Nguyễn Sỹ Tế
Người ta biết đến ông như một nhà văn hay một nhà giáo hơn là một nhà thơ.
Nhưng dù ở cương vị nào, ông cũng hiền lành, nhân ái, ngay cả đối với những người đày ải và đối xử tàn tệ với bản thân ḿnh và đồng bào ruột thịt của ḿnh. Ông không chiến đấu, dù là chiến đấu bằng ng̣i bút. Ông chỉ giáo dục, cảm hóa người khác, bằng ng̣i bút.
Thơ ông luôn có cái chừng mực trầm tĩnh, đạo mạo của một nhà giáo, nhưng không thiếu cái đẹp trong sáng, siêu thoát của một đạo nhân.
Những bài sau đây trích từ thi phẩm Khúc Hát Gia Trung của ông, do Edition Imn xuất bản năm 1994, hai năm sau khi ông đặt chân đến Hoa Kỳ.
Phương Hải Tần
Giă từ thành quách hoang liêu,
Trăm năm để hận một chiều nước mây.
Mái sương chia nửa chốn này,
Nghe tâm tư động sáu giây nguyệt cầm.
Khúc nghê thường những huyễn âm,
Vành nôi ngọc thụ một mâm hoang đường.
Đan thanh khép kín nẻo tường,
Bước chân hoang dại nhớ phương hải tần.
Lên cao giũ áo phong trần,
Xuống khe gột rửa nợ nần hôi tanh.
Một mùa xuân thật hiền lành
Cỏ cây dệt mộng áo xanh trong đời.
Viên Sỏi Thí
Lữ khách dừng chân bờ nước vắng
Ném viên sỏi đẹp xuống ḷng ao
Nước mau xóa trọn lằn giao động
Tiếc hận ḷng ai bỗng dạt dào.
Phiêu
Cỏ rêu nở nụ hoa vàng
Một con suối nhỏ lang thang trong rừng.
Khói tuôn mép rẫy ngập ngừng
Đôi ba mái lá ngủ lưng chừng đồi
Non mờ chắn lối xa xôi,
Bốn phương mây trắng, một trời hoang liêu.
Gió lên thung đă rất chiều,
Nhân sinh trọn một chữ "phiêu" vô t́nh!
Gửi Hành Nhân
Gửi người lặng lẽ đăng tŕnh
Hơi sương lạnh lẽo b́nh minh tới gần.
Gửi người t́m chốn nương thân:
Bếp không lửa tắt thập phần ủ ê.
Gửi người đi chẳng trở về:
Hẻm cùng ngơ cụt bốn bề lặng yên.
Gửi người chạy trốn đêm đen:
Một trang lịch sử ố hoen quê nhà!
Cơ Hội Cuối
Rừng núi bao la toàn khối nặng
Lạnh lùng che khuất cả trời xa
Sườn non bỗng thấy, trên màu lá,
Ngói đỏ nhô lên một mái chùa.