ĐỨNG TRÊN TẤT CẢ
Vĩnh Hảo
(Trích từ tác phẩm "Con Đường Ngược Ḍng" của Vĩnh Hảo - xuất bản 1998)
Trong cuốn Tăng Già Việt Nam (1) của Ḥa Thượng Thích Trí Quang, có một câu rất hay, rất cảm động mà mỗi khi lẩm nhẩm đọc đến th́ người đọc cảm thấy ḷng hưng phấn, chí nguyện được cất cao lên, không c̣n khiếp sợ hay nhàm chán phải đối diện với đời sống vô thường hệ lụy:
“Đứng trên tất cả để sống v́ tất cả.” (2)
Câu ấy được viết ra để nhắc nhở, khích lệ những người xuất gia theo Phật—những người đă từ bỏ mọi thứ cặn bă vinh hoa, danh vọng, quyền lợi, sắc dục, tiền tài... nói chung là tất cả mọi thứ trói buộc tầm thường của cuộc đời.
Nhắc nhở ǵ? — Nhắc nhở rằng trách nhiệm cao cả và duy nhất của người xuất gia là tự giác ngộ lấy ḿnh để có thể đem lại trí tuệ giác ngộ cho kẻ khác, tự giải thoát lấy ḿnh để có thể cứu thoát kẻ khác.
Khích lệ ǵ? — Khích lệ rằng lư tưởng xuất trần là con đường cao đẹp và đúng đắn mà chỉ có những kẻ có t́nh thương yêu rộng lớn, tuệ căn sâu thẳm và ư chí quyết liệt dũng mănh mới chọn lựa và dấn ḿnh vào.
Nhưng khi người xuất gia chọn lựa “đứng trên tất cả,” điều đó chẳng có nghĩa là chọn một thứ vị trí không gian hay một thứ giai tầng xă hội nào ở chóp đỉnh của những nấc thang giá trị cuộc đời, mà chính là đứng ra ngoài, hay đúng hơn, vượt ra khỏi, vượt lên trên, tất cả những thế đứng, chỗ ngồi, quyền hạn, lợi dưỡng, sắc dục, danh vị, phẩm trật, chức tước, cấp bằng... nói chung là tất cả những ǵ mà người thế tục b́nh phàm cho là quí giá và lăng xăng chạy đuổi theo bằng cả cuộc đời của họ.
CON ĐƯỜNG NGƯỢC D̉NG
Đó là nh́n một cách lạc quan theo danh nghĩa lư tưởng. C̣n trên thực tế sinh hoạt, nhất là sinh hoạt của thời đại ngày nay—cái thời đại mà kinh Phật đă thấy trước và đă đặt tên trước là thời kỳ mạt pháp—th́ cả ḷng người lẫn hoàn cảnh xă hội hầu như đều toa rập, đồng lơa với nhau để đẩy xô những người xuất gia vào một nếp sống mới với những lề lối suy tư, quan niệm, lời nói và hành xử, đi ngược lại với chí nguyện xuất trần ban đầu, để rồi chúng ta đau ḷng mục kích bao nhiêu là điều “nghịch thường” trong chốn thiền môn, cả trong nước lẫn hải ngoại.
Cái lẽ nghịch thường ấy, nh́n theo con mắt thế tục, th́ chẳng có ǵ gọi là sai trái, lạ lùng cả và tất nhiên là người thế tục sẽ cho đó là điều b́nh thường; nhưng áp dụng nó vào nẻo đạo th́ cái nghịch thường này thực khó mà chấp nhận. Ḥn sỏi ném xuống nước th́ ch́m đến tận đáy, đó chuyện b́nh thường; nhưng bong bóng bay mà cũng lặn xuống đáy nước th́ không phải là b́nh thường nữa. Cả người bán lẫn người mua bong bóng bay đều mong đợi sự bay lên của những chiếc bong bóng. Giá trị của chiếc bong bóng bay là ở chỗ bay lên ấy. Khi bong bóng x́u không bay nổi, chúng mất giá trị, chúng không b́nh thường, không c̣n lư do nào để tồn tại.
Con đường xuất gia là con đường ngược ḍng. Giới nhà thiền gọi là nghịch lưu. Trong khi tất cả những người thế tục và cả những người cư sĩ tại gia có hiểu và tu tập theo giáo lư Phật, đều chạy xuôi theo ḍng tục lụy, th́ chỉ có họ, những người xuất gia, là bơi ngược ḍng để t́m về nguồn cội vô tận thênh thang.
Chọn lựa sự ngược ḍng là chọn lựa đứng trên tất cả, vượt lên tất cả những cặn bă phù phiếm của ḍng đời. Thế th́, tại sao một người xuất gia phải cúi đầu bằng ḷng, hănh diện, vui vẻ, ngưỡng mộ, khiếp phục, tận lực gia công, bỏ hết th́ giờ, cặm cụi cắm cúi, hăm hở chạy theo... những cái gọi là sự thành công của đời sống thế tục? Tại sao bong bóng càng lúc càng x́u đi một cách thảm hại để rồi cứ la đà trên mặt đất? Tại sao con thuyền ngược ḍng lại quay mũi mà xuôi theo sóng nước? hay là nó vẫn hướng mũi về phía đầu nguồn nhưng lại đi tới về phía cuối nguồn bằng cái đuôi thuyền?
Khi người xuất gia chằm hăm bỏ hết th́ giờ của ḿnh để được thành công với đời—bằng bất cứ phương cách nào—th́ người ấy đă thất bại thấy rơ trên đường đạo. Thất bại là v́ đă chọn đứng giữa và đứng trong tất cả, thay v́ đứng trên tất cả.
PHƯƠNG TIỆN THIỆN XẢO
Người ta có nhiều lư do để biện minh cho thái độ chọn lựa này. Chẳng hạn, v́ hoàn cảnh xă hội, v́ thời cuộc, v́ nhân tâm thời nay đ̣i hỏi người xuất gia phải như vậy. Hoặc nói theo ngôn ngữ nhà thiền th́, “phải biết dùng phương tiện thiện xảo để độ sanh.” Vâng, phương tiện thiện xảo (3). Bốn chữ ấy đối với những bậc thực sự giải thoát giác ngộ (hoặc thực sự qui hướng bản tâm vào lư tưởng xuất trần độ sanh) th́ là cái ǵ linh diệu, đẹp đẽ, như những cánh tay đầy diệu dụng (mười tám tay của Bồ Tát Chuẩn Đề, ngàn tay của Bồ Tát Quán Thế Âm...) như những ch́a khóa vàng mở vào kho vô tận... nhưng đối với kẻ tuy mang h́nh thức xuất gia mà tâm hăy c̣n bươn chải lặn hụp theo ḍng thế tục th́ đó chỉ là thứ rào chắn bảo vệ và che đậy, biện minh và khỏa lấp tất cả sự hèn kém tầm thường của chiếc bong bóng x́ hơi mà thôi.
Chúng ta có nên đổ lỗi cho thời kỳ mạt pháp đă khiến một số người xuất gia không c̣n ôm giữ chí nguyện xuất trần? Chúng ta có nên biện minh rằng tất cả những ǵ người xuất gia làm hôm nay đều là mở rộng cánh cửa phương tiện thiện xảo?
Thực ra, khi một người phát khởi tâm bồ đề (giác ngộ), luôn hướng vọng đến đạo quả giải thoát và chí nguyện độ sanh, th́ không có vấn đề chánh pháp, tượng pháp hay mạt pháp nữa. Bỏ đi, hoặc lơ là với chí nguyện xuất trần, là tự ḿnh lăn vào thời kỳ mạt pháp; không những sống trong thời kỳ mạt pháp mà c̣n sống trong tất cả những hoàn cảnh mạt pháp.
C̣n nói rằng v́ phương tiện độ sanh mà làm các việc thế tục th́ điều này chẳng lạ ǵ với tư tưởng dấn thân hành đạo của truyền thống Đại thừa. Nhưng nếu tâm bồ đề không phát khởi, không giữ ǵn, không phát triển, không đẩy đến mức toàn vẹn, th́ tất cả những phương tiện dù có mang lại một kết quả tốt đẹp nào đó đối với đời th́ cũng đều là sự manh động của tự ngă (4), không dính nhập ǵ đến đạo quả giải thoát giác ngộ và hạnh nguyện lợi sanh cả. Và những thứ phương tiện được thực hiện theo cách đó không thể nào gọi là phương tiện thiện xảo. Chúng chỉ là phương tiện theo ư nghĩa thông tục nhất của thế gian mà thôi. Mà phương tiện theo cách ấy th́ ai lại chẳng làm được! Tất cả những con người gian ác, bạo tàn, quỉ quyệt, hám lợi hám danh, tham quyền cố vị, vị kỷ, hèn mọn, đê tiện, thấp kém, ngu dốt và cả những người trí thức... đều học tập, thực hành và phát triển phương tiện riêng của họ. Nhưng không có thứ phương tiện nào trong số đó được gọi là phương tiện thiện xảo, bởi v́ chúng được thiết lập không phải để nhắm vào mục đích giải thoát giác ngộ.
Tóm lại là không có lư do nào để có thể đổ lỗi cho thời kỳ mạt pháp hay biện bạch cho sự phóng tâm chạy xuôi theo ḍng đời. Hễ mục đích sai lầm th́ tất cả phương tiện đều sai lầm. Suy ra, khi người ta làm những phương tiện sai lầm th́ ắt phải biết là mục đích của họ đă sai lầm.
Nhưng phương tiện nào là phương tiện sai lầm? Nói vậy e có phải là vội vàng, bao đồng lắm không? Chứ không phải người ta thường nói rằng: Nghề nào cũng tốt! Miễn là “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh” (5) và miễn sao nghề xấu mà ḷng tốt th́ được rồi. Vâng, quan niệm ấy có thể áp dụng được ở thế tục hoặc một khía cạnh nào đó trong đạo. Nhưng cũng tương đối thôi. V́ nó chỉ có tính cách luân lư, an ủi những thành phần bất tài, thấp kém không t́m được những nghề nghiệp vững chắc và danh giá trong xă hội, cũng như để khích lệ những người lăng xăng dao động nên chú tâm vào một việc. C̣n trên thực tế xă hội th́ không ai khuyến khích nghề trộm cướp, nghề đồ tể, nghề ăn mày ăn xin... (bất kể ḷng dạ tốt hay xấu) mà chỉ khuyến khích các nghề bác sĩ, kỹ sư, thương gia... (cũng bất kể ḷng dạ tốt xấu). Chính v́ vậy, chắc chắn là có những phương tiện sai lầm trong xă hội đầy dẫy những con người với ḷng dạ bất thiện. Chính v́ bất thiện ở tự tâm, họ không bao giờ có một thứ mục đích nào gọi là cao đẹp hay có lợi ích cho kẻ khác. Nhưng họ lại là những người luôn lấy phương châm cứu cánh biện minh cho phương tiện để tô vẽ cho những hành động vị kỷ của ḿnh.
Xét về mặt nhân quả th́ phương tiện và cứu cánh phải tương ứng thích hợp với nhau. Phương tiện xấu th́ đưa đến cứu cánh xấu; ngược lại, cứu cánh xấu cũng mở đường cho những phương tiện xấu. Không có thứ phương tiện tồi tệ của một kẻ tồi tệ nào lại đưa đến một cứu cánh hoàn hảo. Nói như Krishnamurti—một vị đạo sư giác ngộ vĩ đại nhất của thế kỷ 20 mà chưa bao giờ tự nhận ḿnh là đạo sư—th́ “Tự do đầu tiên và cuối cùng” (6). Có thể tạm hiểu ư chính của tựa đề này (và cũng là nội dung của toàn bộ cuốn sách) rằng, cái nhân tự do giải thoát mới đưa đến cái quả tự do giải thoát. Đầu tiên là nhân, Cuối cùng là quả. Khi thiết lập một thứ phương tiện mà thiếu tính cách tự do, th́ sẽ chẳng bao giờ có được cái cứu cánh tự do cả. Cũng vậy, các phương tiện xuôi ḍng của thế tục không thể nào dẫn đến cứu cánh giải thoát giác ngộ.
BỒ TÁT HÓA THÂN
Đó là xét về mặt nhân quả thông thường của thế tục. C̣n xét về mặt đạo, có người sẽ nói rằng kẻ phàm tâm khó mà hiểu được hành động của bồ tát dấn thân độ đời, v́ những vị này đă hoàn toàn giác ngộ, nên hành vi, lời nói và ư nghĩ của họ không c̣n rơi vào ṿng ảnh hưởng của nhân quả. Lư này không sai, nhưng làm sao giải thích được với những người không tin nhân quả hoặc những người tin sâu vào nhân quả và không chấp nhận một sự ngoại lệ nào cho những tác nghiệp xảy ra trên cuộc đời? Chúng ta có thể bàn sâu hơn một chút về các vị bồ tát dấn thân độ đời nói trên.
Trong truyện sử Phật giáo, đôi khi có vài câu chuyện về những vị bồ tát hiện thân làm người phàm, thực hiện tất cả những công việc của người đời nhằm mục đích cứu nhân độ thế. Những vị bồ tát hóa thân này thường mang thân tướng tầm thường, làm những việc tầm thường, khiến người đời không biết, dùng lời lẽ nguyền rủa hoặc có tâm ư khinh chê, liền bị đọa địa ngục... Những câu chuyện loại ấy khiến cho những Phật tử sơ căn dè dặt ư nghĩ, lời nói và hành động của ḿnh hơn, không dám vội vàng đánh giá kẻ khác, vô t́nh thực hiện hạnh tốt là “Không nên nh́n ngó lỗi người, chỉ nên tự xét lỗi ḿnh” (Kinh Pháp Cú—Dhammapada); nhưng cũng là cái phao cho những kẻ phàm phu tục tử vin vào đó để làm việc xằng bậy rồi cứ khăng khăng ngụy biện rằng ḿnh làm việc này, việc kia, đều chỉ là phương tiện thiện xảo... hoặc đem địa ngục ra để hăm dọa kẻ khác, bịt miệng kẻ khác.
Thực ra, theo thiển ư riêng của tôi, một vị bồ tát hóa thân mà ưa làm những chuyện cho người đời chửi rủa để rồi người chửi rủa mắc tội đọa địa ngục, th́ vị bồ tát ấy sử dụng phương tiện độ sanh chưa được thiện xảo (khéo léo) ǵ lắm. Bồ tát hóa thân làm người phàm để gần gũi người đời mà cứu độ họ thoát khổ chứ đâu phải để “nhử” cho họ chửi ḿnh rồi bị đọa vào cảnh khổ!
Một điều đáng lưu ư nữa là cho dù hóa thân bằng cách nào, h́nh thức nào, vị bồ tát đó cũng không thể che giấu được sự “bất phàm” của ḿnh. Đă là bồ tát, đă là thánh nhân đắc đạo, th́ có hóa thân làm ǵ đi nữa, vẫn tỏa ra cái cốt cách phong độ và sở chứng của ḿnh. Đó là điểm mà một phàm nhân không thể nào bắt chước, và đó cũng là điểm mà người ta có thể dựa vào để nhận biết được một vị bồ tát hóa thân.
Đừng bao giờ khư khư khẳng định rằng không thể nào nhận biết được các vị bồ tát hóa thân. Bởi v́ sự khẳng định này sẽ khiến chúng ta có thói quen là không sử dụng trạch pháp (7) (phân biệt và chọn lựa phương pháp chân chính, thích hợp) và v́ vậy sẽ không bao giờ phân định được đâu là bậc tu hành chân chánh để nương theo, đâu là kẻ thực hành tà đạo để xa lánh.
Thực ra, chánh nhân và tà nhân, chánh đạo và tà đạo, rất dễ nhận biết, và rất cần thiết phải nhận biết. Tại sao không?! Tại sao thời xưa bên Trung Hoa người ta nhận biết Bố Đại Ḥa Thượng và Phật sống chùa Kim Sơn? Không phải chỉ v́ họ có pháp thuật hoặc cứu độ được nhiều người, mà chính v́ cái vẻ tự tại vô ngại, không chấp trước nhân-ngă, bỉ-thử, không cầu danh hám lợi, không kể lể công đức, không ham thích tạo ra ḍng phái tông môn để làm tông chủ giáo chủ, không cố t́nh để lại vết tích hành trạng của tự ngă. Họ làm tất cả mọi việc đều v́ mục đích lợi sanh chứ không v́ sự vinh quang của gịng phái, tổ tông, hay v́ bất cứ thứ phần thưởng vật chất và tinh thần nào của cuộc đời... Họ đến rồi đi như bóng nhạn lướt trên mặt nước, như mây trắng trôi qua trời, nhưng lợi ích cho đời th́ không đếm kể được. Những người không biết, chửi rủa họ, họ hoan hỉ đùa cợt rồi t́m cách cứu độ hết, không để cho ai phải v́ khinh chê ḿnh mà đọa địa ngục. Không chấp có ngă có nhân nên không đem ḷng hận thù oán ghét ai. Chính cái tâm vô ngă và đại bi của họ khiến cho những lời nguyền rủa của phàm nhân tan ra mây khói, không kết thành ác nghiệp.
Cho nên, chúng ta có thể nhận biết được các vị bồ tát hóa thân và những vị tu hành chân chánh—những vị thực sự đứng trên tất cả để sống v́ tất cả.
KÍNH TÍN VÀ PHÂN BIỆT
Nhận biết được tức là thực hành trạch pháp và cũng hàm nghĩa rằng có một thứ ch́a khóa hay một mấu chốt nào đó để t́m ra, để nhận dạng những vị thánh tăng (và dĩ nhiên là đă vô t́nh so sánh với phàm tăng). Điểm này xem ra có vẻ là điều cấm kỵ trong giới tu tập Phật giáo. Nó cho người ta cái cảm giác như là ḿnh vô lễ vô phép, mất niềm tin đối với Tam Bảo.
Thực ra, t́m thầy học đạo không nhất thiết phải t́m cho ra một vị thánh tăng, mà chỉ cần t́m cho được một vị chân tăng. Vị chân tăng này có thể là thánh hay phàm (8), nhưng họ có một điểm chung là hướng vọng đến đạo quả bồ đề; mà hướng vọng đến đạo quả bồ đề th́ chắc chắn là phải thực hiện hạnh vô ngă trong từng ư nghĩ, lời nói, và hành động thường nhật của họ.
Thông thường, với ḷng kính tín sâu xa vào Tam Bảo qua h́nh ảnh sáng ngời của đức Phật, qua sự vi diệu của giáo Pháp, và qua những tấm gương cao đẹp của nhiều thế hệ chân Tăng, người ta có thói quen là không dám đánh giá, lượng định, so sánh... phẩm giá và hành trạng của những người xuất gia hiện tại, cứ một mực cho rằng, “vị nào cũng tốt,” hoặc “dù họ không được hoàn hảo lắm th́ cũng hơn ḿnh,” hoặc “biết đâu họ là bồ tát hóa thân...” Thái độ kính tín sâu xa ấy rất cần thiết cho người sơ cơ học đạo và cũng rất cần thiết cho những người đang thực hành bồ tát đạo, học theo hạnh của Bồ tát Thường Bất Khinh (9), luôn luôn quí trọng tôn sùng kẻ khác v́ tin tưởng Phật tính sẵn có nơi họ. Nhưng trong trường hợp một người tầm sư học đạo, tha thiết t́m cầu đạo lư giác ngộ để vĩnh viễn giải thoát, th́ vấn đề phân biệt chân sư - tà sư, tất phải đặt ra. Cố nhiên là phải như vậy. Bởi v́ không phân biệt được sự sai khác giữa chân và tà sư th́ có thể xảy ra trường hợp suốt đời tu hành lao nhọc mà chẳng có kết quả ǵ đáng kể, hoặc đi theo tà ma ngoại đạo từ lâu mà chẳng hay.
CHÂN SƯ VÀ TÀ SƯ
Chân sư và tà sư khác nhau chỗ nào?
Đối với tu sĩ của một số tôn giáo tôn thờ thần quyền, sự đánh giá chân-ngụy, chánh-tà khá dễ dàng qua mặt đạo đức, tác phong của chính các vị tu sĩ ấy. Mà phẩm cách đạo đức, tác phong của tu sĩ các tôn giáo này thường khi chỉ đặt nền tảng trên sự cần mẫn tận tụy hiến dâng, phụng sự thần linh, thực hành các giáo điều, tín điều đă được thần linh ban hành hay trích dẫn từ kinh sách được tin là được viết ra do sự mặc khải của thần linh. Tu sĩ nào thực hành nghiêm chỉnh các tín-giáo điều th́ được coi là có đạo đức; và ngược lại th́ vô đạo đức; hoặc thiếu đạo đức mà làm bộ như ta đây đạo đức th́ bị gọi là đạo đức giả. Đối với tu sĩ các tôn giáo ấy, tu tập chỉ có nghĩa là như vậy: tuân thủ các giới điều và tín điều. Hoặc nói nôm na tóm gọn là chỉ cần giữ ḿnh làm người đạo đức, mô phạm.
Trong khi đó, thực hành giáo lư đạo Phật, tu sĩ Phật giáo không phải chỉ là những người trau luyện đạo đức hay một thứ tư cách cao quí đức hạnh làm người nào đó mà xă hội mong đợi. Con đường chính yếu của họ là thực hành các phương pháp tinh diệu nhằm phá vỡ biên giới của tự ngă để thể nhập vào bản thể vô tận sẵn có trong mỗi người, mỗi loài. Để thành tựu trọn vẹn mục tiêu này, hành giả phải trải qua một tiến tŕnh, hoặc nhanh hoặc chậm, gồm 53 giai đoạn từ sơ cơ đến thượng trí (10). Những giai đoạn tu chứng này vượt ra khỏi thứ đạo đức làm người của thế gian, bước vào thánh hạnh cao quư của hàng Bồ tát, Phật. Và chính v́ có khá nhiều giai đoạn và thứ bậc như thế, việc nhận dạng các vị chân tu đắc đạo đang ở giai đoạn nào không phải là đơn giản, trừ phi chúng ta đắc đạo như Phật.
Tuy nhiên, như đă nói ở trước, để tầm sư học đạo, chúng ta cần thiết phải biết nhận dạng một vị chân sư để theo học, như cách người xưa thường nói “chọn mặt gởi vàng.” Điều này nói ra có vẻ như một điều mai mỉa bất kính làm đụng chạm một số đạo sư nào đó. Nhưng nếu thực sự có một sự đụng chạm, hóa ra vị đạo sư ấy dễ bị dao động đến thế sao? hóa ra vị đạo sư ấy hăy c̣n một cái ngă to lớn cứng rắn nào đó để cho sự lượng giá của học tṛ đụng chạm đến sao? và nếu cứ tránh né đụng chạm những đạo sư, hóa ra lại đẩy những thiệt tḥi về phía những người học tṛ đang khao khát t́m cầu chân lư?
Người học tṛ thượng căn như Thái tử Tất Đạt Đa năm xưa có thể rời bỏ các sư phụ để tự ḿnh t́m kiếm chân lư, c̣n những học tṛ căn trí thô thiển cạn cợt như chúng ta ngày nay th́ sao? Nếu chọn lầm sư phụ th́ chẳng phải là cái tiền đồ tu tập của chúng ta sẽ mở vào một cơi u u minh minh hay sao?
Cho nên, rất cần thiết phải biết chọn thầy bằng cách nhận dạng dấu hiệu thực nghiệm toát ra từ nếp sinh hoạt của họ. Sự nhận dạng này không có nghĩa là phải nh́n thấu từng quả vị tu chứng của họ hoặc đ̣i hỏi họ phải chứng minh sở đắc. Chúng ta có một ch́a khóa nhỏ để mở ra cái kho vô tận xứng đáng cho ḿnh qui phục, nương tựa. Và ch́a khóa đó chính là điểm chung mà hầu như các vị chân tăng đều có: tính cách vô ngă thể hiện trong nếp sinh hoạt hàng ngày.
Chân sư và tà sư theo quan niệm Phật giáo khác nhau ở chỗ đó. Họ có thể sử dụng những phương tiện giống nhau: tụng kinh, tọa thiền, giảng dạy Phật Pháp, làm việc văn hóa, làm việc xă hội từ thiện... Nhưng mục đích hành đạo của họ th́ khác nhau: một bên th́ có khuynh hướng dẹp trừ bản ngă để thể nhập vào thể tánh vắng lặng vô biên; một bên th́ nuôi lớn bản ngă, đắp cao thành tŕ của ái dục và lợi danh tầm thường.
Cần nhấn mạnh một lần nữa nơi đây rằng, chúng ta chỉ chú trọng đến chân và tà. Mà trong chân có thể vừa có thánh vừa có phàm, trong khi trong tà—dù có là một đạo sư nổi tiếng cách mấy đi nữa—chỉ hoàn toàn là phàm. Như vậy, nếu chúng ta thực sự muốn t́m cầu một bậc thầy có khả năng hướng dẫn ta tiến đến giải thoát giác ngộ, nên lấy chân, bỏ tà.
(Cũng nên mở ngoặc thêm ở đây rằng: trong giới tu học Phật giáo, không phải ai cũng có khát vọng t́m cầu chân lư hoặc hoài băo giải thoát giác ngộ. Không những trong giới tại gia cư sĩ mà ngay cả một số tu sĩ Phật giáo thời nay cũng vậy: có khi chỉ thực hành giáo lư Phật như cách các tu sĩ tôn giáo khác trau luyện đạo đức làm người và giữ ǵn các tín điều. Điều này xét về mặt nhân sinh quan, cũng là điều hữu dụng, v́ có khả năng ổn định xă hội, lành mạnh hóa đời sống gia đ́nh, đem lại chút hạnh phúc nhẹ nhàng nào đó cho mỗi cá nhân. Nhưng, mục tiêu tối hậu của giáo lư Phật th́ không dừng đứng ở chỗ đó. Đức Phật đă từng nói: “Nếu nước đại dương chỉ có một vị mặn th́ đạo lư của ta chỉ có một vị duy nhất là giải thoát.” Hành giả tu tập có thể giữ ǵn giới luật để được giải thoát từng phần [biệt giải thoát] tùy theo giới cấm ḿnh tiếp thọ; nhưng mục tiêu tối hậu vẫn là giải thoát hoàn toàn tất cả mọi phiền năo trói buộc của tự tâm. Mà để có được điều này, phải dẹp trừ cả ngă chấp và pháp chấp. Tóm lại, tu tập theo chân tinh thần Phật giáo là nhảy vào ṿm trời tự tại vô ngại của tánh Không để được thành Phật như đức Phật, chứ không phải chỉ học làm người, học làm vua, làm tôi, làm chồng, làm vợ, làm cha, làm mẹ, làm con, làm thầy giáo, làm học tṛ, làm người truyền đạo, làm nhà trí thức, làm người có bằng cấp thế gian, làm người có tiếng tăm danh vọng, làm công dân đạo đức đàng hoàng trong xă hội... mà bất cứ tôn giáo nào cũng có thể hướng dẫn được. Nêu ra điều trên là để thưa trước rằng những ǵ sắp nói ở sau, chỉ dành cho những người muốn tu tập theo đạo lư giải thoát giác ngộ và thực sự muốn t́m một bậc chân sư có khả năng hướng dẫn ḿnh thực hiện chí nguyện đó.)
Chân sư Phật giáo tạm thời phân chia thành hai bậc: thánh tăng và phàm tăng.
Các chân thánh tăng th́ miễn bàn, v́ chắc chắn họ là những bậc chân sư đáng qui phục, ai có phước duyên th́ được tu tập dưới sự hướng dẫn của họ. Giả như không gặp thánh tăng, chúng ta hăy c̣n may mắn là có những chân phàm tăng để bái làm thầy. Những vị này tuy chưa chứng thánh nhưng luôn có khuynh hướng truy cầu giải thoát giác ngộ, biết được con đường chân chính để đi và hướng dẫn môn đệ cùng đi, nỗ lực tu tập những phương thức dẹp trừ bản ngă và khát dục. Cả hai bậc chân sư trên đều rất xứng đáng cho chúng ta đảnh lễ qui y.
Nhưng ở trên, vẫn chỉ là nói một cách khái quát. Chúng ta cần đi vào chi tiết: làm thế nào để nhận ra một vị chân sư? Câu hỏi này đưa chúng ta quay trở lại với tiền đề nêu ở trước: tính cách vô ngă thể hiện trong nếp sinh hoạt hàng ngày của các vị chân sư.
VÔ NGĂ TRONG NẾP SINH HOẠT
Theo quan niệm Phật giáo, sở dĩ chúng sinh trôi lăn trong biển khổ luân hồi là v́ đă tự cho rằng ḿnh thực sự có một thứ cá ngă độc lập. Một vài tôn giáo tôn thờ thần quyền cũng đă xác nhận có một thứ bản ngă qua sự tồn tại bất diệt của linh hồn; trong khi có tôn giáo chủ trương hy sinh bản ngă bằng cách dâng hiến trọn vẹn thể xác và linh hồn cho thần linh để được đền bù tưởng thưởng xứng đáng sau khi chết. Công nhận hay chối từ bản ngă theo các lối trên, đều chứng minh có một cái ngă có thực tướng hay có thực tánh, thực sự tách rời với vũ trụ và vạn hữu chung quanh. Và đây chính là cái mầm của phiền năo, trói buộc.
Tu tập theo Phật giáo là tiến tŕnh của sự lột bỏ (nhanh hay chậm, hoàn toàn hay từng phần) sự vận hành và tồn tục của cái ngă đó. Tất cả các pháp môn tu tập từ cao đến thấp của Phật giáo đều qui hướng về tự tánh Không, tức là phá bỏ mọi kiến chấp về ngă (cái ta), ngă sở (cái thuộc về ta), pháp (một cái ǵ ở ngoài ta mà ta đang hướng đến hay chối bỏ, nghĩ rằng ta đạt được nó hoặc ta đang vượt qua nó...). Trở về với tánh Không th́ xóa sạch vết tích của ngă và pháp—đó là con đường nhanh của bậc thượng căn thượng trí. Xóa sạch vết tích của ngă và pháp th́ trở về với tánh Không—đây là con đường chậm của hàng trung căn hạ căn. Nhưng dù là thượng căn hay hạ trí, dù phương pháp tu tập có khác nhau, họ vẫn có điểm chung là phá trừ kiến chấp về ngă.
Như vậy, chúng ta có thể chọn lựa bất cứ vị sư phụ tầm thường (không chân chính) nào trên cuộc đời để hướng dẫn chúng ta nếu chúng ta không cần giải thoát giác ngộ mà chỉ cần chạy rông để t́m danh lợi trong số đông hoặc một thứ giá trị đạo đức thông thường của thế gian; c̣n nếu thực sự muốn tu tập để thoát ly sinh tử, chúng ta phải sáng suốt t́m đến một vị chân tăng chứ không cần uổng phí th́ giờ và công phu tu tập của ḿnh theo chân những vị thầy mà nếp sinh hoạt hàng ngày của họ biểu lộ rơ ràng khuynh hướng bảo vệ và nuôi lớn tự ngă như các trường hợp điển h́nh sau:
— khi một vị thầy tự xưng ḿnh là bậc thầy vĩ đại hoặc là bậc thầy cao tột không ai bằng (đại sư, vô thượng sư), hoặc vui thích đắm ḿnh trong những danh xưng, tước hiệu, phẩm hàm tôn quí do kẻ khác ban tặng... vị thầy ấy đang ở trong cơn mê của ḷng vị ngă, ái ngă, và đang ôm theo ḿnh niềm tăng thượng mạn, tích cực nối đuôi ma vương để trèo lên đỉnh thang hào nhoáng không thực của danh vọng và quyền lợi thế gian;
— khi một vị thầy nói với bạn rằng chỉ có phương pháp của ông (hay bà) là cao tột, vượt hẳn các phương pháp của các bậc thầy khác, th́ vị thầy này đang sống trong niềm tự hănh của một bản ngă c̣n đầy căn khí kiêu kỳ, ngạo mạn;
— khi một vị thầy phê phán và chỉ trích cá nhân những bậc thầy khác, nêu những lỗi xấu của những bậc thầy khác để làm nổi bật phong cách của ḿnh, th́ vị thầy này đang biểu lộ phần nào tâm lượng tị hiềm nhỏ mọn của ḿnh;
— khi một vị thầy, dù không lên tiếng chỉ trích kẻ khác, cũng không tự mở lời khoa trương về phẩm cách của ḿnh, nhưng hài ḷng với sự tâng bốc ca tụng của môn đệ và trong ḷng tự nghĩ ḿnh cao quí, lẳng lặng cười mỉa mai kẻ khác, không chịu lắng nghe quan điểm của kẻ khác để tự sửa ḿnh mà một mực cho rằng kẻ khác chỉ trích hay phê phán ḿnh là v́ họ thua sút và ganh tị ḿnh, th́ vị thầy này cũng đang tự bồi đắp tường thành ngă chấp ngay ở nền tảng thâm sâu của nó;
— khi một vị thầy thường tỏ vẻ bất b́nh, bẳn gắt, cau có, lúc nào cũng muốn mọi người phải thuận theo ư ḿnh chứ không chấp nhận luận điểm trái ngược, chỉ đ̣i hỏi sự tuân phục tuyệt đối từ kẻ khác, th́ vị thầy ấy đang tiếp tục nuôi dưỡng mầm mống của tâm ái ngă;
— khi một vị thầy thường trau chuốt bề ngoài của ḿnh bằng hương hoa, bôi trát son phấn để tạo cái đẹp giả dối hoặc che giấu nhân dáng thực của ḿnh, hoặc dùng các thứ trang sức vàng bạc, y phục diêm dúa đắt tiền lộng lẫy để chứng tỏ sự hào phóng giàu sang... có nghĩa là vị thầy đó chưa bao giờ t́m thấy một thứ giá trị cao tột nào ở phần tâm linh và đang bị dẫn dắt bởi những tiểu yêu tầm thường nhất của con ma dục vọng;
— khi một vị thầy ưa thích xuất hiện giữa đám đông quần chúng để được ca tụng và đón nhận ḷng ngưỡng mộ từ kẻ khác, tung tiền bạc và ḷng thương giả tạo để mua chuộc niềm tin của những kẻ nghèo kém vật chất và tinh thần... vị thầy đó đă tự chứng tỏ có một sự rỗng tuếch bên trong của ḿnh và đang cố gắng khỏa lấp bằng ảo tưởng là có một thứ tự ngă cao quí được người khác nh́n nhận;
— khi một vị thầy lộ vẻ hănh diện khi được sự tưởng thưởng từ các giới quyền lực thế gian, khiếp sợ và tỏ ư tuân phục các thứ cơ cấu chính quyền để mưu cầu an nguy cho bản thân, hoặc cảm thấy ḿnh được tăng giá trị khi thân cận tiếp xúc với giới này, hoặc thâu góp tài sản dâng hiến của môn đệ để biếu tặng giới này mà mưu cầu danh vọng... vị thầy đó rơ ràng hăy c̣n cái tâm vị ngă, chưa thấy được giá trị cao tột của con đường xuất thế viễn ly, chưa t́m được nơi nương tựa chân chính cho tâm linh ḿnh và chưa tự làm ngọn đuốc soi sáng cho đời ḿnh;
— khi một vị thầy thường lấy bằng cấp, sách vở, kiến thức thế gian và sự qui tụ đông đảo của giới trí thức học đường thế tục để làm thứ bảo chứng giá trị cho việc tu tập tâm linh của ḿnh, có nghĩa rằng vị thầy ấy đang c̣n đứng ngoài ṿng rào của trí tuệ siêu việt, chưa bao giờ nếm được chất liệu giải thoát giác ngộ thực sự và có thể là chưa từng bao giờ có khuynh hướng muốn vươn tới sự viễn ly triệt để;
— khi một vị thầy làm được điều ǵ cũng hay có khuynh hướng tự kể lể, báo cáo, khoa trương, đưa h́nh ảnh và tên tuổi của ḿnh ra trước công chúng qua các phương tiện truyền thông hoặc khích lệ, vui vẻ, tán đồng sự tâng bốc, khoa trương kể lể của môn đệ đối với việc làm của ḿnh... vị thầy ấy hăy c̣n mê muội đắm ḿnh trong ảo giác của những vầng hào quang huyễn dối của dư luận và danh vọng thế gian;
— khi một vị thầy sợ hăi dư luận quần chúng, sợ hăi sự mang tiếng cho cá nhân ḿnh, sợ hăi sự phiền hà rắc rối cho đời tư của ḿnh mà ngoảnh mặt với điều thiện nên làm, làm ngơ trước điều ác đang làm khổ những đồng loại chung quanh ḿnh, th́ vị thầy ấy chưa có được tâm vô úy; chưa có được tâm vô úy có nghĩa là vị thầy ấy hăy c̣n nuôi giữ một thứ bản ngă to lớn, co rút trong cái vỏ của vị kỷ, cầu an; điều này cũng chứng tỏ vị ấy chưa có được sự mẫn tuệ của kẻ thực hành bồ tát hạnh và cũng chưa phát triển đúng mức ḷng từ bi của ḿnh đối với chúng sinh...
Vài nét đại cương ở trên dĩ nhiên không có giá trị tuyệt đối nhưng ít nhất chúng cũng cho chúng ta khái niệm về những biểu hiện của cái ngă—đối tượng để tu tập và chuyển hóa trong tất cả mọi pháp môn, mọi sinh hoạt của Phật giáo.
Tŕnh bày những biểu hiện của sự chấp ngă, người viết chỉ hy vọng một điều duy nhất là những người môn đệ t́m cầu giải thoát giác ngộ có thể chọn được một minh sư chân chính nào đó để hướng dẫn ḿnh đi đúng đường; c̣n những vị đang đóng vai tṛ hướng đạo th́ cũng tự nh́n lại ḿnh, lượng giá được chân tướng của ḿnh cũng như con đường mà ḿnh đang đi.
Trường hợp những người học tṛ chỉ t́m đến thầy để học đạo như cách học tṛ đến trường thu lượm kiến thức, hoặc chỉ như những học giả muốn t́m hiểu một thứ triết lư ǵ đó cho thỏa tính hiếu kỳ hay để soạn viết một tác phẩm biên khảo công phu mà giương danh với đời, hoặc như những người tín đồ đúng nghĩa (tức là chỉ đến với tôn giáo bằng niềm tin, không cần suy xét) t́m đến nơi thờ tự đấng thần linh để cầu sự che chở hoặc ban thưởng phước lành, hoặc những người t́m đến tôn giáo chỉ v́ muốn trả ân đă được tôn giáo đó giúp đỡ vật chất khi ngặt nghèo, hoặc những người t́m đến với tôn giáo chỉ v́ để được kết hôn với người thuộc tôn giáo ấy, hoặc những người t́m đến với tôn giáo chỉ để học một cách sống đạo đức hay chỉ để học một nếp sống ḥa b́nh, an lạc, nhàn nhă trong cuộc đời... th́ bài viết này không liên hệ ǵ đến họ cả. Bởi v́ những ǵ mà số người này t́m kiếm, họ có thể t́m được ở bất cứ nhà đạo đức nào, bất cứ vị học giả hay triết gia nào, bất cứ vị bác sĩ tâm thần nào, bất cứ nhà từ thiện xă hội nào, bất cứ vị thầy nào của tất cả các tôn giáo có mặt trên thế gian này.
Nhưng để vĩnh viễn thoát ly sinh tử hay ít nhất cũng chọn được chính đạo để xác định tiêu đích giải thoát của ḿnh, người học tṛ phải t́m cho kỳ được một vị chân sư (phàm hay thánh) đang ngày đêm nỗ lực hướng đến tiêu đích giải thoát đó và đang sống giữa cuộc đời ô trược này mà không đắm nhiễm cuộc đời. Tính cách bất nhiễm của vị chân sư đó được thể hiện trong tinh thần vô ngă. Sự tu tập của người theo Phật giáo khác với tín đồ của các tôn giáo khác ở chỗ đó.
Trong Phật giáo không có phương pháp cao thượng hay phương pháp thấp kém. Chỉ có phương tiện thiện xảo hay phương tiện không thiện xảo. Phương tiện có thiện xảo hay không là ở chỗ nó được thực hiện trong tinh thần vô ngă hay chấp ngă. Phương tiện thiện xảo là thứ phương tiện tối thắng, vừa cứu độ lợi ích cho chúng sanh vừa giúp hành giả dẹp trừ được sự chấp ngă và giải thoát sinh tử luân hồi. Phương tiện không thiện xảo th́ chỉ đưa chúng ta đến gần với thế giới của ma vương và nếu có giúp ǵ chăng th́ chỉ giúp chúng ta trở thành những con người đàng hoàng, đứng đắn, mô phạm, đạo đức, sống an ḥa trên cuộc đời.
Những nhà đạo đức được khuôn nắn từ các phương tiện không thiện xảo th́ có thể suốt đời tuân thủ các qui tắc, mô phạm của thế gian, không tổn hại ai và có thể đem lại lợi ích tạm thời nào đó về vật chất hay tinh thần cho kẻ khác, nhưng bản thân họ, cái ngă đang được nuôi lớn từng giây phút của họ, th́ tiếp tục lang thang trong cơi luân hồi. Trong khi đó, việc hành đạo của một bậc chân sư th́ vừa cứu độ chúng sinh, vừa cứu độ chính ḿnh, ra khỏi trùng vây của ngă chấp, thoát ly hoàn toàn cái ṿng lẩn quẩn của tử sinh.
Người xuất gia sở dĩ đứng trên tất cả là do đă sống v́ tất cả; sống v́ tất cả là do không c̣n bám chặt vào gốc rễ của tự ngă. Tu tập, hành đạo, làm việc thiện, mà cứ khư khư bám chặt lấy tự ngă th́ suốt đời suốt kiếp cũng chỉ là viên sỏi lặn xuống đáy nước. Trong khi đó, những ai đă phá trừ tất cả mọi thứ gốc rễ, mọi thứ đeo bám, mọi thứ rườm rà nặng nhọc của h́nh thức và tự tâm, th́ có thể như cánh nhạn, như làn mây, như sợi khói mỏng, hay như chiếc bong bóng, nhẹ nhàng bay lên bầu trời vô tận.
Thực ra, những vị chân tăng nói trên không phải là không có. Có khi họ ẩn thân ở một nơi đèo heo hút gió, mà cũng có khi họ sống rất gần gũi với chúng ta. Chỉ tại chúng ta thích chạy theo giá trị hời hợt của đám đông, cứ tưởng rằng hễ là chân sư th́ phải nổi tiếng hoặc kẻ nào nổi tiếng th́ phải là chân sư... nên không nh́n ra được những vị chân sư rất b́nh phàm, chơn chất, giản dị, có khi chẳng có một mảy may tài năng, phép lạ, tiếng tăm, bằng cấp, hay danh vọng ǵ cả... Không có thứ thước đo nào của thế gian này có thể lượng định được chân giá trị của một bậc chân sư. Chỉ có ch́a khóa duy nhất: tinh thần vô ngă—mà Phật dạy từ hơn hai ngàn năm trước—là có thể mở ra cho người môn đệ nguồn hứng cảm vô tận của giải thoát giác ngộ. Tinh thần ấy đă đào tạo nên nhiều thế hệ chân tăng cho nhiều quốc gia, nhiều thời đại; cống hiến cho cuộc đời những bậc thầy thong dong tự tại, đến và đi một cách lặng lẽ, không cột trói ḿnh vào bất cứ thứ h́nh thức rườm rà huyễn mộng nào của cuộc đời.
Riêng tôi, tôi luôn nh́n thấy họ quanh tôi, rất thân cận với tôi. Thân cận nhưng họ lại ở trên tôi rất xa, bởi v́ họ đứng trên tất cả mà không bao giờ thấy ḿnh đứng trên tất cả.
(trích từ tác phẩm Con Đường Ngược Ḍng, xuất bản năm 1998)
_________________
CHÚ THÍCH:
(1) Xuất bản từ năm 1952 tại Việt Nam. Ở hải ngoại, được tái bản năm 1986 bởi nhà xuất bản Phú Lâu Na, Hoa Kỳ.
(2) Nguyên văn câu ấy là "Đứng trên tất cả để sống v́ hết thẩy." Xem Tăng Già Việt Nam, trang 16.
(3) Phương tiện (Sanskrit: Upàya) là một thuật ngữ Phật giáo không phải chỉ có ư nghĩa như là một thứ khí cụ, dụng cụ tiện lợi như cách người thế tục hiểu (chẳng hạn phương tiện chuyên chở, phương tiện đi lại...); mà chính là chỉ những pháp môn, những phương thức độ sinh khéo léo và tiện dụng (thiện xảo) của những hành giả dấn thân trên con đường Bồ-tát. Ngoài ư nghĩa là phương pháp độ sinh tiện lợi và thích hợp trong một hoàn cảnh đặc biệt nào đó, Upàya c̣n được dịch là quyền, có nghĩa là quyền biến, tạm thời (như Quyền trí hay Phương tiện trí--[Sanskrit: Upàyajnàna]: trí tuệ quyền biến, tạm thời thiết lập để cứu độ chúng sinh, dẫn dắt họ đến Bát-nhă trí, Chân-thật trí).
(4) Trong kinh Hoa Nghiêm có đoạn nói: "Vong thất bồ đề tâm tu chư thiện pháp, danh vi ma nghiệp." Có nghĩa là thực hành các điều lành mà quên mất tâm bồ đề th́ các việc lành đó cũng chỉ là hành động của ma (ma nghiệp).
(5) Một nghề mà chuyên th́ vinh thân cả đời.
(6) Tựa đề một tác phẩm của Krishnamurti (1895-1986):"The First and Last Freedom." Phạm Công Thiện dịch là "Tự do Đầu tiên và Cuối cùng."
(7) Trạch pháp (Sanskrit: Dharma-pravicaya) là chi hay phần đầu của Thất Bồ Đề Phần (c̣n gọi là Thất Giác Chi), có nghĩa là khả năng phân biệt pháp đúng-sai, phải-trái, chân-ngụy, chánh-tà... Thất Bồ Đề Phần là bảy đức tính phải có của bồ đề (bodhi - giác ngộ) mà bất cứ hành giả nào cũng phải trải qua để tiến đến giác ngộ; gồm có: 1) Trạch pháp, 2) Tinh tấn (V́rya), 3) Hỷ (Pŕti), 4) Khinh an (Prasrabdhi), 5) Niệm (Smrti), 6) Định (Samàdhi) và 7) Hành xả (Upeksà). Thất Bồ Đề Phần được xếp hàng thứ 6 trong 37 Phẩm Trợ Đạo (4 niệm xứ, 4 chánh cần, 4 như ư túc, 5 căn, 5 lực, 7 bồ đề phần và 8 chánh đạo).
(8) Theo một nghĩa khác, thực ra khi một vị tăng tu hành chân chính (chân tăng) th́ dù chưa chứng thánh quả, vẫn cứ là thánh như thường.
(9) Vị Bồ-tát này thấy ai cũng lễ lạy, nói rằng: "Tôi rất kính quí các ngài, v́ các ngài sẽ thành Phật." Xem truyện tích này trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm Thường Bất Khinh Bồ Tát thứ 20, bản dịch của Thích Trí Tịnh, Liên Hải Phật Học Đường xuất bản 1948, trang 489-499.
(10) 53 giai đoạn liệt kê vắn tắt như sau: Thập Tín (10), Thập Trụ (10), Thập Hạnh (10), Thập Hồi Hướng (10), Thập Địa (10), Đẳng Giác (1), Diệu Giác (1), và Phật (1). Về tiến tŕnh tu tập gồm 53 giai đoạn này, xin đọc kỹ Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Nhập Pháp Giới thứ 39, bản dịch của Thích Trí Tịnh, Phật Học Viện Quốc Tế tái bản tại Hoa Kỳ năm 1988, tập 7 từ trang 25- 681, tập 8 từ trang 25-548. Hoặc t́m đọc Kinh Thủ Lăng Nghiêm Trực Chỉ của Thiền sư Đơn Hà, bản dịch và giảng giải của Thích Đôn Hậu và Thích Mật Nguyện, do Viện Triết Lư Việt Nam và Triết Học Thế Giới xuất bản năm 1995 tại Hoa Kỳ, tập 2, Đoạn 6, An Lập Thánh Vị, từ trang 718-751. Ở kinh này, tiến tŕnh tu tập được chia làm 55 giai đoạn: Đẳng Giác, Diệu Giác và Phật, tính làm một, là kết quả tối hậu, không liệt kê trong thứ bậc tu hành; các quả vị khác cũng có Thập Tín (10), Thập Trụ (10), Thập Hạnh (10), Thập Hồi Hướng (10), Thập Địa (10), cùng với Càn Huệ (1) là giai đoạn đầu trước khi bước vào Thập Tín, và Tứ Gia Hạnh (4) là bốn giai đoạn giữa Thập Hồi Hướng và Thập Địa.
Trở về trang Văn Học Phật Giáo