Phạm Công Thiện

 

(1941 - 2011)

 

 

 

Đời gọi ông là thần đồng, là triết gia, là phù thủy văn chương hay ǵ ǵ đi nữa th́ tôi vẫn thích đọc ông như một thi sĩ, và nh́n ông như một nghệ sĩ, vác một trời tư tưởng mênh mông, ôm một bầu tâm thức tịch lặng, nói những ǵ muốn nói, làm những ǵ muốn làm, và rồi... chẳng bao giờ nh́n lại cái ǵ đă nói, đă làm; chẳng bao giờ đứng lại. Ông sống trên đời như một du tử hết sức giàu có, và hết sức trắng tay, lang thang măi... cho hết những đêm hoang vu trên mặt đất.(*)

H́nh như trong số mấy chục tác phẩm đă xuất bản, ông chỉ cho ra đời mỗi một tập thơ duy nhất là Ngày Sinh Của Rắn. Đó là nói theo đúng cách phân loại bài bản của học đường; chứ nh́n ở khía cạnh rung cảm nghệ thuật thuần túy, ngay cả những tập văn xuôi nặng triết lư của ông vẫn mang cả một trời thơ dị thường.

Dù sao, cũng chỉ nên đọc thơ ở đây mà thôi:

 

Mười năm qua gió thổi đồi tây

Tôi long đong theo bóng chim gầy

Một sớm em về ru giấc ngủ

Bông trời bay trắng cả rừng cây

Gió thổi đồi tây hay đồi đông

Hiu hắt quê hương bến cỏ hồng

Trong mơ em vẫn c̣n bên cửa

Tôi đứng trên đồi mây trổ bông

Gió thổi đồi thu qua đồi thông

Mưa hạ ly hương nước ngược ḍng

Tôi đau trong tiếng gà xơ xác

Một sớm bông hồng nở cửa đông.

(Ngày Sinh Của Rắn, VIII)

 

Những tập sách dày cộm triết lư của ông, có lúc ta đọc say mê quên ăn quên ngủ, mà có lúc cũng muốn bể đầu. Thơ ông cũng đầy mùi triết lư, nhưng cái triết lư đă được kết tinh, cô đặc lại thành những h́nh ảnh.

 

Rắn trườn vỡ trứng chim rừng

Tôi nghe tiếng hát hoang đường nửa đêm

Khuya buồn tủi nhục môi em

Mưa bay nhỏ nhẹ qua thềm bơ vơ

Tiếng ru chín đỏ điện thờ

Hoang vu tôi đứng đợi chờ chim kêu

Tay c̣n ôm giữ t́nh yêu

Tôi về phố động những chiều hư vô

Đời đi trên những nấm mồ

Đau tim em hát cơ hồ khăn tang

Phố chiều tôi bước lang thang

Nuôi con sông nhỏ mơ màng biển xanh

Nửa đêm khói đốt đời anh

Yêu em câm lặng khô cành thu đông

Lời ca ru cạn ḍng sông

Trọn đời chạy trốn mống vồng cầu điên

Bỏ ḿnh nước chảy đồi tiên

Theo con chim dại lạc miền thiên hương

Về đâu thương những con đường

Lê thê phố cũ nghe buồn hè xưa.

(Ngày Sinh Của Rắn, IX)

 

V́ vậy, khi đọc, ta không cần phải suy tư, triết lư ǵ nữa. Ta chỉ đọc thơ mà thôi. Và cơi thơ ấy, thật trong sáng; đôi khi thơ dại...

 

Tôi nằm cho ră chiếu cạp điều

Nước chảy lên vùng phố tịch liêu

Tôi nhớ một lần cây quế mọc

Tôi đứng gọi hương trọn buổi chiều.

(Ngày Sinh Của Rắn, II)

 

Đôi khi đơn giản mà đẹp lạ lùng. Đẹp một cách bất ngờ. Đẹp hết ư...

 

Mưa chiều thứ bảy tôi về muộn

Cây khế đồi cao trổ hết bông.

(Ngày Sinh Của Rắn, III)

 

Một bài khác, càng giản dị hơn, lời lẽ đơn sơ đến mộc mạc, đơn sơ đến trẻ thơ, chẳng khác ǵ đi ngược về quá khứ mà làm một bài thơ bằng lời lẽ của tuổi thơ ấu vậy.

 

Tết Xưa

Lơ lửng bông mồng gà

Chiều ba mươi tết ta

Tôi ôm gà tre nhỏ

Chạy trốn tuổi thơ qua.

 

Đến như bài sau này th́ hết lời bàn. Cả một đời trăn trở, vật ḿnh với triết lư, ông vẫn cứ như vậy... vẫn bên này nh́n bên kia, đồi này ngóng đồi nọ; vẫn mây trắng bay, vẫn gọi nhau nhỏ nhẹ nỗi nhớ,  vẫn sông sâu và ngày tháng đợi chờ ... và vẫn một đêm, một tháng, một năm, một đời, trôi lang thang...

 

Thiên Sương

Mộng ở đầu cây mơ lá cây

Ḍng sông ngừng chảy đợi mây bay

Kêu nhau nhỏ nhẹ sầu năm ấy

Chim hải hồ bay trắng tháng ngày

 

T́nh nhỏ quên rồi em ở đâu

Mây bỏ trời đi t́m sông sâu

Em về lồng lộng như sương trắng

Hồn chết trôi về Thương Hải Châu.

 

__________

* Tựa đề một tác phẩm của ông: Đi Cho Hết Một Đêm Hoang Vu Trên Mặt Đất.

 

 

 

Mời đọc thêm:

Trên đỉnh tịch lặng (thơ Vĩnh Hảo kính tiễn thầy Phạm Công Thiện)

 

 

 

 

 

Trở về mục Đọc Thơ