cải đút ḷ với phó mác. Triệu căn dặn người dọn bàn là Triệu sẽ trả thêm cho một phần ăn và phải dọn cho cả ba thực khách. Robert rất ngạc nhiên khi thấy người dọn bàn sắp xếp muỗng, nĩa, khăn ăn cho ba thực khách và hỏi Triệu về người thực khách thứ ba chưa thấy đến.

Triệu giải thích cho Robert biết rằng theo lề lối tín ngưỡng Việt Nam, v́ hôm nay đúng là ngày qua đời của bà ngoại Robert, nên Triệu muốn làm lễ giỗ, cầu Bà về cùng ăn với Robert. Anh chợt hiểu và khi nhà bếp đem đặt thêm trên bàn món bông cải, anh đă phải cố nén giữ khỏi khóc khi Triệu lên tiếng khấn mời Bà ngoại Robert cùng dùng bữa. 

Sau buổi ăn, Robert đă cảm ơn Triệu và hứa là trong tương lai anh cũng sẽ làm lễ giỗ bà ngoại mỗi năm và anh sẽ tự nấu thêm món bông cải đút ḷ theo phương pháp bí truyền của gia đ́nh anh.

Triệu đă giải thích thêm cho Robert là chính Triệu mới là người phải cám ơn anh. Việc thành công về sự nghiệp của anh là niềm hoan hỉ của Triệu. Bà ngoại anh và anh đă giúp Triệu có thêm được cơ hội trả ơn dưỡng dục của ông, bà Triệu. Sự cố gắng học hành thành công của anh đă giúp Triệu có được dịp thực thi hạnh Bố Thí của nhà Phật.

Năm nay, ngày Đại Lễ Vu Lan tháng Bảy cũng sắp đến. Phật giáo Việt Nam nay đă tiếp nhận truyền thống Nhật Bản thực hành Lễ Hoa Hồng Cài Áo trong ngày Đại Lễ Vu Lan: Phật tử có phúc c̣n được mẹ hiện tiền sẽ được cài một hoa hồng màu đỏ vào áo, Phật tử đă mất mẹ sẽ được cài một hoa hồng trắng.

Các em trong Gia Đ́nh Phật Tử, t́nh nguyện phụ trách Lễ Hoa Hồng Cài Áo cho các Phật tử tham dự Đại Lễ Vu Lan, thường hay thắc mắc hỏi lại khi Triệu xin  các em gắn cho hai hoa trắng thay v́ chỉ một hoa: “Bác thật t́nh muốn gắn hai hoa trắng thật sao?”.

Năm nay chắc cũng lại có em hỏi Triệu như vậy và chắc Triệu cũng phải cố gắng giữ khỏi khóc để trả lời: “Cho Bác xin hai hoa, một cho Mẹ và một cho Ngoại”.

 

Trần Nguơn Phiêu

               Mùa Vu Lan 2546 P.L.

               Trích “Gió Mùa Đông Bắc”