TÂM THƯ GỬI TĂNG SINH HUẾ
Tuệ Sỹ
PL. 2547
Quảng hương Già lam
Ngày 28. 10. 2003Các con thương quư,
Trong những ngày gần đây, những biến động tuy làm sửng sốt thế giới nhưng hầu như chỉ làm gợn sóng một ít nơi đây để giữ yên cho giấc ngủ đông miên kéo dài qua hai thập kỷ của Phật giáo Việt nam.
Trong không khí được bao trùm bởi trạng thái ứ đọng của vũng nước ao tù, bị cắt đứt với mạch nguồn quá khứ, bị che chắn khuất tầm nh́n tương lai; trong không khí đó tâm tư ước nguyện của thế hệ non trẻ, của thế hệ tăng ni sinh mới lớn, như được bộc lộ trong những ngày vừa qua, từ B́nh định cho đến Thừa thiên - Huế, là dấu hiệu của nguồn mạch ngầm vẫn luân lưu bất tuyệt trong ḍng lịch sử truyền thừa của Phật giáo Việt nam. So với khối lượng tăng ni sinh trong cả nước, các con chỉ là một nhóm nhỏ. Ít, nhưng đây là những hạt lúa chắc. Nhiều, nhưng chỉ là vơ trấu, và là những hạt chưa được ủ mầm mà đă mục rỗng bên trong.
Các con hăy tự hào, với niềm tự hào trong trắng và vô tư của tuổi trẻ, từ thời điểm cột mốc này, đă một lần và măi măi đứng thẳng trên đôi chân của chính ḿnh, bằng đôi mắt trí tuệ và hùng lực mà nh́n thẳng không khiếp sợ vào quyền lực xấu ác của thế gian, tự xác định hướng đi cho bản thân để làm những việc cần làm cho chính ḿnh và cho mọi người.
Thế hệ của thầy, những thanh niên trang lứa được nuôi dưỡng để dựa vào chiến trường của cuộc chiến tranh ư thức hệ, được giáo dục để biết hận thù giai cấp. Nhưng may thay, gịng suối Từ vẫn âm thầm tuôn chảy, để xoa dịu những đau thương mất mát; để hàn gắn những đổ vỡ điêu tàn của dân tộc.
Các con lớn lên trong thời đại thanh b́nh, nhưng các con lại bị ném vào giữa một xă hội mất hướng. Quê hương và đạo pháp là những mỹ từ thân thương nhưng đă trở thành sáo rỗng. Các bậc cao tăng thạc đức, một thời đă đánh thức lương tâm nhân loại trước cuộc chiến hung tiền, đă giữ vững con thuyền đạo pháp trong ḷng dân tộc; nay chỉ c̣n lại bóng mờ, và quên lăng.
Thế hệ các con được giáo dục để quên đi quá khứ. Nhiều người trong các con không biết đến Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống nhất là ǵ; đă làm ǵ và cống hiến những ǵ cho sự nghiệp văn hóa, giáo dục, ḥa b́nh dân tộc, trong những giai đoạn hiểm nghèo của lịch sử dân tộc và đạo pháp của đất nước. Một quá khứ chỉ mới như ngày hôm qua mà di sản vẫn c̣n đó nhưng đă bị chối bỏ một cách vội vàng. Di sản được tích lũy ṛng ră hằng thế kỷ, bằng bao tâm tư qua bao khổ lụy đau thương, bằng máu và nước mắt của biết bao Tăng Ni, Phật tử; mà những người gầy dựng nên di sản đó bằng bi nguyện và hùng lực của ḿnh, có vị bị bức tử bởi bạo quyền, có vị suốt năm tháng dài chịu tù đày, bị lăng nhục. Nhưng sống hay chết, vinh hay nhục, không làm dao động tâm tư của những ai biết sống và chết xứng đáng với phẩm cách của con người, không hổ thẹn với thẩm hạnh cao quư của bậc xuất gia.
Người xuất gia, khi cất bước ra đi, là hướng đến phương trời cao rộng; tâm tính và h́nh hài không theo thế tục, không buông ḿnh ch́u theo mọi giá trị hư dối của thế gian, không cúi đầu khuất phục trước mọi cường quyền bạo lực. Một chút phù danh, một chút thế lợi, một chút an nhàn tự tại; đấy chỉ là những giá trị nhỏ bé, tầm thường và giả ngụy, mà ngay cả người đời nhiều kẻ c̣n vất bỏ không tiếc nuối để giữ tṛn danh tiết. Chớ khoa trương bảo vệ Chánh pháp, mà thực tế chỉ là ôm giữ chùa tháp làm chỗ ẩn núp cho Ma vương, là nơi tụ hội của cặn bă xă hội. Chớ hô hào truyền pháp giảng kinh, thực chất là mượn lời Phật để xu nịnh vua quan, cầu xin một chút ân huệ dư thừa của thế tục, mua danh bán chức. Xưa kia, khi vua chúa bắt sư tăng cúi đầu nhận tước lộc của triều đ́nh để làm tôi tớ cho vương hầu, chư Tổ đă sẵn sàng đặt đầu ḿnh trước gươm bén, giữ vững khí tiết của người xuất gia, bước theo dấu chân vô úy, vô cầu, của các bậc Thánh Đệ tử, được gói gọn trong thanh quy: Sa môn bất kính vương giả.
Nhẫn nhịn đời nhưng không để cho quyền lực đen tối của đời sai sử. Tùy thuận thế gian, nhưng không tự đánh ch́m trong ḍng xoáy ô trược của thế gian. Các con hăy tự rèn luyện cho ḿnh một tín tâm bất hoại; một đức tính dũng mănh vô úy; nỗ lực tự huân tập trí tuệ bằng văn, tư, tu để nh́n rơ sự tướng chân ngụy, để thấy và biết rơ ḿnh đang ở đâu, đang đi về đâu; không nhắm mắt phóng càn theo cỗ xe lộng lẫy bên ngoài nhưng rệu ră bên trong, đang lao xuống dốc dài không định hướng.
Mỗi thế hệ có vấn đề riêng của nó, do những biến thiên của xă hội chung quanh, do những biến cố dao động mang tính thời đại. Thế hệ của thầy thừa hưởng được nhiều từ Thầy Tổ, nhưng chưa hề báo đáp ân đức giáo dưỡng cao dày trong muôn một. Chỉ mới tṛn ba mươi tuổi, đă phải khép lại cổng chùa, xách cuốc lên rừng, xuống biển, cũng mưu sinh lao nhọc như mọi người. Rồi lại vào tù, ra khám, lênh đênh theo vận nước thăng trầm. Sở học và sở tri cũng cùn ṃn theo tuổi đời, năm tháng. Duy, chưa có điều ǵ thất tiết để điếm nhục tông môn, uổng công Sư trưởng tài bồi. Một chút niềm tin chưa hề thoái thất, chỉ mong cùng chia xẻ với thế hệ kế thừa. Một thế hệ đang trưởng thành để khởi tô ngọn đèn Chánh pháp giữa một đất nước thấm nhuần phong hóa.
Cầu mong các con có đủ dũng mănh để đi bằng đôi chân của ḿnh, nh́n bằng đôi mắt của ḿnh; tự xác định hướng đi cho chính ḿnh. Thầy sẽ là người bạn đồng hành với các con trên đoạn đường bóng xế của đời ḿnh.
Thầy,
(ấn kư)
Tuệ Sỹ