TRẦN QUANG THUẬN

 

 

 

 

Sinh ngày 02 tháng 7 năm 1930 tại Huế.

Đệ tử của Cố Đại Lăo Ḥa Thượng Thích Đôn Hậu.

Du học và tốt nghiệp Tiến Sĩ tại Anh.

Cựu Bộ Trưởng Bộ Xă Hội, chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa.

Cựu Nghị sĩ Thượng Nghị Viện Việt Nam Cộng Ḥa.

Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành Hội Ái Hữu Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ.

Tổng Thư Kư Hội Đồng Điều Hành Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ.

Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Nghiên Cứu Kế Hoạch GHPGVNTNHN-HK.

Giám đốc Trung Tâm Học Liệu Phật Giáo, California, Hoa Kỳ.

Đă cộng tác với nhiều báo chí Phật Giáo Việt Nam tại hải ngoại.

 

Tác phẩm đă xuất bản:

Phật Giáo Nga – 2000

Phật Giáo Mỹ (Tập I) – 2000

Phật Giáo Mỹ (Tập II) – 2000

Hành Tŕ Phật Đạo Tại Trung Quốc – 2003

-  Phật Giáo Trung Hoa Dưới Thời Mao Trạch Đông – 2003

Phật Giáo Tây Tạng – 2004

Phật Giáo Trung Á – 2004

Triết Học Chính Trị Khổng Giáo – 2004

Phật Giáo Tổng Quan – 2005

Hành Tŕ Phật Đạo Tại Thái Lan – 2006

Phật Giáo Đại Hàn – 2006

Thuyết Giảng – Tranh Luận - Điều Hành – 2006

 

Tác phẩm đang hoàn tất và sẽ xuất bản:

-  Phật Giáo Nam Tông Tại Đông Nam Á

-  Phật Giáo Miến Điện

-  Phật Giáo Tích Lan

-  Phật Giáo Nhật Bản

-  Phật Giáo Mông Cổ

-  Phật Giáo Lào

-  Phật Giáo Cao Mên

 

 

 

a

 

 

 

TỨ CHÚNG ĐỒNG TU,

THÁNH PHÀM ĐỒNG CƯ ĐỘ

 

 

Bà Cụ nhà tôi và nhà tôi chuyên tu Tịnh Độ. Mỗi ngày bà cụ ít nhất ba lần công phu niệm Phật. Nhà tôi ít nhất mỗi ngày một lần, từ 5 giờ đến 7 giờ sáng. Khi nghe bàn đến chuyện Tịnh Độ th́ nhà tôi như rồng gặp mây, thao thao bất tuyệt, cho rằng ḿnh đă đi đúng đường, v́ căn cơ thấp nên không thể hành tŕ thiền quán mà chỉ biết tŕ danh niệm Phật, tụng kinh bái sám, để một ngày nào đó được văng sinh vào thế giới Cực Lạc.

Tôi hỏi nhà tôi tại sao cầu văng sinh Cực Lạc? Cực Lạc nằm ở đâu? Cực Lạc có ǵ hay mà cầu văng sinh? Bà nh́n tôi có vẻ không tin vào lỗ tai của bà ta, v́ một Phật tử ai lại hỏi những câu hỏi lạ kỳ như vậy. Tôi lại làm cho bà bối rối them khi tôi nói trong đạo lư Thật Tướng, th́ làm ǵ có sinh tử, khổ đau? Trong đạo lư Bất Sinh, Bất Diệt, Bất Lai, Bất Khứ th́ làm ǵ có Ta Bà, Tịnh Độ.  Trong đạo lư Như Như, th́ Như Lai không xuất thế, Như Lai không nhập Niết Bàn, th́ làm ǵ có Cực Lạc, Ta Bà? Rồi tôi dẫn chứng lời Phật dạy trong Kinh Duy Ma Cật: “Này Bảo Tích, chúng sinh là cơi Phật của Bồ Tát, v́ sao vậy? V́ Bồ Tát muốn giáo hóa chúng sinh, muốn điều phục chúng sinh, tùy tâm nguyện chúng sinh mà tiếp nhận cơi Phật. Như người muốn xây dựng lâu đài phải xây trên đất chứ không phải xây trong hư không. Bồ Tát cũng thế, v́ muốn thành tựu chúng sinh mà tiếp nhận cơi Phật.”

Bà được thế, chụp vội: “Anh thấy chưa trong đoạn Kinh anh dẫn chứng Phật dạy…” Tùy tâm nguyện chúng sinh mà Bồ Tát tiếp nhận cơi Phật.” Như vậy rơ ràng là có cơi Phật được Bồ Tát v́ chúng sinh mà tiếp nhận.”

Tôi nói: “Thôi được, cho bà có lư đi. Bà có biết không, niềm tin nơi đức Phật A Di Đà là kết quả của sự chiêm nghiệm về Báo Thân và Pháp Thân Phật. Nếu vượt qua mọi h́nh tướng, sắc thái của vị Phật lịch sử, vị Hóa Thân Phật, ta sẽ t́m thấy một đức Phật lư tưởng hợp với quả vị phước báo từ bao số kiếp, hợp với sự giác ngộ viên măn. Nói một cách khác, nếu chúng ta mô tả một vị Phật dựa trên căn bản giác ngộ viên măn, chúng ta sẽ có một đức Phật tràn đầy ánh sáng, sống lâu vô lượng kiếp, đức Phật Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang. Bà thường đọc Kinh Pháp Hoa, trong Kinh, đức Thích Ca Mâu Ni ẩn dụ cho hàng đệ tử không nên xem ngài như một vị Phật sinh ở xứ Ca Tỳ La Vệ, xuất gia, hành thiền, tu chứng, nhập diệt, một vị Phật với thọ mạng 80 năm, với công hạnh trên 45 năm, mà ngài thật sự là một vị đă thành Phật lâu đời, lâu kiếp, thời gian vô cùng, hiện thân khắp nơi, không gian vô tận, là đức Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang Phật, không khác đức Phật A Di Đà…”

“Nhưng cảnh giới Ta Bà”, tôi nói tiếp “theo Kinh A Di Đà làm bằng vàng, bằng ngọc, bằng trân châu, mă năo có vẻ nhân tạo như vậy đâu có thích thú, làm ǵ có ánh mặt trời, có cảnh chiều tà, có chiếc lá vàng rụng cuốn theo chiều gió, làm ǵ có trận mưa ngâu, làm ǵ có ánh b́nh minh chói rọi… những vẻ đẹp thiên nhiên mà thế giới Cực Lạc không có! C̣n nữa, sinh trên đài sen, trong vườn hoa sen ngũ sắc, nghe âm nhạc suốt ngày! Bà cứ tưởng tượng ḿnh bị đầy ra Côn Đảo, ḥn đảo lớn như vậy mà ḿnh c̣n cảm thấy tù túng, bị cô đơn, bây giờ ngồi trên đài sen, giữa hồ, th́ cô đơn biết mấy, tù túng biết mấy, rồi c̣n phải nghe nhạc suốt ngày, không có phút nào yên tĩnh, th́ làm sao chịu cho nổi!”

Bà ta có vẻ bực tức nói: “Không ngờ anh quá gàn bướng.  Tưởng anh nghiên cứu sách Phật nhiều, tưởng anh đa văn, túc trí, không ngờ anh không có một sáng tạo nào cả! Anh có nghe câu “Y kinh giải nghĩa tam thế Phật oan không?” Lời nói trong Kinh A Di Đà là để diễn tả sự hoàn hảo của thế giới Cực Lạc và lẽ dĩ nhiên ngôn từ không làm sao chuyên chở được toàn ư nghiă.  Chính v́ vậy mà Phật sau 49 năm thuyết pháp đă dạy là Ngài không nói một lời nào.”

Không ngờ bà ta khá thật. Tôi hỏi thêm để thử khả năng thâm nhập Phật lư của bà: “Thế giới Cực Lạc như vậy có khác ǵ Thiên Đường! Bà cầu về Cực Lạc để hưởng thụ và tệ nhất là để hưởng thụ cá nhân mặc cho ai sống khổ đau ở thế giới Ta Bà!”

Bà nói: “Tôi chán anh quá, anh chả biết Phật Pháp tí nào cả.  Thế mà đ̣i viết sách Phật, ưa đi giảng đạo. Khi lư tưởng về Niết bàn vượt không gian, thời gian, được thể hiện th́ đấy chính là Vô Tận hay Vô Lượng, là Di Đà hay Amida hay Amitabha. Sự mô tả về cảnh Cực Lạc chỉ là giải thích đặc tính Vô Lượng của giác ngộ viên măn. Cực Lạc là nơi Tứ Chúng đồng tu, nơi Thánh Phàm cùng cư trú (Tứ Chúng Đồng Tu, Thánh Phàm Đồng Cư Độ), không phải là nơi chỉ để hưởng lạc mà là nơi thuận tiện cho con đường tiến tu của Tứ Chúng, không phải ích kỷ cho riêng ḿnh, mà là nơi Thánh cũng như Phàm cùng nhau sống, tu, trên hành tŕnh giác ngộ, giải thoát và hành tŕnh ấy được xây đắp không bằng tự lợi mà bằng lợi tha, chính lợi tha là tự lợi, nên không phải dửng dưng trước sự khổ đau của đồng loại, chúng sinh. Kinh Hoa Nghiêm khai triển đạo lư trùng trùng duyên khởi, chủ trương vạn vật trên thế gian liên hệ mật thiết với nhau như lưới pháp châu, mọi động tác, lời nói, ư nghĩ ảnh hưởng lẫn nhau. Do đó, tự lợi là lợi tha, lợi tha là tự lợi, không có cái ǵ đứng riêng rẽ một ḿnh.”

Bà dừng lại, rồi nói: “Chắc anh biết hết rồi, muốn chọc quê em chứ ǵ. Có điều em muốn hỏi anh, trong các Kinh khác Phật thường dạy ‘Hăy tự ḿnh thắp đuốc lên mà đi’ bây giờ Kinh A Di Đà lại nói nhờ vào tha lực vào sự cứu độ của Phật A Di Đà, như vậy có mâu thuẫn không anh?”

Tôi nói: “Không biết bà đă đọc Kinh Na Tiên Tỳ Kheo chưa? Trong Kinh thuật chuyện vua Milinda, một hoàng đế Hy Lạp tŕ v́ Sagara vào khoảng năm 115 trước kỷ nguyên, hỏi ngày Na Tiên (Nagasena) tại sao người ác lại được cứu độ nếu tin tưởng vào vị Phật trước khi chết. Na Tiên trả lời, một ḥn đá dầu nhỏ mấy đi nữa, nếu quăng xuống nước, nó sẽ ch́m, nhưng một tảng đá nặng ngàn cân, nếu để trên chiếc tàu cũng sẽ nổi trên mặt nước.  Ngài Long Thọ (Nagarjuna 100-200) nói có hai phương tiện đưa đến Phật quả, một khó như đi bộ, một dễ như đi thuyền. Tín ngưỡng Di Đà là con thuyền chở người đến cơi Tịnh Độ.”

 

Đời là một cuộc hành tŕnh. Trong ḍng sinh tử Ta Bà, chúng ta đă trải qua bao nhiêu số kiếp, bao nhiêu cuộc hành tŕnh, bập bềnh trên sóng vô minh, tật đố, thị phi, đầy khổ năo. Nhưng cuộc đời thật sự đáng chán như vậy sao? Người tu Tịnh Độ nh́n đời không những là cuộc hành tŕnh mà c̣n là chuyến hành hương.  Bà Vi Đề Hy được Phật khai thị đă đi hành hương từ Phật độ này đến Phật độ khác, cuối cùng bà chọn cảnh Tịnh Độ làm nơi an dưỡng, tiến tu. Nhờ kinh nghiệm khổ đau mà bà Vi Đề Hy được thấy cảnh Tây Phương Cực Lạc. Ta Bà là chuyến hành hương.  Thế giới khổ đau là hy vọng chứ không phải tuyệt vọng. Đạo lư Tịnh Độ không bi quan yếm thế mà là đạo lư Bạt Khổ Dữ Lạc, đạo lư dứt khổ cho vui.

Phương pháp diệt khổ dữ lạc của đạo Bồ Tát như thế nào?  Ngay trong khổ đau mà t́m ra giá trị tôn giáo và đạo đức. Không xa lánh, không trốn tránh, không loại bỏ mà cưu mang tất cả.  Cảnh giới Cực Lạc có chin phẩm, dung chứa chín tŕnh độ tu chứng, dung chứa 4 chúng đệ tử, dung chứa thánh, phàm. Tuy có trật tự 9 phẩm, tuy có thấp cao giữa Hạ Phẩm Hạ Sinh đến Thượng Phẩm Thượng Sinh, nhưng không v́ phẩm trật mà loại bỏ, mà bớt cưu mang, Thánh Phàm không v́ vậy mà phải phân biệt chống đối lẫn nhau, Thánh Phàm cùng nhau tu tập, thẳng tiến trên hành tŕnh giải thoát, giác ngộ.

 

Cảnh giới Cực Lạc huy hoàng rực rỡ mà hài ḥa dung dị.  Những người tu Tịnh Độ không thể không đem biểu tượng này áp dụng vào đời sống hằng ngày, vào mọi hành hoạt của ḿnh, đối với bản thân, với người đồng đạo, với cộng đồng nhân loại. Ta không thể xây dựng Tịnh Độ trong hư không mà xây dựng nó trên nền tảng vững chắc, trên những yếu tố nhân duyên phù hợp với thế giới Tịnh Độ, được khai triển từ trong Tứ Nhiếp Pháp:  Bố Thí, Ái Ngữ, Lợi Hành, Đồng Sự.

Bố Thí ở đây là san sẻ. San sẻ tài vật, san sẻ đạo pháp, san sẻ cái vui, cái buồn, cái vinh, cái nhục của nhau, cho nhau, để làm tăng trưởng Phật tính duy nhất của toàn thể chúng sinh, để cùng giúp nhau tiến tu trên đường giải thoát, để cùng nhau hướng về cảnh Tây Phương Cực Lạc.

Ái Ngữ ở đây là những lời nói nhu ḿ, thương yêu, thông cảm, công bằng, hợp lư.  Không che dấu tội phạm nhưng không làm bức xúc những người phạm lỗi, cổ vũ ưu điểm hơn là khuyết trương nhược điểm, mục đích giúp nhau trên hành tŕnh giác ngộ, giải thoát, giúp nhau trong nhiệm vụ cứu ḿnh, cứu người, là nền tảng âm nhạc trong cảnh Tây Phương Tịnh Độ.

Lợi Hành ở đây là mọi ư nghĩ, lời nói, hành động đều hướng đến phúc lợi cho ḿnh, cho người, làm nền tảng cho Tứ Chúng Đồng Tu, Thánh Phàm Đồng Cự Độ.

Đồng Sự ở đây là không phân biệt ngă nhân. Nặng nhọc không từ, hành hoạt trong mọi h́nh hài, “tố phú quí hành hồ phú quí, tố bần tiện hành hồ bần tiện, tố di địch hành hồ di địch.” “Một là tất cả, tất cả là một” thiên h́nh vạn trạng, “tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên.”

 

Xuất phát từ tâm từ bi, đạo Bồ Tát kiến thiết Tịnh Độ để nâng cao lư tưởng Bồ Tát, để h́nh thành lư tưởng độ sinh. Tịnh Độ là công năng xă hội hóa lư tưởng tự độ, độ tha.  Không có Tịnh Độ th́ lư tưởng Bồ Tát không thể thành tựu. Không có Ta Bà th́ lư tưởng Bồ Tát không có cơ sở và cơ hội thực hiện.

Sau khi Phật thành đạo, bài thuyết pháp đầu tiên Dhammacakka Pavattana, thường dịch là Kinh Chuyển Pháp Luân, được dịch ra tiếng Anh là Kiến Thiết Vương Quốc Chánh Pháp (The Establishment of the Kingdom od Truth). Cách dịch này khá ư vị. Đức Phật là vị Pháp Vương, muốn xây dựng một Vương Quốc Chánh Pháp. Đưa cái Vương Quốc Chánh Pháp ấy đến cực độ mà phác họa nó thành cụ thể, đó là thuyết Tịnh Độ.  Tịnh Độ có nhiều đặc tướng, nhưng đặc tướng quan trọng nhất là sự hoàn bị trật tự đạo đức. Nh́n vào nội dung Bản Nguyện, về phương diện tiêu cực là ngăn ngừa mọi tội lỗi, về phương diện tích cực là khuyến khích mọi người cùng tiến đến đạo đức và nền tảng của đạo đức là Tứ Nhiếp Pháp.

Tịnh Độ ở phương tây có Thế Giới Cực Lạc, ở phương đông có A Sơ Phật Quốc. Giữa hai cảnh Tịnh Độ này có một quan hệ mật thiết:  Nếu ở cơi Phật này xảy ra đại sự (đại thuyết pháp chẳng hạn) th́ cơi Phật khác gửi sứ giả đến tùy hỷ, tán thán, nói lên tinh thần Tịnh Độ liên kết mười phương. Hành giả Tịnh Độ, người tu Phật không thể bỏ qua yếu tố này, yếu tố yểm trợ lẫn nhau, cùng nhau sách tấn trên đường giải thoát, giác ngộ.

Người tu Tịnh Độ hay người nỗ lực trên hành tŕnh giác ngộ phải đầy đủ 4 tư lương cần thiết đó là Tín Tâm, Chí Thành Tâm, Thâm Tâm, Hồi Hướng Phát Nguyện Tâm. Không những người tu Tịnh Độ mà bất kỳ người muốn hành hoạt Phật sự nào cũng phải đầy đủ 4 tư lương ấy.

Trước khi dùng 4 tư lương cho cuộc hành tŕnh, cần phải hành tŕ Sám Hối. Tác dụng của Sám Hối cũng như người ta mỗi buổi sáng thức dậy đánh răng, súc miệng, rửa mặt, tắm gội cho thân thanh tịnh, th́ Sám Hối là phương thức làm cho tâm thanh tịnh. Kinh Đại Thừa Bổn Sinh Tâm Địa Quán nói: “Sám hối có thể thiêu đốt củi phiền năo, sám hối có thể văng sanh cơi trời, sám hối có thể được cái vui tứ thiền, sám hối như mưa báu Ma Ni Châu, sám hối có thể ra ngục tam giới, sám hối có thể khai hoa bồ đề, sám hối thấy được Đại Viên Kính của Phật, sám hối có thể đến nơi Bảo Sở.”

Mọi hành hoạt của người con Phật, của Phật Giáo, phải bắt đầu bằng Sám Hối, cho bao nhiêu ân oán thị phi, thương buồn, ghét giận đều rửa sạch, cho ḷng thanh thỏa, “hội họp trong ḥa thuận, thảo luận trong ḥa thuận, chia tay trong ḥa thuận,”, thực hiện một cơ cấu, một tổ chức trong đó Tứ Chúng Đồng Tu, Thánh Phàm Đồng Cư Độ.

 

Ở trên tôi có nói đời là cuộc hành tŕnh, đời là chuyến hành hương. Nói đến hành tŕnh, hành hương là nói đến người tham gia, nói đến những đoạn đường đi qua. Người tham gia có kẻ đến trước, có kẻ đến sau, có hàng thanh niên sức khoẻ dồi dào, có bậc phụ lăo gần đất xa trời; những đoạn đường đi qua có nơi bằng phẳng, có chỗ gập ghềnh. Không v́ thành phần tham gia khác nhau, không v́ những đoạn đường khác nhau mà ta thối chuyển, mà không cố gắng vượt qua.

Cuộc sống, Duy Thức gọi là Hằng Chuyển Như Bộc Lưu, như gịng nước chảy, biến chuyển không ngừng. Chuyển biến nên không có tự ngă, không có ǵ để bám chặt vào. Đợt nước này qua đợt nước khác nối nhau chảy, biến thành gịng nước, nói lên sự liên tục và tương liên của nó. Hiện hữu nhưng không có tự ngă.  Trong cái hiện hữu ấy, chúng ta khổ, chúng ta bức xúc, nhưng cũng trong cái hiện hữu ấy chúng ta có dịp hoàn thành tâm nguyện, có dịp tiến tu. Trong cái thế giới cạnh tranh có những hùng tâm muốn kiến tạo một xă hội lư tưởng trên lập trường Lân Mẫn Hữu T́nh. Phật Giáo có giúp cho họ nơi nương tựa ấy? Có giúp họ triển khai tinh thần đại từ bi, tinh thần “Ngũ Trược Ác Thế Thệ Tiên Nhập, Như Nhất Chúng Sinh Vị Thành Phật, Chung Bất Ư Thử Thủ Nê Hoàn?”

 

Trí Không - Trần Quang Thuận