PHƯƠNG TRỜI CAO RỘNG

truyện dài của Vĩnh Hảo

Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1993, tái bản năm 1995

 

oOo

 

(Cảm ơn Thánh Quỳnh đă giúp đánh máy lại chương này) 

 

 

 

CHƯƠNG SÁU

 

 

Về nghi thức cúng kính mà trong chùa gọi là “ứng phó đạo tràng” hay gọi tắt là nghi lễ, thầy tôi am tường nghi thức của cả Thừa Thiên, B́nh Định, Khánh Ḥa, chưa kể nghi thức của miền Nam và miền Bắc. Và cũng v́ thầy là bậc đồng chơn xuất gia (xuất gia từ thuở bé) có uy tín đạo đức trong chốn thiền môn, nên hầu như các đại lễ có tổ chức trai đàn chuẩn tế (thí thực cô hồn), các chùa đều thỉnh thầy tôi đến làm chủ sám (giới kinh sư thường gọi nôm na vị chủ sám là thầy cả).

Là thị giả, tôi được được theo thầy trong khắp các lễ trai đàn chẩn tế đó. Mệt mỏi lắm, nhưng cũng vui. Có khi thầy về cúng tại các chùa miền quê, tôi theo hầu thầy và có dịp biết thêm về sinh hoạt của các chùa quê cũng như các thầy chuyên môn việc cúng kính mà người ta gọi nôm na (hay có khi có ư chế diễu) là thầy đám, thầy cúng – trong khi thuật ngữ Phật giáo gọi những vị tăng chuyên môn về ứng phó đạo tràng là “kinh sư.” Những thầy ấy có mặt trong đại lễ để phụ giúp thầy tôi trong khoa chẩn tế (nếu là toàn khoa th́ kéo dài từ sáu đến bảy giờ đồng hồ liên tục). Khoa chuẩn tế thường được cử hành sau các đại lễ, nhưng v́ là khoa khó nhất, đ̣i hỏi chuyên môn nhiều nhất, nên những vị kinh sư khác cần có thầy tôi làm chủ sám, mà thầy tôi cũng cần có họ phụ họa mới thành tựu được khoa nghi. Ở viện cũng có một ban kinh sư giỏi khoa chẩn tế với nghi thức B́nh Định, nhưng v́ các lễ đám như vậy thường kéo dài hai, ba ngày nên thầy tôi không thể mời ban kinh sư của viện theo được v́ ban kinh sư này gồm toàn học tăng, phải bận học ngày đêm, chỉ có thể tham dự được đàn tràng chẩn tế vào dịp rằm  tháng tư hay rằm tháng bảy mà thôi. Những đàn tràng không nhằm vào các dịp đó, thầy tôi phải đi một ḿnh và cùng hành lễ với ban kinh sư ở địa phương nào tổ chức đàn tràng.

Tôi vào chùa mới một, hai tháng, chưa biết ǵ về các nghi lễ phức tạp, rắc rối, đ̣i hỏi nhiều thời gian luyện tập như vậy, nhưng có lẽ thầy tôi muối tôi đi theo để mở rộng tầm mắt. Thầy nói, thầy lỡ biết nhiều về nghi thức ứng phó đạo tràng nên phải khổ nhọc, bận bịu với các đại lễ, không từ chối được. Thầy không nói rơ ra nhưng tôi cũng hiểu mang máng rằng giữa thầy và các  thầy đám kia khác nhau xa lắm. Những vị thầy đám tập trung cuộc sống họ vào việc cúng đám, lấy việc cúng kính làm nghề. Nhưng thầy tôi không bao giờ tỏ ư khinh miệt hay coi thường họ. Thầy tiếp xúc, tṛ chuyện, hỏi han đời sống, công việc của họ một cách vui vẻ, hài ḥa. Sau mỗi khóa tụng, thầy cùng họ ngồi bàn và chia cắt vai tṛ của mỗi người trong khóa lễ sắp tới. Mỗi bữa ăn, thầy và họ ngồi chung mâm, ḥa hợp, b́nh đẳng. Chỉ có buổi tối là thầy được thỉnh vào nghỉ riêng ở phương trượng (pḥng của vị trụ tŕ), c̣n họ cũng như vị trụ tŕ th́ ngủ chung trên một cái sạp lớn dựng tạm bên hông chùa. Tôi cũng leo lên sạp mà ngủ chung với họ trong một cái mùng lớn đủ cho  mười mấy người nằm. Tôi là con nít nên chỉ biết im lặng, nghe họ tṛ chuyện với nhau. Có nhiều câu chuyện họ dùng những tiếng lóng hay ẩn ngữ nên tôi chẳng hiểu họ nói ǵ. Có lúc tôi thoáng nghĩ, cuộc sống của họ vui vẻ hồn nhiên, dường như suốt đời chẳng có đại sự để theo đuổi. Công việc của họ hàng ngày là đi cúng. Thỉnh thoảng có đại lễ th́ tập trung lại để cùng phô diễn nghệ thuật cúng kính của ḿnh. Đàn tràng chẩn tế giống như một cái sân khấu. Họ là những người nghệ sĩ tŕnh diễn nghệ thuật. Sau khi tŕnh diễn, những nghệ sĩ này nằm lăn trên sạp gỗ mà ngủ qua đêm để ngày hôm sau tŕnh diễn tiếp. Nằm xuống nói chuyện bâng quơ một lúc là ngủ ngon, không có vấn đề ǵ để phải thao thức, bận tâm. Nhưng cung cách  tŕnh diễn nghệ thuật của họ (tức là việc phúng tụng kinh chú) không phải là điều đơn giản, tầm thường như người ta nghĩ.

Ngoài thế tục, không phải ai cũng có thể trở thành ca sĩ, nhạc sĩ được. Trước hết phải có năng khiếu, kế đó là phải có sự học hỏi nghiên cứu để phát triển năng khiếu ấy và sau cùng, quan trọng nhất là phải có thời gian luyện tập để thành tựu trọn vẹn được cái tài năng bẩm sinh của ḿnh. Trên sân khấu, người có giọng hay th́ hát giọng chính, người kém hay hơn th́ hát phụ, hát bè. Ở phía cải lương, hát bội thí có kép chính, kép phụ. Nhưng ở một đàn tràng nghi lễ Phật giáo th́ có hơi khác một chút. Dĩ nhiên trong ban kinh sư của một đại lễ, người ta cũng tuyển chọn, cung thỉnh những vị tăng có giọng hay nhất th́ làm kép chính. Kép chính là vị tăng có đức, được tất cả các kinh sư nể mặt và chịu nép ḿnh làm người phụ họa. Nhưng vị tăng có đức ấy cũng phải biết tất cả những lễ nghi, cũng như phải có giọng th́ mới thực sự thu phục được ban kinh sư. Thầy tôi đi đâu cũng đóng vai kép chính là do lẽ đó. Nhưng ở đây, tôi chỉ muốn nói về cung cách phúng tụng, hay tŕnh diễn nghệ thuật Phật giáo của các vị kinh sư  mà người ta gọi là thầy đám nói trên.

Âm nhạc Phật giáo Việt Nam quả là một công tŕnh sáng tác công phu được kết tinh từ nhiều thế hệ tăng sĩ tài ba có năng khiếu âm nhạc lẫn nội lực tu tập. Chỗ nổi bật của nền âm nhạc này là những nhạc công tăng sĩ chỉ cần sử dụng những nhạc khí đơn giản (mà bây giờ người ta thấy  có vẻ lạc hậu) nhưng trong sự phối hợp tinh luyện và ḥa hợp các âm thanh trầm bổng của thanh nhạc (giọng người) và khí nhạc (tiếng nhạc cụ) họ có thể tŕnh tấu những bản giao hưởng đặc dị, siêu thoát mà thế gian  không thể có được. Nghi thức trai đàn chẩn tế tập trung tất cả  các nhạc điệu của âm nhạc Phật giáo, trong đó có tụng, niệm, bạch, xướng, hô, thỉnh, đọctán. Trong điệu tán c̣n chia ra làm tán rơi, tán xắp, tán trạo, tán dẫn thỉnh, v.v… Rồi trong các điệu tán đó c̣n chia thành nhiều thể khác nhau tùy theo số chữ, số câu của mỗi bài tán. Rất là phức tạp. Lúc đó tôi chỉ mới biết tụngniệm, tức là tụng kinh theo tiếng mơ và đọc thầm hay đọc hơi nhỏ bài Niệm hương. Tuy nhiên, cũng nhờ vào đôi tai của một người chưa biết nhiều về âm  nhạc Phật giáo, tôi có thể quan sát và lắng nghe được một cách  khách quan những bản hợp tấu đa dạng mà các vị kinh sư đang tŕnh bày.

Thầy tôi ngồi chính giữa, mặt hướng ra đường; sáu vị kinh sư ngồi hai hàng dọc hai bên thầy, mỗi bên ba vị đối mặt nhau. Tôi đứng hầu một bên thầy nên nh́n rất rơ từng vị kinh sư tán tụng theo khoa nghi. Họ phối hợp nhịp nhàng, phân công chặt chẽ mỗi người một nhiệm vụ. Nào linh, nào khánh, nào mơ, nào chuông, nào tang (đẩu). Ngoài các nhạc khí trên, cón có trống, chập chơa, sanh, đàn nhị, đàn c̣ ở bên ngoài phụ họa thêm. Vậy mà sáu kinh sư đă cùng thầy tôi tán tụng suốt hơn sáu tiếng đồng hồ bằng hơi, bằng miệng, không có máy vi âm, đều giọng tạo nên một bản đại ḥa tấu lúc du dương, lúc hùng tráng, khiến tôi say mê lắng hồn vào đó với một cảm giác nhẹ nhàng, khinh khoái, bay bổng mà tâm trí vẫn trong sáng như kẻ vừa được tắm mát chứ không phải u mê quên bẵng thực tại. Thứ âm nhạc này không làm đắm ch́m người ta trong ảo giác mê muội; nó cũng không kích động người ta bạo hành, mà cũng không khơi dậy trong họ những ham mê dục lạc. Nó giống như một con thuyền: trôi trên nước mà không ngập nước; hay như một tảng mây: lướt trên trời mà không vướng trời. Người lắng nghe dễ dàng bắt nhịp theo thứ âm thanh vi diệu mà qua đó, ḷng họ bỗng dứt bặt mọi thôi thúc bon chen và nỗi háo hức phóng ḿnh theo tham muốn thế tục; ở đó, chỉ có nỗi vắng lặng, yên tĩnh và khinh an của tự tâm. Phật giáo là con đường giải thoát nên âm nhạc Phật giáo cũng là một phương tiện để giải thoát – nếu người ta hiểu giải thoát đúng như ư nghĩa của nó chứ không phải như là sự lẩn trốn, né tránh thực tại để t́m về một thế giới xa xôi nào trong  mộng tưởng, hay trong ảo giác. Rơ ràng không phải ư vị giải thoát đó chỉ được cảm nhận qua ư nghĩa của kinh điển mà các vị kinh sư tụng đọc, nhưng chính nhờ ở cách thế mà âm thanh và tiết điệu của bài kinh được diễn ra. Lúc đó tôi không hiểu ǵ về Phật giáo mà chỉ biết thưởng thức một cách hồn nhiên, như một đứa trẻ nghe tŕnh diễn một bản nhạc kỳ bí, huyền nhiệm với bao tiết tấu và nhịp điệu phức tạp th́ sửng sốt, kinh ngạc. Nhưng càng lớn lên, tôi càng nhận thức rằng chỉ có những nghệ sĩ tài ba thực ngộ, có một quá tŕnh tu tập dài trong cửa thiền mới có thể sáng tác được những bài lễ nhạc Phật giáo cao siêu thượng thừa như vậy. Bấy giờ, các vị kinh sư ở chùa quê mà người ta gọi là thầy đám đó đă diễn tấu những bài kinh với tất cả  tâm tư, kỹ thuật và tài năng của họ. Tôi thấy rơ các vị ấy lắng ḿnh trọn vẹn vào từng câu kinh, từ đầu khóa đến cuối khóa. Khi bước vào khóa lễ là họ không c̣n vướng bận ǵ khác ở bên ngoài. (Như vậy, làm sao có thể nói rằng những người chuyên môn về ứng phó đạo tràng th́ không thực hành thiền định? V́ thiền định là ǵ nếu không phải sự lắng tâm, gạn lọc tất cả những ô nhiễm của nội giới lẫn ngoại giới để nắm bắt được thực tại trọn vẹn ngay trong phút giây hiện tại này? Và làm sao có thể coi thường, khinh miệt những kẻ gọi là thầy đám kia?)

Theo thầy nhiều khoa trai đàn chẩn tế như vậy th́ dù chưa học ǵ về nghi thức tán tụng, tôi cũng nghe quen được hơi giọng lên xuống của người tụng cũng như các nhịp phách trường canh hay nhịp chơi của các nhạc khí. Nhờ đó mà sau này, khi có dịp học về nghi lễ, tôi học rất nhanh, chỉ nghe  qua là có thể lặp lại chính xác được. Nhưng mỗi người hiện diện trên đời h́nh như đều có một lối đi vạch sẵn cho ḿnh. Mà con đường của tôi lúc ở thế tục đă không theo chân vài anh chị để đi vào ngành ca hát văn nghệ th́ nay trong cửa thiền, bước chân của tôi cũng không ṃ mẫm theo con đường lễ nhạc ứng phó đạo tràng nói trên, dù rằng tôi có say mê và nhiều thầy cho rằng tôi có khiếu. Thầy tôi cũng không khuyến khích tôi học hay tập luyện về nghi lễ để rồi sau này sẽ bận bịu như thầy, không có th́ giờ nghiên cứu kinh điển và các môn học khác. Nhưng có một hôm, nhân lúc nói về nghi lễ, thầy dạy tôi rằng: “Trong đạo Phật, hay ở đời cũng vậy, cái ǵ cũng có nguyên lư và phép tắc riêng của nó. Nguyên lư phải học, phép tắc phải tập. Học tập cho thông th́ mới đạt đến chỗ tột cùng của nó; không thông được th́ vướng víu măi, không rời nó được. Giới luật  cũng vậy thôi, kẻ nào không giữ ǵn giới luật th́ không thể giải thoát; nhưng giữ măi không rời th́ cũng không giải thoát.” Nghe thầy dạy như vậy, tôi chỉ hiểu mập mờ. Dù ǵ th́ giữ giới cho tinh mật cũng là việc trước mắt, nên tôi không cần phải thắc mắc ǵ nhiều.

Ngày nọ, thầy giao ch́a khóa pḥng thầy cho tôi, nói rằng thầy cùng ban kinh sư của viện đi hành lễ ở Diên Khánh, hôm sau mới về. Nhiều ngày hầu hạ thầy không biết mệt mỏi mà tự dung đêm đó vắng thầy, tôi lại thấy trong ḷng thoải mái vô cùng. Tôi thấy tôi được tự do, không ai kềm kẹp, nhất là có pḥng riêng của thầy tạm thời làm pḥng của ḿnh một ngày một đêm. Buổi chiều, tôi ngồi trong pḥng thầy học kinh và đọc sách, thích thú có được những giờ phút riêng tư. Buổi tối tôi mới kêu Sáng vào v́ Sáng ngủ chung với tôi dưới nền đất pḥng thầy lâu nay. Bỗng dung lúc ấy với không khí tự do không bị ràng buộc g̣ bó bởi thầy, tôi nảy ư làm một điều ǵ đặc biệt, khác thường. Tôi lục trong tủ búp-phê của thầy, thấy có một thùng ḿ gói hiệu Lá Bồ Đề chưa kịp đem cho, bèn bảo Sáng xuống bếp lấy hai cái thau, hai đũa, hai muỗng và một ít rau để ăn ḿ. Nước sôi đă có sẵn trong b́nh thủy của thầy. Sáng hí hửng theo cửa sau của pḥng thầy, xuống bếp ngay. Pḥng thầy không có bàn ăn, chúng tôi đặt hai cái thau nhựa nhỏ dưới đất, lột bao ḿ bỏ vào một thau hai gói để ăn cho thỏa. Chế nước sôi vào thau ḿ xong, chúng tôi lấy dĩa đậy lại cho kín hơi, rồi ngồi chờ năm phút y như bên ngoài gói ḿ có chỉ dẫn. Đang ngồi sung sướng chờ đợi một bữa ḿ thịnh soạn, bỗng nghe có tiếng gơ cửa. Tôi và Sáng giật ḿnh, nghĩ chắc thầy quản chúng hay chú tiểu nào muốn t́m chúng tôi có việc ǵ. Tôi đáp lớn:

“Mô Phật, mở cửa ngay!”

Tôi bảo Sáng đem dẹp hai thau ḿ trong khi tôi ra mở cửa kẻo tiếng gơ nghe gấp lắm. Tội nghiệp chú Sáng (nhỏ mà bị tôi ăn hiếp) phải bưng hai cái thau đầy ḿ và nước sôi ra buồng sau. Chú cũng nghĩ như tôi rằng nếu ai đó chỉ gơ cửa để t́m thầy tôi th́ không cần phải bưng hai thau ḿ ra ngoài, mà chỉ cần giấu ở buồng sau là được rồi. Nhưng khi tôi mở cửa ra th́ thấy thầy tôi đứng sờ sờ trước mặt. Tôi tái mặt chắp tay bái thầy, mở cửa lưới nhường lối cho thầy bước vào mà trong bụng hoảng hốt, lo sợ chẳng biết chú Sáng nhỏ kia đă dẹp hai thau ḿ chưa và dẹp tới đâu? Nếu chỉ giấu ở buồng sau th́ thậm cấp chí nguy rồi, v́ đây là thầy chứ chẳng phải khách tăng nào xa lạ! Thầy bước vào pḥng, giao cái đăy y hậu và áo dài cho tôi đem cất ở buồng sau. Thầy nói:

“Tưởng đâu phải ở lại nhưng thấy c̣n sớm có thể về được, nên thầy về luôn. Mấy đứa con ngủ hay sao mà thầy gọi lâu mới mở cửa?”

“Dạ tụi con đọc sách, tưởng các chú kia chọc phá nên không ra mở.”

Tôi mang áo của thầy xuống buồng, thấy Sáng cũng vừa giấu thau ḿ thứ hai xuống dưới gầm giường (cùng một chỗ với cái mền xanh trước kia mà tôi giấu!). Sáng le lưỡi. Tôi nói nhỏ:

“T́m cách bưng ra ngoài luôn chứ để ở đây bay mùi quá, thầy biết đó!”

Nhưng Sáng chưa kịp hành động ǵ th́ thầy bước xuống hỏi:

“ Ǵ đó?”

Sáng bấy giờ mới chấp tay bái thầy rồi lanh miệng nói:

“Dạ, con định đi thay nước sôi cho thầy v́ nước trong b́nh thủy gần hết rồi.”

Thầy có vẻ nghi ngờ, nh́n quanh căn buồng một thoáng rồi quay trở lên. Tôi và Sáng thở phào. Tôi đi lấy b́nh thủy nước sôi ở buồng trước đem ra buồng sau, trong khi Sáng bưng lần lượt từng thau ḿ ra ngoài, bỏ đại trên bàn ăn của các chú tiểu. Khi chúng tôi trở lại, thầy đang ngồi nơi bàn, lại tính toán sổ sách chi thu của viện. Vậy là êm chuyện. Nhưng hai thau ḿ rất ngon, chưa kịp hưởng, không biết sẽ vào bụng ai, hay vẫn c̣n nắm đó mà nở toét loét ṭe loe ra rồi!

Tưởng vậy là xong, nào ngờ ngày mai, khi tôi đang quét dọn th́ thầy bước xuống buồng sau, lôi thùng ḿ gói trong tủ ra, đưa tôi, bảo đem chia cho các chú tiểu cùng ăn. Khi lấy thùng ḿ ra, hẳn nhiên là thầy phải biết rằng có đứa nào đó khui thùng ḿ rồi. Thầy không la rầy tôi chuyện đó, nhưng thầy đă ngầm tỏ cho tôi biết là thầy biết chứ chẳng phải không. Dù rằng trước sau ǵ thầy cũng đem cho thùng ḿ đó, nhưng khi thầy chưa mang nó ra khỏi tủ và bảo tôi đem ra ngoài th́ nó vẫn là sở hữu của thầy. Lấy lén, ăn lén (dù ăn chưa được), cũng là phạm tội cắp rồi. Giới luật chưa tinh nghiêm!

Vậy mà chúng tôi vẫn chưa chịu từ bỏ chuyện “ăn vụng.” Trong trí óc đơn sơ con nít của ḿnh, chúng tôi nghĩ có ăn một miếng nhỏ cũng đâu có sao! Huống chi, đó là những thức ăn mà thầy tôi chưa bao giờ nh́n tới. Chẳng hạn như trong tủ búp-phê ở buồng sau của thầy, có hai lon guigoz đựng đầy mứt rong. Mứt rong là món rong biển mà người ta đem phơi khô thành từng bánh mỏng như bánh tráng. Rong khô trở thành màu tím, đem nấu canh ăn rất ngon, mát. Ở viện, các d́ vải thường đem ram mứt rong với dầu, nêm nước tương, bột ngọt, ớt bột. Món ấy ăn với cơm rất tuyệt. Mà ăn không c̣n tuyệt hơn. Hai lon guigoz mứt rong trong tủ thầy không phải của d́ vải làm, mà của những Phật tử nào đó dưới phố đem lên cúng. Bụng dạ thầy tôi chắc chắn là không thích hợp với món ram, chiên, có dầu, bột ngọt, ớt như thế. V́ không dùng được, thầy cũng quên không để ư đến. Hai cái lon cứ nằm đó hoài. Một hôm đang dọn dẹp, tôi ṭ ṃ mở thử một lon, xem thứ ǵ mà cứ để hoài, choán hết chỗ trong tủ. Phát giác cả hai lon đều là mứt rong, món quí giá của người ăn chay, tôi sáng mắt, không kềm được thèm thuồng, bốc một miếng bỏ vào miệng. Ngậm. Phải, món này chỉ ngậm, nhấp nhẹ nhẹ trong lưỡi mới ngon. Mỏng le mỏng lét th́ nhai làm ǵ dính cả răng, vừa mất ngon vừa dễ bị phát hiện! Vừa quét pḥng, vừa ngậm một miếng, thú vị làm sao!  Nhưng mứt hết nhanh quá, chưa thỏa măn, lại đến bốc thêm miếng nữa. Sáng bước ngang hỏi ǵ vậy. Tôi đưa cái lon cho chú ấy, nói nhỏ mời mọc:

“Thử một miếng đi.”

“Cái này đó hả? Tôi biết rồi,” Sáng nói xong là tay bốc lủm, chẳng có vẻ ǵ là ngạc nhiên hay có ư muốn nh́n kỹ món hàng được mời cả.

Vậy có nghĩa là “ông Phật con” này đi trước tôi một bước rồi. Nhưng điều đó chẳng quan trọng ǵ, biết trước biết sau ǵ cũng thế thôi. Miễn biết điều tương nhượng và chia sẻ với nhau là được rồi. Vậy là sự chia sẻ diễn ra đều đặn hơn. Mỗi ngày hai đứa đều có ngậm mứt rong cho vui miệng. Món ấy thật là tiện, không cần vận dụng đến quai hàm hay răng để rồi gây tiếng động chóp chép, rào rạo. Mà càng ngậm càng ghiền. Mới ngậm đó lại muốn ngậm nữa, khó mà ngưng được. Nhưng cứ rút rỉa măi mà không chịu bồi thêm th́ núi cũng phải lở nói chi hai lon guigoz! Thấy mứt rong đă xọp xuống lưng lưng ở cả hai lon, tôi bắt đầu lo, nói với Sáng:

“Chắc ḿnh ngưng là vừa rồi, coi chừng thầy biết đó.”

Sáng gục gặc. Vậy là đ́nh chiến. Nhưng ông Phật con ấy v́ tên là Sáng nên có nhiều sáng kiến hay lắm. Ông cầm hai lon guigoz lên, xốc xốc mấy cái rồi đưa ngón tay vào xới xới cho mứt rong vun lên. Hai lon lưng trở thành hai lon đầy. Tài thật!

Buổi chiều cùng ngày, thầy gọi tôi vào pḥng, bảo đem hai lon mứt rong xuống nhà bếp, muốn cho ai th́ cho, thầy không dùng. Tôi nắm toàn quyền sinh sát trong tay cả hai lon mứt, vậy mà lúc ấy tự dưng tôi không c̣n muốn ăn nữa. Tôi đưa hết cho d́ vải.

H́nh như sự vụng trộm, mạo hiểm là kích thích tố cho mọi sinh hoạt của con người. Thiếu nó th́ sự hân thưởng không c̣n thú vị nữa.

 

a 

 

Một sáng nọ, tôi và Sung rủ nhau đi tắm giặt tại chùa Tỉnh hội. Tôi đă qua một lần bên ấy với thầy Châu nên biết tắm giặt ở bên ấy khỏe hơn, v́ có nước máy, chứ tắm ở chùa Phước Điền th́ phải xách nước giếng bằng cái thùng rất to, rất mệt, nước lại không được trong, buồng tắm th́ chật chội, xa giếng. Đoạn đường từ viện qua chùa Tỉnh hội xa gấp đôi đoạn đường đến chùa Phước Điền dưới chân núi, nhưng buổi sáng trời mát mẻ, đường đi lại ngoằn ngoèo đẹp mắt, nên chúng tôi không thấy mệt. Trước chúng tôi chừng chục bước, thầy quản chúng và một thầy khác cũng đang trên đường qua chùa Tỉnh hội để làm việc tại văn pḥng Giáo hội Tỉnh. Hai thầy bước dài, đi nhanh nên chỉ một chốc là bỏ xa chúng tôi một đoạn. Đến một khoảng đường cong, khuất tầm mắt của mọi người, Sung móc trong túi ra một hộp quẹt, nói với tôi rằng:

“Anh Khang, em có cái quẹt nè.” (Trong các chú tiểu ở viện, chỉ có ḿnh Sung là xưng anh, em với tôi; các chú kia th́ xưng chú với tôi).   

Vừa đi vừa quay qua, ngó cái hộp quẹt trên tay Sung, tôi nói:

“Th́ sao? Có ǵ lạ đâu?”

Sung đề nghị:

“Ḿnh đốt cái ǵ chơi đi. C̣n có một cái diêm thôi à. Đốt một cái rối vứt hộp diêm cho khỏe, bỏ trong túi hoài mệt quá à!”

“Th́ vứt đi, có một cái diêm mà tiếc làm ǵ!”

“Vứt uổng, đốt cái ǵ chơi cho vui đi mà.”

Tôi chỉ tay vào một bụi cỏ nhỏ, nói không suy nghĩ:

“Th́ đốt đại cái bụi cỏ này đi.”

Sung liền đặt cái xô của chú xuống một bên bụi cỏ nhỏ bên mé đường, sát vách núi. Trên đó chừng một thước là cây cỏ um tùm bao quanh khu tăng pḥng trên chóp núi. Bụi cỏ chỗ xanh chỗ vàng, thấp chừng hai gang tay nhưng rậm, mọc đơn lẻ một ḿnh một cơi. Đốt một bụi cỏ chơi th́ có hại ǵ đâu, tôi nghĩ vậy. Bụi cỏ này mà không đốt th́ chủ nhật này, các thầy ở viện ra làm công tác, dọn sạch đường núi này, cũng phải mất công cuốc hay nhổ nó mà thôi. Tôi đứng chờ Sung đốt. Cây diêm tốt lắm, chỉ quẹt một cái là cháy. Sung đưa lửa diêm vào gốc cỏ, lấy tay che gió một lúc để bảo đảm là lửa cháy bén lên; rồi không đợi lửa cháy hết bụi cỏ, Sung và tôi tiếp tục đi.

Đến chùa Tỉnh hội, Sung dẫn tôi vào dăy nhà tắm cũ của tăng chúng nơi đây. Nghe nói c̣n có nhiều nhà tắm và nhà vệ sinh khác ở các dăy tăng pḥng mới cất nữa. Dăy nhà tắm cũ th́ ít người sử dụng, nên việc tắm giặt có vẻ thoải mái hơn, khỏi phải chờ đợi. Chúng tôi cởi áo  quần ra, chỉ mặc quần đùi, bỏ hết đồ dơ vào xô rồi lo giặt trước, sau đó mới vào buồng tắm, tắm chung. Trong buồng tắm có một hồ nước lớn ăn thông qua buồng tắm kế bên, tức là hai pḥng tắm xài chung một hồ. Sung bày tṛ: nhảy luôn vào hồ nước mà tắm cho sướng. (Cái tṛ này về sau chúng tôi vẫn c̣n áp dụng nhiều lần khi bể nước lớn trong nhà tắm công cộng của viện có thể chứa đầy nước sau mùa hè. Bể nước đó chiều ngang một thước rưỡi, chiều dài hai thước rưỡi, chiều cao một thước, thật lư tưởng để bọn tiểu chúng tôi nhảy vào lặn hụp, sau đó xả hết nước dơ trong bể ra ngoài mà thay nước mới vào. Thật uổng công các thầy lo tiết kiệm nước!) Trời nóng nực, nghe ư kiến của Sung cũng hay hay, tôi gật đầu đồng ư nhưng vẫn c̣n sợ bị phát giác. Tôi nói:

“Lỡ có ai vào tắm ở buồng kế bên, bắt gặp tụi ḿnh nhày vào hồ là chết đó!”

“Không sao đâu, để em  qua pḥng bên đó, coi như anh một pḥng, em một pḥng, đâu có ai vô được mà biết!”

Nói rồi, Sung nhảy vào hồ, hụp xuống nước, ḷn qua phía bên kia, cài cửa pḥng tắm bên đó lại. Hai chúng tôi thay nhau nhảy vào hồ mà ngâm ḿnh cho mát. Lâu lâu làm chuyện nghịch tặc một chút chắc không can ǵ. Buồng tắm là thế giới riêng tư có cửa đóng then cài, ai biết được ai bên trong và đang làm chuyện ǵ! Thôi th́ mùa hè nóng nực rít rắm trong người, sẵn hồ nước trong mát, ta cứ trầm ḿnh cho sảng khoái cuộc đời chay tịnh! Đang tắm thoải mái như vậy th́ có tiếng gơ cửa, tôi rón rén chui ra khỏi hồ. Sung ở buồng bên kia, tôi ở lại buồng này, lên tiếng với người gơ cửa:

“Mô Phật, ai đó?”

Có tiếng bên ngoài nói lớn, chắc là của một thầy nào:

“Ai tắm mà lâu quá vậy? Cho người khác tắm với chớ!”

“Dạ, con ra liền!” tôi nói vậy rồi mới giật ḿnh, chưa dám ra vội, v́ hồ nước năy giờ hai đứa nhảy vào tắm đă dơ không lẽ để cho người khác vào tắm, dội nước lên đầu lên cổ, coi sao được. Nhất là để các thầy tắm nước dơ của ḿnh, tổn phước chết! Tôi bèn tháo cái nùi giẻ ở sát đáy hồ để xả nước ra. Nhưng cũng phải xả ra nhè nhẹ, từ từ, kẻo người ở ngoài có thể biết. Muốn vậy phải lấy chân chận bớt, cho nước tuôn ra từng chặp. Bên kia, Sung cũng lấy gáo múc bớt nước trong hồ, đổ tháo ra nền đất. Cạn hồ rồi, chúng tôi xả một ít nước từ ṿi xuống đễ rửa sơ qua một lượt toàn thành hồ, sau đó mới đậy nùi giẻ lại, cho nước chảy thật mạnh vào hồ. Đến lúc đó mới dám mở cửa bước ra. Nhưng vị thầy nào đó, năy giờ chờ đợi lâu quá, đă đi đâu mất. Chắc là t́m qua dăy nhà tắm khác. Hú hồn! Tôi và Sung lo thu dọn đồ khô đồ ướt chuẩn bị ra về. Bỗng thấy Dũng và Kính chạy rần rật tới. Dũng gặp chúng tôi đi ngược chiều th́ dừng lại, thở hổn hển, nói:

“Cháy núi! Cháy nguyên cả một đám dưới dăy nhà mới. Quư thầy phải bỏ lớp, tập trung lại chữa cháy. Ghê quá!”

Tôi hoảng kinh, đoán rằng có thể ngọn lửa đó do Sung đốt chơi bụi cỏ khi năy. Tôi định hỏi thêm cho chắc, nhưng chưa kịp mở miệng th́ Kính nói thêm:

“Ui chao, mấy thầy nói bắt được ai đốt là đập cho một trận.”

Sung tái mặt chẳng nói được tiếng nào. Tôi hỏi:

“Vậy bây  giờ đă hết cháy chưa?”

“Lúc tụi này đi ngang qua th́ chữa gần xong rồi. Ngay chỗ khúc đường quanh gần tam cấp lên nhà mới chớ đâu!”

Tôi giữ giọng b́nh thản nói với Sung:

“Thôi tụi ḿnh về mau, coi có phụ giúp mấy thầy được không.”

Sung nói giọng yếu x́u, mặt không c̣n chút máu:

“Đi.”

Dũng và Kính vào nhà tắm, tôi và Sung vội vă về viện. Vừa đi Sung vừa năn nỉ tôi:

“Đừng nói ai em đốt hết nghen. Em đâu có cố ư.”

“Đâu phải một ḿnh chú có lỗi. Tôi cũng có lỗi. Lỗi tôi c̣n nặng hơn v́ tôi xúi chú đốt bụi cỏ đó. Chắn chắn là không nói cho ai biết được. Thầy mà biết là cả hai đứa ḿnh bị đ̣n xong c̣n bị đuổi về nhà nữa chứ chẳng phải chơi.”

Sung nghe vậy mới yên tâm, hoàn hồn, v́ năy giờ chú ấy cứ nghĩ là một ḿnh chú làm, một ḿnh chú chịu. Chú cũng sợ rằng tôi sẽ mét chuyệt đó với quư thầy.

Đi một đoạn đường đồi, tôi thấy khoảng núi bị cháy làm trống cả mặt trước của dăy tăng pḥng trên cao. Từ phía trên nhà mới và dưới đường đồi bây giờ có thể nh́n thấy nhau rơ, không có cây cỏ ǵ ngăn che nữa. Một đám cháy lớn chứ chẳng phải vừa. Đám cháy đúng là bắt lửa từ bụi cỏ nhỏ mà chúng tôi đốt khi năy chứ chẳng sai chạy vào đâu. Tôi và Sung đi ngang khoảng cháy c̣n nóng hực hơi lửa, vậy mà hai đứa như cảm thấy lạnh run. Một vài thầy hăy c̣n dùng cành lá mà đập các đốm lửa nhỏ c̣n cháy đâu đó trên núi. Vài thầy khác rưới nước quanh khoảnh sân trước tăng pḥng. Tôi và Sung đi khuất rồi mà chưa hết khiếp sợ.

Xế chiều, thầy tôi đứng từ hiên nhà khách nh́n ra khoảng núi bị cháy, buột miệng nói:

“Một đốm lửa sân hận nhỏ có thể đốt cháy cả rừng công đức.”

Đó là một câu trong kinh Phật. Dĩ nhiên thầy chẳng ám chỉ ǵ tôi hay Sung. Làm sao thầy biết được! Thầy chỉ thấy đám cháy mà nhớ tới một câu kinh Phật vậy thôi. Nhưng nghe thầy nói, tôi thấy nhột trong ḷng lắm. Tôi t́m gặp Sung, nói:

“Chiều nay tụi ḿnh phải sám hối mới hết cái tội khi sáng.”

“Đừng, đừng có sám hối, v́ làm như vậy mấy thầy biết đó. Lỡ mấy thầy hỏi tại sao sám hối th́ sao?”

“Sám hối thầm thôi chứ ai bảo làm rộn lên bao giờ! Sẵn thời kinh công phu chiều có tụng Hồng Danh Bửu Sám, hai đứa sám hối luôn.”

Vậy đó mà chuyện đốt núi lửa được giữ kín giữa tôi và Sung, không ai khác biết đến. Đâu chừng một hai tuần th́ cái chuyện khủng khiếp tưởng như không bao giờ quên cũng được mấy thầy và mọi người trên viện cho vào quên lăng, không nhắc tới nữa. Cỏ non lại đâm chồi mọc lên. Các cành khô lại từ từ nhú mầm. Vài tháng sau th́ chỗ khoảng cháy đó lại xanh um, không c̣n dấu vết ǵ của một trận lửa xảy ra. Nhưng trong ḷng tôi vẫn như c̣n bỏng cháy với nỗi ray rứt hối hận.

 

a

 

Một sáng chủ nhật nọ, thầy quản chúng có công tác đặc biệt cho bọn tiểu chúng tôi. Sau khi làm công tác thường nhật, chúng tôi tập trung tại pḥng thầy quản chúng để nhận thêm công tác mới cho ngày chủ nhật đó. Tôi, Kính và Sung được cắt đi tưới cây và các chậu kiểng trước sân chùa. Có một cái ṿi và cái bể nhỏ chứa nước ở bên trái lầu trống của chánh điện. Chúng tôi xả cho nước vào đầy hồ rồi lấy xô xách đi tưới. Nước mùa hè khan hiếm, học tăng của viện phải đi tắm giặt xa nhưng các cây kiềng trước sân chùa th́ phải tưới kẻo bị chết khô.

Đang tưới mấy chậu kiểng dọc hai bên tam cấp dẫn lên dăy tiền điện, tôi bắt gặp một con rắn đang trườn chậm dưới chân chậu kiểng rồi núp dưới đó. Sợ các chú khác không thấy, bước qua bước lại rồi bị cắn, tôi báo cho các chú biết. Tôi là dân thành phố, lâu nay đâu có thấy con rắn thật bao giờ, nên trong ḷng cũng hơi sợ. Nhưng Kính và Sung th́  không chút sợ sệt. Không  những không né tránh hay xua đuổi con rắn, các chú c̣n rinh dẹp chậu kiểng qua một bên rồi lấy cái xô không, úp con rắn lại. Tôi la lên:

“Sao  không đuổi nó chạy mà c̣n úp nó lại làm ǵ?”

Kính nói:

“Bắt nó chơi.”

Sung phụ họa:

“Lấy dây cột nó lại.”

Rồi Sung đi t́m dây, Kính đứng giữ con rắn. Tôi thấy lo lo trong ḷng mà chẳng biết nói sao. Chỉ một lát sau, Sung quay trở lại với một sợi dây ni-lông dài. Sung thắt một cái tḥng lọng, kiểu thắt gút cổ chó, rồi bảo Kính hé miệng xô ra một tí. Con rắn thấy có đường liền ló đầu ra, Kính lập tức chận cái xô lại, kèm chặt một khoảng ngang khúc đầu con rắn. Sung tức tốc tṛng tḥng lọng vào đầu rắn, siết chặt cái gút lại. Sung nắm đầu sợi giây, kéo rắn chạy ra khoảng đất trống. Tôi la lên:

“Chơi ǵ kỳ cục vậy! Thả nó ra đi!”

Sung không nghe, cứ kéo con rắn chạy ṿng ṿng. Kính chạy đuổi theo, miệng cười toe toét có vẻ thích thú lắm. Con rắn bị lôi đi, đầu ḿnh nó cạ trên nền đất trông thật tội nghiệp. Dù thấy con rắn có vẻ hiểm ác, tôi cũng không sao vui thú nh́n nó bị hành hạ như vậy. Nhưng tôi cũng không cản ǵ các chú ấy được. Lững thững, tôi bước theo nh́n các chú đùa giỡn với con rắn mà thấy buồn buồn trong ḷng. Sung chạy được hai ba ṿng th́ Kính đ̣i kéo rắn. Chú này c̣n nghĩ ra cách chơi độc địa hơn Sung một bậc: chú không kéo con rắn chạy ṿng ṿng nữa mà nắm đầu giây qua tít con rắn một hồi – kiểu như các tay cao bồi Mỹ quay giây trước khi phóng tḥng lọng vào cổ ḅ. Rồi Kính đem con rắn tới cái bể nước nhỏ, nhận nước con rắn. Tôi bất măn la:

“Thôi, vừa vừa thôi, chơi ǵ ác quá vậy! Thả nó đi.”

Kính thấy tôi cứ lẽo đẽo theo sau đ̣i thả con rắn th́ muốn chọc tức tôi thêm, lôi con rắn đi xềnh xệch xuống đường núi lởm chởm đá. Sung chạy theo đ̣i lại con rắn, nói rằng đă tới phiên chú. Kính xoay qua chọc tức Sung, kéo con rắn chạy thật nhanh ra xa cho Sung đuổi theo. Con rắn lăn lóc theo sức kéo nhanh của Kính. Sung đuổi kịp, nắm đầu giây kéo con rắn chạy trở về. Tôi ngồi ở bậc tam cấp bên trên nh́n xuống, thấy con rắn bị trầy sướt khắp ḿnh. Khi hai chú ngừng lại một chút để nghỉ mệt th́ con rắn cũng ngất ngư, chẳng buồn nhúc nhích nữa. Vừa lúc đó, có thầy Niệm từ chánh điện bước ra. Có lẽ nghe tiếng ḥ hét của chúng tôi nên ra xem thử chuyện ǵ xảy ra. Thầy hỏi tôi, tôi kể lại đầu đuôi câu chuyện. Thầy gọi hai chú:

“Ê, chú ǵ đó? Thả con rắn đi.”

Sung, Kính ngó lên thấy mấy Niệm th́ lại tiếp tục kéo con rắn chạy thêm một đoạn. Có lẽ các chú biết thầy ấy không đánh phạt các chú bao giờ nên chẳng sợ. Thấy lời ḿnh chẳng hiệu lực, thầy cũng im luôn, và thầy ngồi đó với tôi, quan sát các chú chơi rắn. Chơi chán rồi, các chú đem thả con rắn ở một bụi rậm dưới chân núi rồi quay trở lên. Thầy Niệm chờ các chú lên, nói một câu với giọng không được nghiêm khắc lắm, một câu mà các chú nghe xong cũng chỉ cười:

“Mấy chú này hoang quá. Kéo nó chạy như vậy th́ chết con người ta rồi c̣n ǵ!”

Kính cười cười đáp:

“Đâu có chết, bạch thầy.”

Sung nói:

“Cho nó chết luôn cũng được, chứ không nó cắn ḿnh sao thầy.”

Thầy nói:

“Đuổi nó đi xa được rồi. Hoang quá!”

Thầy nói nhỏ nhẹ như vậy thôi rồi quay vào. Chúng tôi tiếp tục tưới cây.

Đến chiều, tôi đang ngồi ôn bài trong giờ phóng tham th́ thầy tôi gọi tôi vào Tổ đường  bảo quỳ xuống. Tôi chẳng biết chuyện ǵ, nhưng cứ quỳ đó mà chờ thầy dạy. Thầy có vẻ giận. Rồi thầy thầy bảo Sáng chạy đi  kêu Sung và Kính. Bấy giờ, tôi mới nhớ lại chuyện con rắn khi sáng. Mười phút sau, Kính và Sung có mặt tại Tổ đường. Lúc đó thầy mới lớn tiếng bảo cả ba chúng tôi nằm dài xuống nền đất.

“Hồi sáng các chú bắt rắn hành hạ, chơi đủ tṛ, có không?”

Kính và Sung đều run run nhận tội. Thầy hỏi tôi:

“Bộ chú không có hả?”

Tôi đáp:

“Bạch thầy, không.”

“Vậy chú có mặt suốt thời gian mấy chú kia bắt rắn, giỡn rắn, phải không?”

Tôi đáp phải. Thầy tiếp:

“Sao không ngăn cản lại để cho  các chú chơi hoang như vậy?”

Tôi chưa kịp nói th́ thầy đă quất roi xuống. Thầy phạt tôi nặng nhất: năm roi. Kính và Sung mỗi chú ba roi. Cứ mỗi roi giáng xuống là Kính la đau, lấy tay xoa đít lia lịa. Sung th́ oằn ḿnh, vặn vẹo như con trùn, khóc thét lên:

“Đau quá thầy ơi, đau quá thầy ơi!”

Tôi th́ lâu nay vẫn ĺ đ̣n, nên thầy quất năm roi tôi cũng chỉ rung người lên một chút, bặm môi chịu trận, không rên không khóc. Nhưng trận đ̣n này, quả là oan ức cho tôi, tưởng chừng không sao chịu nổi. Thầy không cho tôi nói tiếng nào. Sau khi phạt đ̣n chúng tôi, thầy c̣n bắt ba đứa quỳ một cây nhang trước bàn thờ Tổ. Không phân giải được sự việc, tôi bất măn vô cùng. Buổi tối, lúc tôi vào quét dọn pḥng, thầy hỏi:

“Con có biết tại sao thầy đánh con năm roi mà các chú kia chỉ ba roi không?”

Tôi biết đây là lúc có thể biện bạch cho ḿnh được, nhưng tự dưng tôi chẳng muốn nói ǵ. Cái bướng bỉnh con nít trong tôi nó xúi tôi làm vậy. Tôi đáp:

“Dạ không biết.”

Thầy im một lúc rồi nói:

“Giới thứ nhất của năm giới mà con đă thọ có nói rằng, không được tự ḿnh giết hại, xúi người khác giết hại hoặc thấy kẻ khác giết hại mà ḷng ḿnh vui theo. Chuyện các chú ấy làm, con vui theo, mà vui theo có nghĩa là giết hại bằng ư nghĩ. Trong ba nghiệp thân, miệng và ư th́ ư đứng hàng đầu. Đó là lư do mà thầy phạt con nặng hơn các chú kia.”

“Con…” tôi định nói là chẳng những tôi không vui theo mà c̣n ngăn cản các chú ấy nữa. Nhưng tôi lại cứng họng, chẳng muốn nói nữa. Thấy tôi ngâp ngừng rồi nín bặt, thầy nghĩ sao đó lại nói tiếp:

“Nếu con không có ư vui theo th́ đáng ra con phải hết sức can ngăn các chú ấy. Can ngăn không thành có nghĩa là chưa hết ḷng.”

Thầy nói như vậy th́ tôi không c̣n ǵ để bàn căi nữa. Phải, tôi đă không ngăn cản hết ḷng. Nếu tôi nhảy ra giựt sợi giây, hoặc thụi cho mỗi chú một đấm, có lẽ các chú đă chịu thả con rắn. Nhưng đánh lộn với các chú ây, chắc lại mang cái lỗi ấu đả, làm kinh động chúng tăng, mất không khí ḥa hợp trong chùa. Hơn nữa, làm chú tiểu mới xuất gia, tôi chưa hề nghĩ rằng ḿnh có thể vung tay vung chân đấm đá ai, nói ǵ các chú tiểu đồng tu với ḿnh.

Lời thầy dạy làm tôi chợt nhớ tới thầy Niệm. Khi sáng, các chú kia bắt rắn, thầy Niệm cũng có mặt, cũng can ngăn, y hệt như tôi chứ chẳng khác chút nào. Vậy đó rồi thầy vào trong thưa lại với thầy tôi thế nào đó, mà cả tôi là người đứng ngoài cũng bị đ̣n oan. Bây giờ, nghe thầy tôi dạy rồi, tôi không c̣n mang mối bất măn trong ḷng về cách xử phạt của thầy nữa. Nhưng với thầy Niệm, trong tôi hăy c̣n chút mặc cảm ǵ đó. Tôi không phục. Điều này phải để trong bụng, không thể nói ra được. Sự bất kính của một chú tiểu đối với một vị tăng là điều không nên chút nào trong luật chùa, tôi học được điều đó trong bộ luật Sa-di. Tôi đă cố gắng rất nhiều để không ôm ḷng bất kính đối với thầy ấy, nhưng thật khó. Tâm hồn trẻ thơ như miếng đất dẻo, cái ǵ nặng nề đặt lên cũng để lại dấu vết lâu dài. Tiếc thay thầy ấy đă khiến tôi trở thành một kẻ nhỏ mọn v́ không quên được chuyện cũ trong một thời gian rất lâu.

Dù đă có những lúc tôi bị cuốn theo những tṛ vui hay sự nghịch ngợm của tuổi trẻ, nhưng rơ ràng là tôi đă dần dần khép ḿnh vào giới luật của nhà Phật cũng như nội quy của viện một cách ngoan ngoăn và tương đối dễ dàng. Có lẽ đó cũng nhờ sự uốn nắn trực tiếp của thầy tôi, mà cũng có thể do v́ cái tâm nhẹ dạ, hẹp ḥi và rất ư cổ điển của tôi – cái tâm ham chuộng tự do, nhưng cũng sẵn sàng chết sống cho sự tuân thủ những qui ước, luật lệ.            

 

 

oOo

 

Mời đọc tiếp Chương 7

 

Trở lại trang Mục Lục

 

 

 


 

Back