ĐÊM TUỆ GIÁC VÔ CÙNG
Thích nữ Tịnh Quang
Đêm tối, trần gian le lói những v́ sao, những v́ sao sáng băng qua rồi vụt mất… vạn đại ngôi sao lấp lánh trên nền trời tinh hoa tư tưởng, khoa học… đă được thắp sáng và truyền thừa bất tận để đáp ứng nhu cầu căn bản cho nhân thế, trước hết là khỏe mạnh, no cơm ấm áo, các phương tiện thích thời, xa hơn là nhu cầu xử thế, và đặc biệt là khát vọng tri thức… hàng vạn vĩ nhân đă hút mất trong cơi thiên thu vô cùng nhưng sự cống hiến và âm hưởng của họ vẫn bất diệt đến bây giờ và ngh́n sau nữa. Trong tất cả các vĩ nhân mà nhân loại đă mang ân th́ Đức Phật Thích Ca là vị ân nhân lớn nhất của nhân loại. Hơn hai ngh́n năm trăm năm đă trôi qua, ân sủng tuệ giác và từ bi mà Đức Phật đă suốt đời phục vụ cho chúng sinh vẫn c̣n rực sáng và được truyền thừa đến hôm nay kể từ sau đêm thành đạo-chứng đạt tuệ giác vô thượng dưới cội cây Bồ đề bên ḍng sông Ni Liên Thiền, nước Ma kiệt Đà thuở ấy.
V́ ḷng từ bi vô lượng, thái tử Sĩ Đạt Ta đă từ bỏ danh vọng uy quyền, cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con thơ, một ḿnh vào rừng học đạo, sau sáu năm khổ hạnh rừng già và trải qua bốn mươi chín ngày đêm tham thiền nhập định, chịu đựng cái nóng bỏng hăi hùng của ngày hè và sương lạnh vô vàn khi đêm xuống… nhưng với ư chí đại hùng đại lực và t́nh yêu bất tận đối với chúng sinh ngài đă vượt qua tất cả, cuối cùng đêm thứ bốn chín lúc ánh sao mai vừa ló dạng ngài đă chứng nghiệm được chân lư tối hậu và trở thành một vị “thiên nhân sư”, vị Phật-người đă giác ngộ viên măn, bậc Thầy của Trời và Người.
Sự chứng ngộ của Đức Phật là sự chứng ngộ lư duyên sinh (thập nhị duyên sinh) của vạn hữu, khởi nguồn từ vô minh (sự hiểu biết sai về vạn hữu) đă khiến cho chúng sinh luân hồi đau khổ triền miên; giác ngộ được thực tại duyên sinh, ngài đă khám phá ra chân tính của sự vật, của vũ trụ và muôn sinh, tất cả đều ở trong thế sinh trụ dị diệt (sinh thành, tồn tại, biến hoại và tan mất), mọi vật được kết cấu từ nhiều yếu tố, không có cái ǵ bắt nguồn và sáng tạo từ một, tất cả là sự tương hợp và vô ngă. Với tuệ giác vô ngă, ngay lúc sao mai vừa hé của đêm thứ bốn mươi chín Đức Phật đă trực ngộ được chân tâm thanh tịnh sáng suốt và hằng hữu đă luân lưu trong ḍng chảy duyên sinh đó, ngài đă khám phá ra rằng trong ḍng duyên sinh huyễn hoặc, mọi vật đều b́nh đẳng trước vô thường-khổ và vô ngă, v́ không nhận thức được thực tại duyên sinh vô ngă, v́ vô minh cho nên chúng sinh bị luân hồi trong sáu nẻo khổ đau: Trời, người, A tu la, địa ngục, ngạ quỉ, và súc sinh.
Kể từ đêm thành đạo đó, ngài đă thành lập giáo đoàn và đi chu du khắp xứ Ấn Độ cùng các nước lân bang để rao giảng t́nh thương, với sức mạnh của tuệ giác và đức từ bi vô lượng, ngài đă giải phóng mọi tín điều và giai cấp mà truyền thống Ấn giáo đă cho rằng tất cả đều là sự sắp đặt của ư chí của Phạm thiên (Brahma) đă gây ra không biết bao nhiêu khổ đau hệ lụy cho con người. Trên căn bản Tứ diệu đế ngài đă xóa tan mọi ư thức hệ, ư chí nô lệ từ bên ngoài và củng cố lại tiềm năng tự chủ trong ḍng sinh diệt bất biến của con người. Giáo pháp tuệ giác trong đêm thành đạo đó cho đến nay vẫn luôn mới mẻ, và đă trở thành tiêu đề cho sự sáng tạo và những bước đột phá trong sự phát minh khoa học cũng như tạo cảm hứng cho các ḍng chảy của văn học, thi ca và nghệ thuật đạt đến sự viên măn dựa trên căn bản khai phóng ư thức.
Thừa hưởng trí tuệ và từ bi của Đức Phật, người Phật tử luôn luôn an tĩnh trước mọi sự biến động để cống hiến chất liệu trí tuệ từ sự thiền định, khám phá những định luật mới, cống hiến những nhu cầu căn bản để phục vụ sự sống, và biết cách kềm chế những dục vọng cá nhân, giải quyết những sự xung đột của bản thân và thế giới, và đem đến hoà b́nh thực sự cho thế giới xuyên qua việc nhận thức rằng mỗi việc đều phải do tự ḿnh quyết định. Trên căn bản từ bi, người Phật tử thừa hưởng đức từ bi của Đức Phật bằng những hành vi bất bạo động với những lợi ích thiết thực cho tự thân, gia đ́nh và xă hội, đặc biệt, đệ tử Phật không bao giờ được cầm gươm đao giết hại chúng sinh để ăn máu thịt, tất cả đều b́nh đẳng trước Phật tánh, mọi loài đều có quyền được sống như nhau, và địa cầu này không chỉ là dành riêng cho sự sống con người chúng ta nhưng cả muôn loài sinh vật đều cộng hưởng thái b́nh. Người Phật tử thực hành giáo lư giác ngộ của đức Phật đă tin tưởng vào ḷng từ bi vô hạn của ngài bằng hành động cơ bản bất sát để kiến tạo một thế giới dung thông đúng nghĩa của ḥa b́nh và t́nh yêu thực sự. Chính v́ thế hơn hai ngh́n năm trăm năm lịch sử, Phật giáo đă truyền bá từ Đông sang Tây một cách hài ḥa, không gây tổn thương đến một giọt máu của đồng loại và các chúng sinh khác.
Với tuệ giác vô cùng, sau đêm thành đạo đó muôn loài đều được thừa hưởng ân huệ của Đức Phật một cách b́nh đẳng. Ánh sáng giác ngộ và từ bi của ngài đă soi chiếu khắp nhân gian, các tù nhân của sự nô lệ ư thức được khai phóng, các loài thú rừng t́m đến ngài để mong cầu sự che chở và yêu thương thực sự… Một b́nh minh mới xuất hiện trên ư thức tồn sinh của nhân loại như vừng nhật treo cao sau những đêm dài u buồn và lạnh cóng. Ánh sáng ấy bắt nguồn từ căn bản của tuệ giác và từ bi, v́ có trí tuệ cho nên ranh giới sai biệt đă được tháo gỡ, con người mới tôn trọng nhau hơn, tất cả mọi giá trị về truyền thống, văn hóa và dân tộc để phục vụ cho quyền lợi nhân sinh được Phật tử tôn trọng một cách b́nh đẳng, như truyền thống Thần mặt trời sáng tạo vũ trụ, truyền thống Thiên đế cai quản nhân gian, truyền thống Thượng đế tạo ra mọi loài, truyền thống trăm trứng nở trăm con… tất cả đều là tinh hoa cao cả của nhân loại, không có sự cao thấp và hơn thua trong những bối cảnh khác biệt. Ư thức tự chủ sau đêm thành đạo đă xóa tan sự thống trị độc quyền và mở ra một chân trời mới cho nhân loại trên căn bản quyền lợi của con người, như quyền b́nh đẳng, quyền được nói, quyền làm người, quyền được sống, quyền được yêu thương... không ai có quyền ỷ mạnh hiếp yếu, vâng, trước phật tánh không những con người mà con vật vẫn cần phải có quyền (súc quyền), chúng nó vẫn có quyền để sống và quyền được yêu thương. Thừa hưởng sức mạnh từ tuệ giác vô thượng và ḷng từ bi vô lượng của đức Phật, mỗi ngày hàng triệu thú vật được giài thoát khỏi cảnh đầu rơi máu chảy kể từ đêm tuệ giác vô cùng.
Đêm thành đạo hàng Phật tử chúng ta trầm tư trong ân sủng của đức Phật, chúng ta nên ngồi xuống thiền tư, tịnh tu ba nghiệp, quán chiếu chân tâm thực tướng; không nên mua bán khoe trương, nhảy nhót, đàn ca để thỏa măn dục lạc. Thế giới đang nhiễu nhương, cảm niệm ân đức vô lượng của đức Phật chúng ta hăy thật trầm tĩnh lắng ḷng chiếu kiến những ǵ nên làm và những ǵ không nên v́ những nỗi đau khổ mà muôn loài đang gánh chịu: hằng triệu người đang đói khát cơ hàn, khổ đau dai dẳng của cuộc chiến tàn dư, quân nhân đang phơi thây trên chiến trường bom đạn, súc sinh đang bi chặt bị hầm… vô lượng đau thương thống thiết; Phật tử chúng ta không có ǵ để thỏa chí khi muôn loài vẫn c̣n rên xiết lầm than...!
Chúng ta cần phải làm ǵ để ánh sáng tuệ giác và từ bi của Đức Phật được trải dài trên nhân lộ, t́nh yêu thương bất diệt thực sự được thực thi trên hành tinh xanh tuyệt đẹp này?
Kỷ niệm Đêm thành đạo, chúng ta hăy thắp lên tuệ giác vô cùng và ḷng thương yêu vô tận của Đức Từ tôn bằng sự thực tập chánh niệm trong mỗi bước chân trong từng ư tưởng và trao truyền chất liệu trí tuệ và t́nh yêu thương của đức Phật cho những ai đang c̣n ngủ vùi trong quên lăng. Mọi loài đang chờ đợi ḷng từ bi của Phật tử chúng ta, những người con Phật đă và sẽ đem đến sáng của t́nh yêu chân thực cho muôn loại chúng sinh cùng quần cư trên quả địa cầu này.