Do tính cách đọc thơ hoàn toàn chủ quan như đă nói ở trên, xin bạn đừng xem đây như một thiên khảo cứu hay một bộ sưu tập về thi ca Việt-nam. Tôi đọc bằng cảm xúc, không đọc bằng kiến thức. Nếu những lời bàn nào đó của tôi đối với một bài thơ mà không đúng ư tác giả th́ chẳng có nghĩa rằng tôi hiểu sai đâu, mà chỉ v́ tôi đọc thơ tác giả đó bằng cái hồn, cái giọng, cái cảm xúc của tôi đấy thôi. Xin đừng càm ràm, phiền trách. (Vả chăng, này các thi nhân, các bạn có thể nào chỉ tôi làm thơ cách sao mà không bị người khác hiểu sai ư không?) (trích LỜI THƯA của Vĩnh Hảo viết cho các trang "Đọc thơ")
Tuệ Sỹ
Ai có thể tưởng được đây là bài thơ ngắn của một nhà sư?
Em mắt biếc ngây thơ ngày hội lớn
Khoé môi cười nắng quái cũng gầy hao
Như c̣ trắng giữa đồng xanh bất tận
Ta yêu người v́ khoảnh khắc chiêm bao.
Ở đây không cần phải luận bàn làm ǵ sở học uyên bác và trí tuệ cao thâm của nhà sư tác giả bốn câu thơ ấy. Chỉ nói riêng chút xíu về hồn thơ, hơi thơ của ông qua vài bài thơ mà nhiều người từng đọc và say mê. Trước nhất là bài thơ vừa đọc ở trên (có trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn), tựa đề: Thoáng Chốc.
Bài thơ bắt đầu bằng nhân vật ở ngôi thứ ba: "Em" (cô ấy, người ấy); mà cũng có thể là nhân vật ngôi thứ hai lắm! Em. Vâng, tôi nói với em đấy. Không nói bằng lời mà bằng tâm.
Em: mắt biếc, ngây thơ
Tả một người đẹp chỉ bằng mấy chữ. Mắt biếc: cửa sổ tâm hồn. Ngây thơ: tâm hồn. Chỉ nh́n vào cửa sổ là thấy được cái ǵ ẩn sâu bên trong. Cửa sổ xanh biếc, xanh như ngọc, mở ra một tâm hồn trong trắng ngây thơ. Không những vậy, cái vẻ ngây thơ c̣n được xác định thêm bằng khung cảnh chung quanh, bằng sự rộn rịp đông đảo của một ngày hội lớn; qua đó, thi nhân thấy "em" ngây thơ chi lạ giữa chốn lễ hội chen chúc những người là người. Lễ hội nào đây? Phải là lễ hội lớn ở chùa th́ mắt biếc mới giao cảm với cái nh́n của thi nhân. Tết thượng nguyên? Lễ Phật Đản? Không. Những ngày lễ hội này vui lắm. Khí trời ấm cúng, ḷng người nô nức hân hoan. Không thích hợp để ḷng ḿnh bất chợt nẩy sinh một nỗi buồn vu vơ, hoặc bỗng dưng mà tha thiết yêu người như vậy. Phải là ngày Lễ hội Vu Lan. Mùa thu. Gió lành lạnh. Buồn buồn. Một ngày lễ tuy cũng là hội lớn nhưng không rộn ràng vui tươi như ngày xuân hay Phật Đản. Ngày ấy, những người con xa gia đ́nh sẽ nhớ cha nhớ mẹ hơn; những nhà tu sẽ dễ chạnh ḷng hơn.
Nơi sân chùa, tiếng trống, tiếng chuông, tiếng mơ, ban kinh sư nhịp nhàng câu kinh tiếng kệ, hàng ngh́n người bu quanh đàn tràng chờ đợi giờ phút giành giật thực phẩm cúng cô hồn... Và em bỗng nổi bật giữa chốn lễ hội ấy, với đôi mắt ngạc nhiên quan sát, t́m hiểu quang cảnh lễ hội một cách thú vị. Và rồi một thoáng bất chợt bắt gặp nhà sư thi sĩ.
Khoé môi cười nắng quái cũng gầy hao
Nắng lúc ấy không c̣n gay gắt nữa. Màu nắng bỗng dưng dịu xuống... Dịu không phải v́ nắng thu mà v́ một khoé môi cười. Khoé môi cười làm cho "nắng quái" hao gầy đi, giảm gắt đi. Nói cách khác, trời nắng gắt bỗng dưng êm dịu đi khi nàng nở một nụ cười. Nụ cười ǵ đấy nhỉ? Cười với ai? Cười với bạn bè? với người thân? hay với nhà sư thi sĩ? Có lẽ là cười với nhà sư. Em mỉm cười thay một lời chào. Nhưng cười thế nào mà nắng quái cũng gầy hao? Cười thế nào mà ḷng bỗng bâng khuâng, d́u dịu... để không kềm được lời ca:
Em mắt biếc ngây thơ ngày hội lớn
Khoé môi cười nắng quái cũng gầy hao
Chưa hết. Ngay lúc ấy, ngay ở quang cảnh tưng bừng lễ hội ấy, mà tự dưng dáng em bỗng trở thành hiện thân của một con c̣ trắng giữa đồng xanh. Rơ ràng là em đang đứng giữa rừng người mà sao thi nhân lại thấy khác đi. Thấy em nổi bật lên, không phải như con c̣ trắng đứng giữa bầy c̣ đen; cũng không phải như con c̣ trắng đứng giữa bầy gà, bầy vịt, mà đứng giữa đồng xanh bát ngát. Tất cả mọi người chung quanh đều mất dạng, không hiện hữu. Chỉ có một ḿnh em áo trắng, ngây thơ, mắt biếc, đứng giữa đất trời mênh mông.
Như c̣ trắng giữa đồng xanh bất tận
Mắt biếc, ngây thơ, trong chiếc áo dài trắng, đứng lặng lẽ, nở một nụ cười, giữa đám người chộn rộn. Ôi, đẹp như thế, làm sao mà ḷng khỏi bâng khuâng xao động; làm sao mà chẳng thành thơ; làm sao mà khỏi yêu được! V́ vậy:
Ta yêu người
Đừng vội, hăy đọc ngang đó, ngắt ngang đó thôi. Khoan đọc tiếp mấy chữ cuối. Khoan chấm dứt bài thơ. Hăy dợm một chút ở nơi này. Và hăy mượn bài thơ của thi nhân để diễn tả thể cách yêu b́nh phàm của chúng ta:
Em mắt biếc ngây thơ ngày hội lớn
Khoé môi cười nắng quái cũng gầy hao
Như c̣ trắng giữa đồng xanh bất tận
Ta yêu người.
Ta yêu người, chấm hết. Rồi bắt đầu bước chân chinh phục, chiếm hữu. Bước chân đó mỗi người có một cách riêng, không cần phải nói ra. Chỉ cần: Ta yêu người, là xong.
Tŕnh tự thương yêu của người trần sẽ trôi đi như thế. Thấy em mắt biếc, trong trắng, dịu dàng, cười rất có duyên, nổi bật giữa đám phàm phu tục tử khác... th́ phải yêu thôi. Vâng, ta yêu người, tôi yêu cô, anh yêu em. Phải là như thế. Bài thơ của chúng ta, dù theo vần điệu và thể loại th́ không muốn cắt ngang đó, tức lắm; nhưng trên thực tế đời sống th́ chúng ta cắt ngang đó cái rụp, đâu có cần suy nghĩ ǵ nữa. Đẹp, có duyên như vậy th́... yêu! Bài thơ chấm dứt, có một đoạn kết rất thực tế, rất phổ thông, rất là người.
Nhưng bài thơ của nhà sư thi sĩ th́ tiếp tục:
Ta yêu người v́ khoảnh khắc chiêm bao.
Vẫn là yêu, nhưng t́nh yêu đă được thăng hoa. Từ cái yêu b́nh phàm của nghệ nhân trước cái đẹp biến thành t́nh yêu của đạo sĩ đối với lẽ chân của con người và trần gian khổ lụy.
Ta yêu người v́ khoảnh khắc chiêm bao
Lư do yêu người được khẳng định. Không phải v́ cái đẹp, cái ngây thơ trong sáng, cái duyên dáng mảnh mai thon thả của một thiên thần áo trắng, mà chính v́ cái mong manh dễ tan dễ vỡ của màu trắng ấy. Tất cả cái đẹp đều chỉ là cái đẹp trong mộng huyễn vô thường. Nhưng cũng chính v́ mộng huyễn vô thường mà tất cả trở nên đẹp.
Tất cả nằm trong một khoảnh khắc chiêm bao. Chính khoảnh khắc chiêm bao này làm đảo lộn tất cả những ǵ diễn ra tưởng là y hệt con người trần thế trước đó. Ba câu thơ đầu diễn tả cái đẹp của một nàng thơ áo trắng. Đáng yêu quá. Trùng hợp với tâm trạng chúng ta quá. Nhưng đến câu thứ tư, thi nhân bỗng đổi giọng và nói tiếng nói tỉnh thức của đạo nhân. Đạo nhân ấy không nói "anh yêu em" như chúng ta, mà nói "Ta yêu người". Lối xưng hô của một kẻ đứng bên ngoài, bên trên, nh́n xuống cuộc đời tạm bợ, huyễn hóa. Ở câu đầu gọi bằng "em" ngọt sớt theo thể điệu của thi nhân, bỗng dưng đổi giọng nghiêm trang, cao vợi của một bậc thầy, một hành giả trên đầu ghềnh tử sinh, gọi người ta bằng "người"! Mà "người" ở đây, cũng chưa hẳn là chỉ riêng cho "em" đâu. Có thể là chỉ chung cho mọi con người khổ lụy trầm luân trên cuộc đời. Như thế, nh́n "em" mà thấy tất cả. Em là hiện thân của tất cả chúng sinh, của chiêm bao mộng mị. Đổi xưng hô, thay cách gọi, là xoay ngược cái nh́n và thế đứng của ḿnh trước đối tượng cuộc đời.
Một khoảnh khắc đam mê, một khoảnh khắc lấp lánh long lanh của t́nh thơ lai láng, lâng lâng... bất giác biến thành chiêm bao. T́nh yêu cũng chiêm bao. Cái đẹp cũng chiêm bao. Khoảnh khắc thơ mộng nhất, nên thơ nhất cũng chiêm bao...
Cho nên, đừng nói rằng đạo nhân sắt đá không có trái tim. Không có trái tim th́ làm sao cứu độ con người, cứu độ cuộc đời? Họ yêu và phấn đấu thăng hoa t́nh yêu ấy. Họ cảm nhận được cái đẹp không phải chỉ qua những h́nh hài cụ thể mà c̣n cảm nhận được cái đẹp trường cửu trong từng hiện hữu chiêm bao. Không ai yêu mà thốt nên lời thơ tiếng ca tuyệt vời như những thi nhân, nhưng chẳng ai yêu mà cảm nhận sâu sắc tận bản thể đối tượng yêu thương như đạo nhân. T́nh yêu ấy bập bềnh như chiêm bao nhưng lại bất tử, bởi v́ nó được khơi dậy từ một khoảnh khắc và được cảm nhận một cách trọn vẹn trong chính khoảnh khắc ấy.
Bài thơ đẹp một cách bất ngờ. Không biết yêu th́ không làm sao có được lời thơ đẹp như thế. Mà không siêu thoát th́ cũng không làm sao có được ư thơ thâm viễn thượng thừa như vậy. Khi nào bị d́m xuống đáy vực khổ đau, bạn có thể, nói theo kiểu của nhà thơ Phùng Quán: "Vịn câu thơ mà đứng dậy." Vâng, bạn có thể đọc bốn câu thơ của Tuệ Sỹ để đứng dậy cho một t́nh yêu bất tuyệt:
Em mắt biếc ngây thơ ngày hội lớn
Khoé môi cười nắng quái cũng gầy hao
Như c̣ trắng giữa đồng xanh bất tận
Ta yêu người v́ khoảnh khắc chiêm bao.
..............
Kế tiếp chúng ta sẽ đọc một hơi một số bài thơ của Tuệ Sỹ. Chỉ đọc thôi. Không đủ sức bàn đâu. Bàn thơ ông mệt lắm, thưởng thức th́ thú vị hơn.
Đây là một bài khác: Khung trời cũ
Đôi mắt ướt tuổi vàng cung trời hội cũ
Áo màu xanh không xanh măi trên đồi hoang
Phút vội vă bỗng thấy ḿnh du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn.
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông, mai mùa hạ buồn chăng?
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa ngược nước xuôi ngàn.
Bài thơ trên, cố thi hào Bùi Giáng đă đọc một cách tỉ mỉ và bay bổng lắm rồi, không cần phải dặm thêm ǵ nữa. Chỉ đọc, chỉ thưởng thức thôi, là đủ thấy đời ḿnh hạnh phúc. Hạnh phúc không phải kiểu đọc thần chú hay thi kệ để t́m an lạc giải thoát; mà chỉ đơn giản là cái hạnh phúc có được một bài thơ tuyệt tác, đáng học thuộc ḷng để lâu lâu lấy ra ngâm nga cho thống khoái cuộc đời.
Thơ Tuệ Sỹ mang cái âm hưởng buồn vời vợi, xa xăm, nhưng lại kỳ ảo lắm! Chúng nâng hồn ḿnh lên đến những tầng bậc cao thẳm mù khơi của trí tuệ, nơi đó ḿnh bỗng dưng một ḿnh chơi vơi ở ngoài cơi nhân gian nhớp nháp hệ lụy.
Thơ ông cũng có những bài thật ngắn. Có thể không gọi được là "bài" mà là những câu thơ tinh lọc thoạt biến hiện, rơi rớt trên những chặng đường xuôi ngược đó đây... Những khát vọng cao xa, những nỗi nhớ triền miên về cung đàn xưa cũ. Cung đàn nào đây mà chỉ nhớ một nửa? Đối với thế nhân th́ là cung đàn t́nh ái. Nhưng với đạo nhân như Tuệ Sỹ th́ có lẽ là cung đàn giải thoát, giác ngộ. Một nửa đă t́m thấy (kiến đạo) nhưng một nửa kia (tu đạo) th́ chưa tṛn? Chắc là vậy. Và nhớ là nhớ cái một nửa chưa lấy lại được. Thế mà ai lại đành đoạn đem cái quán trọ phù du tạm bợ mà ngăn đường cản lối cho vướng víu bước chân người đại trí đại hùng!
Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn
Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về?
Giọng như hờn trách nhẹ nhưng không phải trách cái quán trọ, không phải trách cái người đem quán trọ mà chận ngang đường đi! Trách đây là tự trách. Trách ḿnh sao lại cứ bịn rịn bủn rủn tay chân, nấn na nấn ná không biết từ chối cái ước muốn dừng chân nơi quán trọ để một mạch ra đi "vĩnh viễn con tàu." (*)
Chưa hết, ở hai câu sau này mới cực kỳ lạ lẫm!
Anh đem giấc mộng đi hoang
Biết đâu mà kiếm trăng ngàn cho em?
Ôi, lại tự trách nữa rồi! Anh đi hoang thế nào được! Rơ ràng ai cũng thấy là anh đi kiếm trăng ngàn cho em đó mà. Thế mà anh tự nói, tự thú là ḿnh đi hoang, đi hoang với một giấc mộng. Đi hoang với giấc mộng này th́ vô phương kiếm ra trăng ngàn cho người em đang đợi chờ cho nên mới tự trách? Mộng ǵ đây? Chẳng phải là mộng b́nh thường đâu. Mộng b́nh thường th́ không đáng để bỏ đi trăng ngàn. Mà đi hoang th́ không thể là mộng b́nh thường được.
Thực ra anh chỉ nói vậy thôi, chứ anh đă chủ định là không đi thẳng một mạch đến cung trời xa mà hái lấy con trăng cho người: chỉ muốn làm thân lữ thứ, ôm giấc mộng, đi hoang, khắp phương trời viễn mộng... Đâu đó trên bước đường phiêu lăng, lữ khách luôn thấy con trăng dơi theo bước chân phiêu bạt của ḿnh. Thế th́ cần ǵ phải kiếm trăng! Khi nói "biết đâu mà kiếm" ắt hẳn là anh nói với miệng cười tủm tỉm. Anh đă biết tỏng hết rồi! Giả bộ than thở, giả bộ chọc ghẹo cái người chờ đợi con trăng không bao giờ mất đấy thôi!
Ôi, thi nhân! Họ ăn nói lạ lẫm kỳ cục như thế! Nhưng đọc cái lạ lẫm kỳ cục của họ, ḿnh thấy sướng vô tận trong ḷng.
.............
Ngoài những điều xưng tụng về trí tuệ thâm viễn và kiến thức quảng bác của ông trong chốn thiền môn cũng như bên ngoài xă hội, thực sự cái điều khiến tôi "mê" Tuệ Sỹ nhất là tâm hồn nghệ sĩ của ông. Dù ông đang đạo mạo trang nghiêm nơi đạo tràng hay bục giảng, tôi vẫn cứ thấy được chất "thơ" toát ra từ con người ông như thường. Cơi thơ ông dị thường, sâu thẳm. Cơi ấy không có lối đi bằng chân. Chỉ có thể thả hồn ḿnh vào đó mà thôi.
(California, 2004)
_______________
(*) “Một lần đi là vĩnh viễn con tàu,” một câu thơ trong bài Cánh Chim Trời của Tuệ Sỹ.