NGƠ THOÁT
tức Phương Trời Cao Rộng 3
truyện dài của Vĩnh Hảo
Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1996
oOo
CHƯƠNG BA
Khi ta chào đời, có những thứ không cùng có mặt với tiếng khóc, với cảm giác đói no, nóng lạnh của ta. Một trong số đó là sự hổ thẹn. Năm xưa, có lần vào một đêm mưa nhẹ ở Nha Trang, tự dưng tôi muốn đi một cách thong thả xuống phố và tôi đă đánh một ṿng tản bộ dưới cơn mưa đó. Thỉnh thoảng ở Nha Trang mới có một cơn mưa phùn lất phất. Thường thường là mưa lớn. Cơn mưa nhỏ hạt nhất th́ trong vài phút cũng đủ thấm ướt cả áo quần. Tôi đi như thế, băng qua con đường đất trên lưng đồi Trại Thủy, xuống phố, cố ư không mang theo áo mưa. Lầm lũi và thật chậm răi, tôi đi xuống trung tâm thành phố Nha Trang, ṿng qua đường Duy Tân chạy dọc theo băi biển rồi quay lui, băng đồi Trại Thủy, về pḥng riêng. Trên đường đi, hầu như tôi không lưu ư ǵ chung quanh. Tôi cũng chẳng suy tư về bất cứ vấn đề ǵ. Trong tôi chỉ có cảm giác mát lạnh, vui vui. Những giọt nước mưa thi nhau vỡ trên cái đầu ít tóc của tôi, chảy từng ḍng trên má, ḷn xuống cổ, lăn vào áo trong và thấm vào da thịt. Chiếc áo nhật b́nh để đi đường của tôi nặng trĩu cả nước. Đôi chỗ trên đường phố, nước mưa chảy thành ḍng, như con suối nhỏ. Chân tôi vui thích lội b́ bơm trong ḍng nước chảy xiết đó như thuở c̣n bé. Sau khi ghé pḥng tắm để rửa chân, tôi về pḥng riêng, cởi hết áo ngoài, áo trong, cởi tất cả và lấy khăn lau toàn thân. Sau đó tôi lên đi-văng, tắt đèn, nằm duỗi thẳng hai tay hai chân, trần truồng mỉm cươi mà ngủ. Luật chùa ngăn cấm tăng sĩ làm điều đó, cho là mất tư cách, mất oai nghi. Nhưng tôi đă tự cho phép ḿnh một lần. Tôi nghĩ những điều răn cấm tương tợ như vậy đều đựoc chế ra để áp dụng trong đời sống tập thể ở các đại tùng lâm, các tu viện lớn có đông đảo tăng sĩ; c̣n đối với người ẩn cư trên núi thẳm rừng sâu, điều răn cấm như thế trở nên vô nghĩa. Tôi có pḥng riêng, biệt lập với mọi người trong chùa th́ có khác ǵ tôi đang ở một ḿnh trên núi cao? Đêm đó, tôi ngủ rất ngon. Nhưng khi tiếng chuông khuya lọt vào khung cửa sổ rộng, tôi giật ḿnh thức dậy và sực thấy ḿnh trần truồng, lập tức tự xấu hổ. Ôi niềm xấu hổ đă trở thành thói quen đến nỗi người ta không sao tẩy xóa được dù ở riêng một nơi hoang vu, tịch mịch không có bóng dáng người thứ hai. Rơ ràng là một câu nói trong Luận ngữ hay kinh luật của Phật, đă uốn nắn cho tôi cái thói quen tự chế đó. Tọa mật thất như xử thông cù, tức là ngồi trong pḥng kín cũng phải giữ cái lễ như đứng trước ngă tư đường. Phải thấy như ḿnh đang ở trước một đám đông, phải giữ tư cách, phải biết hổ thẹn. Không thể hồn nhiên măi như những đứa con nít. Phải trưởng thành và phải học mọi thứ từ nề nếp và qui ước của xă hội, của đoàn thể, của tôn giáo, vân vân. Bây giờ đứng đây, trong cửa sắt ngăn cách với xă hội, bên cạnh người bạn tù đang cởi trần mặc quần cụt, tôi biết tôi có thể thực tập trở lại những động tác hồn nhiên của trẻ nít khi cởi bỏ áo quần. Và đồng lúc, tôi lột bớt sự hổ thẹn của ḿnh để bắt đầu cuộc sống của một tù nhân. Trong pḥng không có chỗ nào để treo áo quần. Người ta không cho phép tù nhân có bất cứ một vật cứng nhọn ǵ trong pḥng giam. Tôi phải xếp gọn áo quần của ḿnh, đặt dưới đất, nơi đầu nằm. Người bạn tù của tôi ngoài năm mươi tuổi. Khi ông đứng dậy bước đến bên cửa thông gió, đưa mũi ra ngoài để thở, tôi thấy tướng ông hiên ngang như một con gấu ngựa. Ông ta cao đến gần một thước chín, vạm vỡ, to lớn lạ thường. Cái bụng phệ đưa ra trước như một cái trống vẫn không làm giảm đi vẻ mạnh mẽ, rắn chắc của một gă đàn ông có thể lực tốt. Râu tóc ông đă điểm bạc. Hàm râu rậm với những sợi cứng, tua tủa chĩa ra và quắp lên phía trên như những cái móc câu. Ngó ông, tôi bỗng liên tưởng đến h́nh ảnh của Từ Hải trong truyện Kiều. Có lẽ ông có cái bụng không được cân xứng với thân thể như cái bụng của Từ Hải, nhưng “râu hùm hàm én mày ngài, vai năm tấc rộng lưng mười thước cao” th́ hẳn là chẳng chịu thua kém. “Ăn ǵ chưa?” ông ấy hỏi tôi. “Dạ chưa,” tôi đáp. “Vậy để tôi báo cho mấy anh trực sinh biết để họ đưa cơm vào.” Dứt lời, ông gọi một anh tù đang quét dọn ngoài hành lang. Những người tù có tội nhẹ và án nhẹ, hoặc ở lâu gần măn án, được cán bộ chọn ra để lo việc vệ sinh, chia cơm nước cho các tù nhân khác trong trại, được gọi chung là trực sinh. Từ nôm na hơn, thông dụng hơn, là “anh nuôi”. Tôi thích cái từ nôm na ấy hơn là cái từ trực sinh, một từ hán-việt nặn ra từ khuynh hướng đua đ̣i sáng tạo và tâm lư thích khoe chữ. Buổi chiều sau giờ ăn, các anh nuôi cũng bị tống vào giam trở lại cho đến sáng hôm sau. Một anh nuôi tiến đến gần cửa thông gió, hỏi: “Ǵ vậy?” “Thông báo cho anh biết có tù mới vào pḥng này, chưa có cơm nước ǵ cả.” “Đưa ca ra đây,” anh nuôi nói. “Anh ta mới vào, đi tay không, có ca đâu mà đưa.” “Có đồ đạc ǵ không?” “Đă nói rồi anh ta đi tay trơn à.” “Tội ǵ?” “Chính trị.” Anh nuôi bước qua pḥng giam tập thể đối diện pḥng biệt giam chúng tôi. Nơi đó, có người bạn tù không quen biết nào đó đă biếu tặng tôi một ca cơm và cái muỗng nhựa cắm sâu vào đó. Anh nuôi quay lại đưa cho tôi ca cơm ấy. Vừa nhận xong các thứ linh tinh đó từ tay ông bạn tù chuyền vào, đă nghe cửa gió đóng sập một tiếng mạnh: đến giờ nghỉ trưa. Tôi ngồi xuống nền xi-măng. Trong pḥng đă nóng, bây giờ càng nóng hơn. Đă vậy, không khí có vẻ bị thiếu đi trong không gian chật hẹp. Chỉ một chốc, mồ hôi đă tắm ướt thân tôi, chẳng có ǵ có thể dùng thay quạt. Người bạn tù của tôi có một tấm cạc-tông nhỏ, hai bên được dán đắp lên cho dầy bằng những bao thuốc lá Hoa Mai và Đà Lạt. Ông ta thảy cái quạt tự chế đến tôi: “Quạt đỡ đi. Thay nhau mà quạt. Rán chịu rồi sẽ quen thôi. Cậu tên ǵ?” “Thưa, tên Khang.” “Tôi là Trọng. Cũng tội chính trị như cậu, nhưng tôi chỉ bị t́nh nghi thôi. Cậu mới bị bắt hay ở trại nào chuyển qua?” “Dạ mới bị bắt sáng nay.” “Bắt ở nhà hả?” “Thưa không, bị bắt ngoài đường.” “Khổ thân! Như thế ở nhà chắc chẳng ai hay biết ǵ hết.” “Phải. Nhưng không sao, nhà không biết càng tốt chứ. Biết th́ mất công lo lắng thôi, đâu ích ǵ.” “Nói như cậu là biết chẳng có kinh nghiệm ǵ ở tù cả. Thực ra bị tù cộng sản mà có gia đ́nh biết, thăm nuôi mỗi tháng, th́ c̣n có cơ may sống đựoc đến ngày tự do. Vả lại, gia đ́nh biết cậu ở tù sẽ ít lo hơn là chẳng biết cậu trôi dạt nơi đâu. Chẳng phải vậy sao? Cậu có vợ con ǵ chưa?” “Thưa chưa.” “Bao nhiêu rồi mà chưa vợ?” “Dạ hai mươi sáu.” “Hăm sáu mà chưa có vợ con! Trễ vậy! Vào tuổi đó tôi đă có hai ba đứa con rồi. Hề hề. Ở ngoài cậu làm nghề ǵ?” “Ơ… chẳng làm ǵ. Giống như kẻ thất nghiệp vậy thôi.” “Thất nghiệp là phải! Cái mă của cậu chỉ ngồi văn pḥng là thích hợp thôi chứ đâu có lao động nặng nhọc đua theo người ta đươc. Mà cái nghề ngồi pḥng giấy ngày nay th́ chỉ có con cháu gia truyền của tụi quỷ đó mới được ưu tiên thôi. Cậu làm sao chen vào nổi.” “Trước đây cháu cũng có làm ruộng, làm rẫy đó chứ.” “Cậu mà làm ruộng à? Nói thiệt hay giỡn chơi vậy! Cỡ như tôi đây, sức gấp ba người thường mà nghe tới ruộng, rẫy cũng thấy ngán nữa là… Thôi, ḿnh ăn cơm trưa chứ.” Bữa cơm đựơc bày ra. Mỗi người một ca cơm loại có dung tích một lít nhưng cơm chỉ được chừng nửa ca. Giữa chúng tôi là một chén chao nhỏ, chỉ có mấy miếng chao bị vữa nát nổi lềnh bềnh trong chút nước tương sền sệt. Ông Trọng múc chao bỏ vào ca cơm của tôi, nói: “Rán ăn nghe. Chắc ăn kiểu này cậu không nuốt nổi đâu hả? Thôi, đàng nào ḿnh cũng phải ở tù lâu rồi. Đừng lo nghĩ chi cho mệt. Ăn khỏe, ngủ ngon để có sức chịu đựng lâu dài.” “Không sao đâu chú. Cháu ăn uống kham khổ cũng quen rồi. Mà ăn chay kiểu này càng thích chứ sao. Chú cũng ăn chay à?” “Đâu có, ở đây anh em cho ǵ ḿnh ăn nấy. Chao của mấy người có thăm nuôi bên pḥng giam tập thể họ biếu ḿnh đó. Ở đây, hễ ḿnh mới vào th́ người ta hỏi ngay ḿnh tội ǵ, nếu nói là tù chính trị th́ họ gởi đồ biếu xén cho đến ngày ḿnh có thăm nuôi mới thôi. C̣n những tù h́nh sự như buôn đô la, tổ chức vượt biên… họ đâu thèm đếm xỉa, hoặc có giúp đỡ chăng th́ cũng chỉ lấy lệ chứ không tận t́nh như đối với tù chính trị đâu. Thực ra tôi bị bắt ở nhà, gia đ́nh đều biết cả, nhưng cán bộ trại chưa cho phép th́ cũng đâu có thăm nuôi hay gởi gắm ǵ được. May mà lúc bị bắt đi có mang theo được áo quần, thuốc hút…” Bữa cơm đạm bạc trôi qua thật nhanh. Ăn xong, ông Trọng bảo: “Để ca ở đó đi. Chốc nữa có nước ḿnh tắm rồi rửa luôn thể.” “Bao giờ th́ có nước, thưa chú?” “Giấc trưa này th́ thường có. A, có rồi ḱa.” Tôi nh́n sang cái ṿi nước cạnh nhà cầu, thấy nước chảy lơm tơm từng giọt. Có một b́nh nhựa dung tích khoảng một lít rưỡi đặt sẵn ở đó để hứng nước. Ṿi nước được ông Trọng mở sẵn, không bao giờ đóng. Tôi nói: “Đâu có, nước đâu đă chảy!” “Đó, chảy đó. Chảy như vậy chứ muốn chảy sao nữa! Hề hề. Nó chảy như thằn lằn đái á. Như vậy là tốt rồi. Ḿnh hứng đầy mấy cái ca với b́nh nhựa là đủ tắm thôi.” Nói rồi ông ấy bước đến ṿi nước, rửa cái ca nhựa của ông và luôn tiện rửa luôn cái ca của tôi nữa. Tôi giành làm việc đó nhưng ông xua tay bảo tôi cứ nghỉ cho khỏe, khi nào có nước đủ tắm ông sẽ gọi. Tôi ngồi bó gối quan sát kỹ pḥng giam. V́ là pḥng đôi nên chúng tôi có được hai cầu tiêu và hai ṿi nước. Nhưng cầu tiêu và ṿi nước phía pḥng 8 đă bị hư. Sửa cầu tiêu có lẽ là công việc khó khăn, trở ngại, tốn nhiều thời gian và công sức. Có lẽ đó là lư do người ta đập cái vách ngăn đôi hai pḥng. Vách đúc bề dày hai tấc. Không có chỗ nào để bám tựa vào mà leo lên trần nhà. Trần nhà khá cao, cũng đúc bằng bê-tông có một lỗ vuông trống với diện tích ngang bằng với cửa thông gió dưới này. Công dụng của lỗ trống này không phải để thông gió, mà để mấy anh lính gác ở tầng trên có thể nh́n xuống quan sát người tù trong pḥng. Lỗ vuông trên trần nhà đựơc ngăn lại bởi một tấm lưới sắt. Qua tấm lưới sắt, tôi thấy một cái bóng đèn tṛn cỡ 100 watt. Có lẽ tấm lưới sắt được gắn vào để bảo vệ cái bóng đèn nhằm tránh sự phá hỏng của tù nhân bên dưới. Mỗi pḥng có mỗi bóng đèn. Như vậy, cái pḥng ăn thông giữa tôi và ông Trọng có được hai bóng. Có điều, theo ông Trọng nói, điện chỉ được thắp lên từ sáu giờ chiều cho đến sáu giờ sáng hôm sau. Trên vách, phía đầu nằm của pḥng 9, tức là phía của tôi, có một ảnh đức Phật Thích Ca, có lẽ được vẽ bằng đầu cây diêm quẹt, đường nét khoét sâu vào lớp vôi dày, không màu sắc, ở trong bóng tối phải nh́n kỹ mới thấy. Vách phía phải bên pḥng 8 của ông Trọng là ảnh đức Chúa Giê-su trên thập tự giá. Cả hai bức ảnh đều do bàn tay của một họa sĩ kỳ tài vẽ nên. Nét vẽ rất điêu luyện, sống động, làm nổi bật phong thái riêng của hai vĩ nhân siêu việt của nhân loại. Đức Giê-su với khuôn mặt an nhẫn, tha thứ và chịu đựng; đức Thích Ca với vẻ an nhiên, tự tại và nụ cười từ bi, giải thoát.
Đ
Tôi được hơn ba lít nước để tắm. Phải xối nước thật tằn tiện mới đủ. Nhưng cũng thật là thú vị để được tắm một cách trang nghiêm và đầy sự chú tâm như thế. Tôi cũng lắng nghe những giọt nước trong mát chảy trên cơ thể y như lúc nào đi trong mưa vậy. Ông Trọng tắm trước rồi, bây giờ ngồi nh́n tôi, ông bật cười v́ tôi vẫn c̣n mang cái e thẹn xấu hổ từ thế giới bên ngoài vào. Khi tôi thay đồ, ông nói: “Lần sau có tắm cậu đừng bận quần nữa. Thiệt đúng là cậu chưa từng ở tù. Đấy, cậu coi, có một một cái quần cụt mà làm cho nó ướt đi th́ có phải là cậu phải mặc quần dài suốt ngày trong cái pḥng nóng như thiêu này không! C̣n thay đồ cứ thay tự nhiên, làm ǵ mà trốn nấp vậy! Làm như con gái không bằng! Ở tù phải dẹp ba cái chuyện mắc cỡ, rụt rè. À này, chắc hồi trước đến giờ cậu chưa hề đi lính phải không? “Không hề,”tôi đáp. “Thảo nào. Nếu cậu có ở trong quân đội rồi th́ chuyện ở tù cũng không khó lắm đâu. Nói tóm là phải có sống một đời sống tập thể th́ mới sớm quen thuộc được với cảnh tù.” Ông Trọng nói vậy mà không biết rằng tôi cũng đă từng sống tập thể. Nhưng cái tập thể của tôi không phải là tập thể quân đội. Cái tập thể đó không những đă dạy tôi nếp sinh hoạt đồng đội và sự phân công phân nhiệm hợp lư trong nếp sống chung, mà c̣n dạy tôi kiểm soát thân và tâm, đưa tất cả mọi ư nghĩ, lời nói, động tác vào khuôn khổ nề nếp của một con người trang nghiêm, có đạo đức. Con người ấy đâu cần thiết phải biết đứng tồng ngồng trơ trẽn trước đám đông mà không hổ thẹn. Con người ấy không cần thiết phải biết thay áo quần thật nhanh, chạy thật lẹ, ăn thật mau, nói thật lớn tiếng… mà tất cả đều phải ngược lại: chầm chậm, trang nghiêm, cẩn trọng, đầy chánh niệm. Dù sao, tôi cũng phải cố gắng và tin là vài lần sau đó, tôi sẽ quen được việc khỏa thân trước mặt kẻ khác, dù kẻ ấy là một gă cai tù, một tù nhân đứng tuổi; hoặc thậm chí, kẻ ấy là một đức Phật, một tượng vẽ trên vách tường… Tôi ngả lưng một giấc ngắn th́ nghe tiếng khóa mở lách cách. Ông Trọng nói: “Mặc áo vào đi. Nó kêu cậu lên hỏi cung tiếp đó.” Cửa sắt mở toang ra với tiếng khô khốc của cặp bản lề rỉ sét. Đúng như ông ấy đoán, một viên cán bộ tḥ đầu vào, gọi tên tôi và hối thúc, làm tôi chưa kịp cài nút áo. “Ra ngoài rồi cài nút,” ông Trọng nhắc và cầm đôi giép da đưa tôi, ra dấu tôi bước ra ngoài gấp. Tôi ra ngoài, đứng cài nút áo và mang giép. Viên cán bộ lườm hỏi tôi: “Mới nhập trại hả?” “Vâng.” “Lần sau nghe gọi là ra liền nhé, chậm là tôi đạp cho một cái à!” Tôi được đưa đến bàn trực ở đầu dăy. Long và Hùng đang chờ tôi ở đó. Long ra hiệu tôi đi theo anh về phía pḥng vấn cung. Lúc ấy các pḥng vấn cung đề trống v́ hăy c̣n trong ngày Chủ nhật. Tôi chẳng hiểu sao khi sáng Long nói ngày mai mới làm việc tiếp, vậy mà chiều nay anh đă trở lại. Long kéo ghế ngồi trước, soạn hồ sơ ra. Tôi ngồi vào ghế c̣n lại. Hùng vẫn đứng ở mép cửa. “Sao, ở dưới đó thoải mái không?” Long hỏi. “Cũng thường,” tôi đáp. Im lặng một lúc như để lựa lời, Long nói: “Đáng lẽ ngày mai chúng ta mới làm việc, nhưng tôi muốn tranh thủ làm sớm cho xong. Chắc anh Khang cũng muốn vậy, phải không?” Long tằng hắng một tiếng, tiếp tục. “Tôi vẫn c̣n thắc mắc một điểm là ai đă soạn viết các tài liệu cho Lực Lượng Việt Nam Phục Quốc Nội Biên. Cuối các bài viết đều có đóng dấu và cả chữ kư của ông Trần Văn Lương hoặc Chủ tịch Nguyễn Hữu Thiện, nhưng trên thực tế, chúng tôi biết ông Lương và ông Thiện không tự viết các bản văn ấy. Họ chỉ đọc và kư thôi. Người khác viết. Mà có người khai là chính anh viết.” “Vâng, tôi viết.” Tôi chấp nhận sự kết tôi đó dễ dàng quá khiến Long hơi lúng túng. H́nh như anh mong đợi là tôi khăng khăng chối căi để rồi buộc tội phải khai một người nào khác đă làm công việc ấy. Long ngập ngừng, rồi nói: “Tôi không nghĩ vậy. Phải có một người khác. Có thể là người kia soạn viết và anh chỉ góp ư hay hiệu đính các tài liệu đó thôi.’ “Tất cả đều do tôi..” “Thế bây giờ anh có thể viết lại y hệt những tài liệu đó không?” “Y hệt th́ dĩ nhiên là không. Nhưng viết lại các văn bản ấy bằng một bố cục và lời lẽ khác th́ đựơc.” “Thế anh có thể nói lại đại ư các văn bản mà anh đă soạn viết không?” “Anh nói văn bản nào?” “Anh viết mấy bản?” Long khôn khéo hỏi lại. “Thế anh tịch thu được mấy bản?” tôi cũng hỏi ngược lại Long. “Anh không có quyền hỏi tôi đâu. Anh chỉ có bổn phận khai cung là anh đă viết bao nhiêu bản văn cho tài liệu truyền đơn của lực lượng Phục quốc mà thôi!” “Tôi không chối chạy đâu. Tôi chỉ yêu cầu anh nói rơ là anh muốn tôi nói đại ư của bản văn nào mà thôi.” Long ngập ngừng một lúc rồi nói: “Lời hiệu triệu quốc dân.” “Ừ th́ bài đó là lời hiệu triệu của lực lượng Phục quốc, kêu gọi toàn dân đứng dậy lật đổ chế độ cộng sản, kêu gọi cả những người đă lầm lỡ đi theo con đường cộng sản sớm quay trở về với dân tộc để cùng nhân dân xây dựng một xă hội dân chủ, b́nh đẳng, thịnh trị, thái b́nh. Đại ư lời hiệu triệu chỉ có vậy thôi. Cùng một ư đó, anh muốn tôi viết lại bao nhiêu bản hiệu triệu có bố cục và lời lẽ khác nhau, tôi đều viết được cả.” Hai má Long giật giật lên mấy cái. Y lườm tôi một lúc rồi cười khinh khỉnh, nói: “Bẻ nạng chống trời. Các anh chỉ biết điên cuồng làm công việc ấy. Thôi, không cần phải nói chuyện đó với anh. Rồi đây, ai là kẻ chấp bút, làm bí thư cho ông Lương cũng sẽ ḷi ra, không che giấu ǵ chúng tôi được đâu.” “Tôi có che giấu đâu. Tôi đă tự nhận tôi viết rồi mà.’ “Không phải anh. Có một người khác viết hết các văn kiện. C̣n anh th́ chỉ sữa chữa hay góp vào một vài quan điểm chính trị mà thôi.” “Thế à? Ừ th́ vậy cũng được đi. Tôi viết hay ai khác viết th́ cũng ư đó, quan điểm đó. Cũng là chống lại chế độ này cả. Có khác ǵ đâu chứ.” “Anh đồng ư là có một kẻ khác viết, phải không?” “Không. Tôi nói là tôi viết. C̣n chuyện tin hay không là quyền của các anh.” Long ghi vào sổ tay. Xong, y đốt thuốc, ngậm chắc điếu thuốc giữa hai môi, bặp mấy cái rồi nói: “Chuyện đó tạm gác lại, điều tra sau. Bây giờ tôi muốn anh kể lại nguyên do nào đưa dẫn anh đến chuyện rời bỏ chùa Già Lam, thành lập tổ chức từ thiện tên ǵ nhỉ, à, Đoàn Phật Tử Phụng Đạo, rồi lại đẻ ra cái gọi là Hội Lạc Long tại Long Thành, ngay chính ở cơ sở của anh? Không phải chỉ nguyên do không thôi, ư tôi c̣n muốn hỏi là những ai đă xúi giục anh, hoặc đă tham gia, cọng tác với anh trong các tổ chức nói trên.” Câu hỏi của Long đẩy ngược tôi về bao nhiêu chuyện dập dồn của năm năm trước. |
oOo