THÍCH CHÂN TUỆ
Thế danh: Trần Văn Trung. Bút hiệu: Cư sĩ Chính Trực.
Phẩm vị: Đại Đức.
Sinh ngày 3 tháng 6 năm 1948 tại Sài G̣n. Nguyên quán: Làng Trường Thọ, quận Thủ Đức, tỉnh Gia Định.
16 tuổi thọ Tam quy Ngũ giới với Thượng Tọa Thích Tâm Giác, Giám Đốc Nha Tuyên Uư Phật Giáo, được ban Pháp danh Chính Trực.
Tốt nghiệp Kiến trúc sư tại Viện Đại học Sài G̣n
Giảng dạy bộ môn Kiến trúc dân dụng và quy hoạch thành phố tại trường Đại học Kiến trúc Sài G̣n.
Hội viên giáo sư toán tại Việt Nam.
Tốt nghiệp Cử nhân Kiến trúc tại Viện Đại học Toronto, Canada.
Trưởng cơ sở giáo dục Việt Nam tại Toronto.
Xuất gia năm 2002 với Đại lăo Ḥa Thượng Thích Tâm Châu, Thượng Thủ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Trên Thế Giới, với Pháp danh Chân Tuệ, pháp hiệu Giác Thắng, pháp tự Thanh Minh.
Sáng lập Chùa Tịnh Quang, Canada.
Chủ trương biên tập tập san Phật Học Tịnh Quang.
Chủ trương biên tập trang nhà Cơ Sở Phật Giáo Tịnh Quang, Canada.
Đă có bài đăng trên các tạp chí và các trang nhà điện toán toàn cầu Phật Giáo khắp nơi, như Viên Giác (Đức), Pháp Âm (Na Uy), Pháp Âm (Calgary, Montreal và Texas), Đất Lành (California, Hoa Kỳ), Trúc Lâm (Hoa Kỳ), Phật Giáo Hải Ngoại (Hoa Kỳ), Phật Học (Kentucky), Nguồn Đạo (Washington D.C.), Linh Sơn (Michigan), Hoằng Pháp (France), Từ Ân (Canada) .
Tác phẩm đă xuất bản:
- Cư Trần Lạc Đạo - Tập I - 1999
- Cư Trần Lạc Đạo - Tập II - 2000
- Cư Trần Lạc Đạo - Tập III - 2002
- Pháp Môn Chăn Trâu - 2004
- Bát Nhă Tâm Kinh
- Thập Đại Nguyện và Mười Điều Tâm Niệm
- Kinh Nghiệm Nội Quán - Một hướng dẫn đơn giản, trực tiếp về pháp hành Thiền Phật Giáo - The Experience of Insight, A simple an direct guide to Buddhist meditation by Joseph GoldStein - cư sĩ Chính Trực dịch Việt - 2003
Các pháp luận khác đă đăng trên báo chí và trang nhà điện toán toàn cầu Phật Giáo Việt Nam:
- Ăn Tết ăn chay hay ăn mặn
- Cách xưng hô trong Phật Giáo Việt Nam
- Làm sao t́m Phật
- Vu Lan 2006: Biết ơn và báo ơn
- Tu tướng và tu tâm
- Từ bi và bạo lực
- Công đức và phước đức
- Nhất Chi Mai.
oOo
CHỮ TÂM TRONG ĐẠO PHẬT
Nương theo giáo pháp Phật Đà
Chữ Tâm Phật dạy giúp ta độ đời.
Đến bờ giác ngộ thảnh thơi
Thoát ly phiền năo cuộc đời an vui.
Trong nhà Phật, tam tạng kinh điển ghi lại lời dạy của chư Phật, chư Bồ Tát và chư vị Tổ Sư. Đó là thiền lâm bảo huấn, nghĩa là: các lời dạy quí giá trong rừng thiền. Người phát tâm tu theo Phật thật khó khăn khi phải chọn lựa kinh sách nào để đọc trước, sao cho có thể hiểu biết chánh pháp rơ ràng và áp dụng được vào đời sống hằng ngày. Trong khi đọc tụng kinh sách, người tu học Phật cũng gặp khó khăn với các từ ngữ chuyên môn, dù là tiếng Việt, tiếng Hán Việt, hay các ngôn ngữ khác, cần phải t́m hiểu thấu đáo, qua tự điển, hay nhờ các bậc thiện tri thức giảng giải, giúp đỡ. Sau khi cố gắng lắm mới tạm vượt qua được sự khó khăn này, người tu tập thường gặp phải ngưỡng cửa: dù đă học hiểu rành rẽ giáo lư, nhưng vẫn chưa vào được đạo! Thế nào là: vẫn chưa vào được đạo?
Người tu hành nhiều năm, dù tại gia hay xuất gia, nếu chưa đủ duyên, nếu chưa gặp được hoàn cảnh để sáng đạo, ngộ đạo, thấy đạo, vào được đạo, th́ người đó vẫn ḷng ṿng bên ngoài cửa đạo, vẫn dậm chân tại chỗ ban đầu, vẫn công phu tu tập chậm chạp, v́ các nghi lễ nặng phần h́nh thức, v́ các việc làm mong cầu phước báo, v́ tâm chấp chặt nhị biên những định kiến đúng sai phải quấy, v́ tâm mong cầu b́nh yên sung sướng, v́ tâm chưa thanh tịnh, c̣n quá lăng xăn lộn xộn bên trong, c̣n bị trần duyên bên ngoài chi phối.
Thực ra, dù đạo Phật có một rừng kinh điển, sách vở, thích ứng cho đủ mọi căn cơ, tŕnh độ, giới thiệu tất cả các pháp môn tu tập tự cổ chí kim, tŕnh bày các kinh nghiệm tu hành từ xưa đến nay, nhưng tất cả những kinh điển, sách vở đó đều nhằm mục đích duy nhất là: khai mở và chỉ bày cho tất cả mọi người thấy rơ cái bản tâm thanh tịnh của chính ḿnh. C̣n bổn phận của chúng ta là: ngộ và nhập được bản tâm thanh tịnh đó. Nếu không ngộ được điều này, tức là không sống được với bản tâm thanh tịnh, người tu tập dụng công phu nhiều, nhưng thu lượm kết quả chẳng được bao nhiêu. Người nào ngộ và nhập được bản tâm thanh tịnh, tức là giữ được tâm b́nh thường, là người thấy đạo, vào được đạo.
Cho nên, Thiền sư Phổ Nguyện Nam Tuyền có dạy: "B́nh Thường Tâm Thị Đạo", chính là nghĩa như vậy.
Nói một cách khác, tất cả kinh điển giáo lư của đạo Phật có thể tóm gọn vào một chữ, đó là chữ TÂM, mà thôi. Nắm vững được ch́a khóa quan trọng này rồi, người tu học Phật có thể mở toang được tất cả các cánh cửa của nhà Phật, thấu hiểu những lời dạy của chư Phật, chư vị Tổ sư trong các kinh điển, sách vở, mục đích thấy được con đường giác ngộ và giải thoát, để xây dựng đời sống hiện tại được an lạc và hạnh phúc.
Trong phạm vi bài viết này, chúng ta sẽ t́m hiểu chữ TÂM qua các kinh điển và kinh nghiệm tu tập thực tế của các bậc tôn túc cổ kim. Mỗi đề mục đều có công năng giải bày bản tâm thanh tịnh, hay tóm gọn vào một chữ, chỉ rơ đó là: chữ TÂM trong Đạo Phật.
A .- Chữ TÂM qua lời dạy của chư Phật:
1) Trong Kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật có dạy: "Nhứt thiết duy tâm tạo".
Nghĩa là: Mọi sự mọi việc đều do tâm tạo ra tất cả. Công đức cũng do tâm tạo, nghiệp chướng cũng bởi tại tâm. Đó chính là tâm sanh diệt, lăng xăng lộn xộn, thay đổi luôn luôn, thường do tham sân si chi phối, thúc đẩy, điều khiển, cho nên con người thường tạo nghiệp bất thiện nhiều hơn là nghiệp thiện. Chúng ta đă thấu hiểu lư lẽ chân thật của cuộc đời là: vô thường, không có ǵ tồn tại vĩnh viễn, không có ǵ là tự nhiên sanh mà không có nguyên nhân. Luật nhân quả áp dụng trong ba thời: quá khứ, hiện tại, vị lai. Sanh sự th́ sự sanh. Nhân nào th́ quả nấy. Gieo gió th́ gặt băo. Có lửa th́ có khói. Cầu nguyện với tâm lăng xăng lộn xộn, chỉ đem lại sự b́nh an tâm trí tạm thời. B́nh an thực sự chỉ có cho người thiện tâm. Thiên đàng, địa ngục, tuy là hai tâm trạng khác nhau, nhưng thực sự, tất cả chỉ là các trạng thái ở trong tâm của chúng ta mà thôi.
Bởi vậy cho nên, có bài kệ như sau:
Tội tùng tâm khởi tương tâm sám
Tâm nhược diệt thời tội diệc vong
Tội vong tâm diệt lưỡng câu không
Thị tắc danh vi giai sám hối.
dịch là:
Tội từ tâm khởi đem tâm sám
Tâm đă diệt rồi tội cũng vong
Tội vong tâm diệt cả hai không
Đó chính thực là chân sám hối.
Nghĩa là: Tất cả những tội lỗi gây ra, đều do tâm chúng ta chủ động, th́ phải thành tâm mà sám hối, tự trong thâm tâm. Từ đó, chúng ta phát nguyện không tái phạm, cho nên mỗi khi tâm tham, tâm sân, tâm si khởi lên, chúng ta liền biết ngay, dừng lại, không làm theo sự điều khiển, sai khiến của tham sân si, th́ tội lỗi sẽ không c̣n tái phạm nữa. Khi tội lỗi không c̣n, tâm sanh diệt cũng lặng mất, con người sống trong trạng thái tịch tịnh, b́nh yên của tâm trí. Đó mới thực là sự sám hối chân chánh.
2) Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật có dạy: "Tùy tâm biến hiện".
Nghĩa là: Mọi sự mọi việc trên thế gian này như thế nào, tốt hay xấu, lành hay dữ, đúng hay sai, phải hay quấy, được hay không, đều do vọng tâm của chúng ta biến hiện ra cả. Sự cảm thọ tùy theo tâm trạng, tùy theo cá nhân, không ai giống ai, không lúc nào giống với lúc nào, không thời nào giống với thời nào, không nơi nào giống với nơi nào.
Trong sách có câu:
“Tâm buồn cảnh được vui sao
Tâm an dù cảnh ngộ nào cũng an.”
Nghĩa là: Cùng một cảnh vật như vậy, nếu có tâm sự buồn phiền áo năo, chúng ta không thấy cảnh vui chút nào. C̣n nếu chúng ta có tâm trạng hân hoan vui vẻ, dù cây khô trụi lá, cảnh vẫn đẹp vui như thường. Cái tâm hân hoan vui vẻ là chúng ta, hay cái tâm buồn thảm lê thê là chúng ta? Cùng một câu nói như vậy, nếu tâm an ổn, vui vẻ mát mẻ, chúng ta cũng cho là: nói đúng nói phải, nói sao cũng được, nói ngược cũng xong. Trái lại, tâm đang bực bội, ai nói câu nào, chúng ta cũng cho là: nói sai nói bậy, nói xiên nói xỏ, nói bóng nói gió, nói hành nói tỏi, nói quấy nói quá.
Vậy, hăy thử nghĩ xem, chúng ta là người: có tâm thực tốt, hay tâm không tốt? Cái tâm sanh diệt, lăng xăng lộn xộn, thay đổi bất thường như vậy, thực không phải là chúng ta.
3) Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy: "Tam giới tâm tận, tức thị niết bàn".
Nghĩa là: Khi nào dứt sạch tâm trong ba cơi, lúc đó chúng ta mới thấy được niết bàn. Ba cơi, c̣n gọi là tam giới, đó là: dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Khi tâm tham nổi lên, chúng ta sống trong dục giới, tức là cảnh giới đắm nhiễm tham dục, cảm thấy đau khổ triền miên v́ ḷng tham của con người không đáy, không bao giờ thỏa măn được. Con người sống trong dục giới lúc nào cũng cảm thấy khao khát, thiếu thốn, được bao nhiêu cũng không thấy đủ, cho nên luôn luôn chạy đôn chạy đáo, t́m kiếm ngũ dục: tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống và ngủ nghỉ. Khi tâm sân nổi lên, ngay lúc đó, chúng ta sống trong sắc giới, tức là cảnh giới chấp chặt sắc tướng, ḷng như thiêu đốt, sắc mặt tái xanh, v́ sự tức giận, v́ sự bất măn. Dù tâm tham không c̣n, tâm sân cũng tai hại vô cùng.
4) Trong Kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật có dạy: "Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai".
Nghĩa là: Một khi tâm niệm tức giận, sân hận khởi lên mà chúng ta không tự kềm chế, không tự khắc phục, th́ biết bao nhiêu, trăm ngàn vạn chuyện khó khăn, đau khổ, chướng ngại tiếp nối theo sau đó. Khi tâm si nổi lên, chúng ta sống trong vô sắc giới, tức là cảnh giới vô minh, rất dễ lầm đường lạc nẽo, mê tín dị đoan, rất dễ dàng tạo tội tạo nghiệp bằng cách: hăm hại trả thù, lập mưu tính kế, vu khống cáo gian, thưa gửi kiện tụng, không cần biết hậu quả khổ đau đối với các người khác và gia đ́nh họ. Những giây phút ngu si, lầm lẫn thường là nguyên nhân của những sự hối tiếc, đau khổ sau đó, cho ḿnh và cho người khác, có khi kéo dài triền miên suốt cả cuộc đời.
Bởi vậy cho nên, phải dẹp trừ tận gốc các tâm tham sân si, trong kinh sách gọi đó là: tam độc, chúng ta thoát ly tam giới gia, cuộc sống mới an lạc và hạnh phúc.
5) Trong Kinh A Di Đà, Đức Phật có dạy: "Người nào giữ được nhứt tâm bất loạn, trong một ngày cho đến bảy ngày, khi lâm chung giữ tâm không điên đảo, th́ người đó được văng sanh tây phương".
6) Trong Kinh Đại Tập, Đức Phật có dạy: "Nếu thường xuyên giữ được chánh niệm, tâm không loạn động, dứt trừ được phiền năo, th́ chẳng bao lâu đắc thành quả vô thượng bồ đề".
Nghĩa là: Người tu tập phải luôn luôn quán sát tâm chính ḿnh, luôn luôn giữ ǵn chánh niệm, luôn luôn niệm Phật, khi vọng tâm vọng tưởng vọng thức vọng niệm khởi lên, liền biết, không theo. Nhờ đó tâm được an nhiên tự tại, không loạn động, dứt trừ được phiền năo, gọi là: nhứt tâm bất loạn. Nhờ công phu tu tập đó, chẳng bao lâu đắc thành quả vô thượng bồ đề. Khi lâm chung giữ được tâm không điên đảo, cho nên được văng sanh cảnh giới tịnh độ. Muốn làm được điều này, muốn giữ được tâm trí nhứt như không loạn động, con người phải thấu hiểu và thực hành quán tứ niệm xứ, gồm có: thân, thọ, tâm, pháp.
7) Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật có dạy: "Căn bản của sanh tử luân hồi là: Vọng tâm". "Căn bản của bồ đề niết bàn là: Chân tâm".
Nghĩa là: Chúng sanh sở dĩ bị trầm luân sanh tử, bởi v́ suốt ngày này qua ngày nọ, luôn luôn sống với vọng tâm, tức là tâm lăng xăng lộn xộn, luôn luôn thay đổi, khi vui khi buồn, khi thương khi ghét, khi khen khi chê, khi tán thán khi phê phán. Muốn tâm trí sáng suốt thanh tịnh, an nhiên tự tại, chúng ta cần quán sát tâm chính ḿnh: khi các vọng tâm nổi lên, chúng ta liền biết, không theo, như vậy vọng tâm lắng xuống, diệt mất, chân tâm hiện ra rơ ràng.
Muốn làm được điều này, muốn chân tâm hiển hiện, chúng ta cần phải thấu hiểu và tu tập bốn tâm rộng lớn, trong kinh sách gọi là tứ vô lượng tâm, đó chính là: từ, bi, hỷ, xả. Khi có tâm từ và tâm bi, chúng ta sẽ dễ cảm thông với muôn loài, nhứt là với loài người, với những người chung quanh, gần như cha mẹ, vợ chồng, con cháu, xa hơn như bà con, láng giềng, bạn bè. Do đó tâm giận tức, tâm sân hận có thể giảm bớt, nhẹ bớt đi. Khi có tâm hỷ và tâm xả, chúng ta sẽ bớt được các tâm ganh tị, tâm đố kỵ, tâm hơn thua, tâm cố chấp. Cho đến khi nào tứ vô lượng tâm tṛn đầy, vọng tâm tan biến, tâm ư trở nên an nhiên tự tại, chân tâm hiển hiện.
Đây mới chính là ư nghĩa thiết yếu của việc tu tâm dưỡng tánh theo đạo Phật:
Trong tâm khởi niệm, nếu giác kịp thời, liền biết không theo, đó là: chân tâm.
Trong tâm khởi niệm, nếu c̣n mê muội, không giác kịp thời, liền theo niệm đó, trở thành: vọng tâm.
Cũng ví như là:
Khi có gió thổi, mặt biển nổi sóng, gọi là biển động, ví như tâm lăng xăng lộn xộn.
Mặc dù có gió thổi, mặt biển vẫn b́nh yên, đó là biển thái b́nh, ví như bản tâm thanh tịnh, hay tâm b́nh thường.
8) Trong Kinh Tịnh Danh, Đức Phật có dạy: "Mặt trời mặt trăng vẫn thường sáng tỏ, tại sao người mù lại chẳng thấy? Cũng vậy, bởi v́ nghiệp thức che đậy, chúng sanh thường biết mà cố phạm, cho nên chẳng thấy thế giới Như Lai thanh tịnh trang nghiêm, chẳng nhận ra bản tâm thanh tịnh thường hằng".
9) Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Phật có dạy: "Tất cả chúng sinh đều có bản tâm thanh tịnh". "Chúng sinh chẳng nhận thấy được, v́ bị vô minh che lấp".
Nghĩa là: Con người ai ai cũng có bản tâm thanh tịnh, cũng như mặt trời mặt trăng luôn luôn sáng tỏ. Chỉ v́ tâm tham lam của cải tiền bạc, hoặc v́ tâm sân hận tự ái cao độ, hoặc v́ tâm si mê cố chấp, ví như mây đen che lấp mặt trời mặt trăng, cho nên con người mới tạo tội tạo nghiệp, làm cho tâm trí loạn động, thường xuyên bất an, điên đảo loạn cuồng, để rồi trôi lăn vào ṿng sanh tử luân hồi, đă muôn kiếp trước, và sẽ tiếp tục trôi lăn, muôn kiếp về sau, nếu như không chịu dừng nghiệp và chuyển nghiệp.
Với số tiền nho nhỏ, quyền lợi không đáng kể, con người c̣n có thể tỉnh thức, dừng được nghiệp, dẹp tâm tham, không thưa kiện người khác, không gây năo loạn cho người, và gia đ́nh của họ. Nhưng khi kiện thưa đ̣i tiền bồi thường vài triệu đô la, con người thành ma, tối tăm mặt mũi, liều mạng đưa chân, hết biết lẽ phải, nhắm mắt làm càng, tới đâu cũng được. Mănh lực của đồng đô la quả thực là vạn năng, thượng đế chẳng bằng, đă lôi kéo không biết bao nhiêu chúng sanh u mê, vào ṿng tội nghiệp, từ xưa đến nay!
Chính v́ biết mà cố phạm, nghiệp thức che đậy, vô minh che lấp, con người chẳng thấy được thế giới Như Lai trang nghiêm, bản tâm thanh tịnh. Chúng ta là người tỉnh thức, đang tu học chánh pháp, đang muốn trở về nguồn cội, đang muốn chuyển hóa cuộc đời của ḿnh, đang muốn thoát ly sanh tử luân hồi, càng phải nên hết sức cẩn trọng, cẩn trọng và cẩn trọng!
10) Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật có dạy: "Quá khứ tâm bất khả đắc. Hiện tại tâm bất khả đắc. Vị lai tâm bất khả đắc".
Nghĩa là: Chuyện quá khứ qua rồi đừng luyến tiếc, đừng nhớ nghĩ làm ǵ cho bận tâm, chỉ gieo thêm nghiệp chướng chứ chẳng ích lợi ǵ. Muốn làm được điều này, ở trong gia đ́nh hay ngoài xă hội, chúng ta cần phải có tâm vị tha, độ lượng, biết tha thứ, biết cảm thông, nói chung là tâm từ bi. Chuyện hiện tại rồi cũng qua mau, cố níu kéo cũng chẳng được, có lo âu phiền muộn cũng chẳng ích lợi ǵ. Chuyện tương lai chưa đến, lo lắng, ưu tư, sầu muộn cũng chẳng ích lợi ǵ. Chi bằng chúng ta giữ ǵn tâm trí được như như, b́nh tĩnh, thản nhiên, có phải khỏe hơn không? Chuyện ǵ phải tới nó sẽ tới, lo sợ cũng chẳng ngăn cản được đâu. Đó chính là nghiệp quả, nghiệp báo, c̣n gọi là: quả báo. Hiểu sâu được luật nhân quả, chúng ta sẽ b́nh tĩnh thản nhiên chấp nhận quả báo xảy đến. Nếu không muốn có quả báo xấu, chúng ta phải chấm dứt gây nghiệp nhân xấu, tức là chấm dứt tâm tham sân si, tức là dừng ba nghiệp thân khẩu ư bất thiện. Trong kinh sách gọi là: dừng nghiệp và chuyển nghiệp.
11) Trong Kinh Tịnh Danh và Kinh Tâm Địa Quán, Đức Phật có dạy: "Tâm tịnh th́ độ tịnh. Tâm địa b́nh th́ thế giới b́nh".
Nghĩa là: Khi những vọng tâm vọng tưởng, vọng thức vọng niệm đă dứt sạch, người tu tập không c̣n tham, không c̣n sân, không c̣n si. Đến đây, người tu tập đạt được cảnh giới bất nhị, tức là không c̣n kẹt hai bên, không c̣n thị phi, không c̣n phải quấy, không c̣n tranh chấp, không c̣n hơn thua, không c̣n tạo tội, không c̣n tạo nghiệp, không c̣n cố chấp. Trong kinh sách gọi đó là cảnh giới: vô tâm vô niệm, hay là cảnh giới: nhứt tâm bất loạn. Lúc đó, tâm tịnh, tâm địa b́nh, tâm vô quái ngại, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, tức là tâm an nhiên tự tại, không c̣n điều ǵ có thể ngăn ngại được, gây lo sợ khủng khiếp được. Do đó, chúng ta xa rời những thứ điên đảo, ĺa bỏ được mộng tuởng, đạt được cứu kính niết bàn. Mọi người chung quanh cảm thấy an ổn, yên tâm, khi sống gần người tu tập có tâm tịnh, tâm địa b́nh. Thế giới chung quanh thanh b́nh, quốc độ an ninh, chính là nghĩa như vậy.
12) Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy: "Thắng vạn quân không bằng tự thắng ḿnh". "Tự thắng tâm ḿnh là điều cao quí nhứt".
Thắng được vạn quân, con người tóm thu được quyền lực, danh vọng, tiền tài, của cải vật chất, đủ mọi thứ trên trần đời. Nhưng tâm người đó vẫn sống trong tam giới: dục giới, sắc giới, và vô sắc giới, cho nên vẫn c̣n phiền năo khổ đau, vẫn c̣n sanh tử luân hồi.
Muốn xuất được tam giới gia, chúng ta phải luôn luôn quán sát tâm chính ḿnh: Khi nào tâm tham, tâm sân, tâm si nổi lên liền biết, không theo. Lúc đó chúng ta đă tự thắng ḿnh:tức là tự kềm chế hành động, ngôn ngữ, ư nghĩ của chính ḿnh. Người ta công kích, khích bác, vu khống, phỉ báng, phê phán, mạ lỵ, sỉ nhục, mắng nhiếc, người nào phản ứng nhanh, trả đũa nặng nề th́ dễ quá, thường quá. Người nào tự thắng tâm ḿnh, nhẫn nhịn được mà không thấy nhục nhằn, nhịn mà không nhục, tâm trí vẫn an nhiên tự tại, mới đáng kính phục, mới là điều cao quí nhứt.
13) Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy: "Tâm khẩu nhứt như". Nghĩa là: "Tâm khẩu không khác".
Tâm nghĩ sao, miệng nói vậy. Miệng thường nói tốt, tâm nên nghĩ tốt. Như vậy, cuộc sống mới được an lạc. Ngược lại, tâm nghĩ một đàng, miệng nói một nẻo, miệng nói như vậy, tâm không như vậy, nên sách có câu: Miệng th́ nói tiếng nam mô. Trong ḷng chứa cả một bồ dao găm. Ở trên đời này, đố ai lấy thước để đo ḷng người. Trong sách có câu: “Tri nhân tri diện bất tri tâm,” nghĩa là: biết người chỉ biết mặt, không biết được tâm địa. Cho nên chư Tổ có dạy: Phản quan tự kỷ, nghĩa là: hăy quay lại, quán sát tâm chính ḿnh, để giữ tâm khẩu nhứt như.
14) Trong Kinh Di Giáo, Đức Phật có dạy: "Chế tâm nhứt xứ, vô sự bất biện".
Nghĩa là: Khi khắc chế được tâm ư, trụ tâm ở một chỗ, bằng cách tụng kinh, niệm Phật, thiền quán, qua sự hiểu biết chánh pháp, tâm trí b́nh tĩnh thản nhiên, không c̣n chuyện ǵ để căi vă nữa, để tranh chấp nữa, cho nên không có sự việc ǵ người tu tập không hiểu biết sáng tỏ, rơ ràng, không biện luận được một cách thông suốt. Điều này giải thích rằng: không có vị Phật nào không biết thuyết pháp độ sanh.
B .- Chữ TÂM qua lời dạy của chư Tổ:
1) Trong Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ Huệ Năng có dạy: "Tâm thông th́ thuyết thông".
Hành giả nào thực tâm tu học, không phân biệt tại gia cư sĩ, hay xuất gia tu sĩ, tâm trí thông suốt, đạt được đến đâu, thuyết giảng thông suốt, đến mức độ đó, lợi ích chúng sanh. Ví như trước có học hành nghiêm túc, chân tu thực học, sau đó mới có thể làm thầy chỉ dạy người khác.
2) Thiền sư Bá Trượng Hoài Hải có dạy: "Tâm địa nhược không, tuệ nhựt tự chiếu".
Nghĩa là: Khi tâm địa, hay tâm thức, hoàn toàn trống rỗng, lặng lẽ, lẵng lặng, thanh tịnh, không c̣n chứa chấp những vọng tâm, vọng tưởng, vọng thức, vọng niệm nào cả, th́ trí tuệ bát nhă tự bừng sáng. Cũng như mây đen tan biến hết, tức là phiền năo không c̣n nữa, tâm thức không tịch, th́ mặt trời trí tuệ tự chiếu sáng. Tâm được thanh tịnh th́ cảnh vật cũng thanh tịnh, chúng sanh chung quanh cũng được b́nh yên.
Một căn pḥng tăm tối ngàn đời, nhưng chỉ cần bật điện một cái, hay đem vào một ngọn đèn, th́ liền sáng tỏ ngay, đâu cần đợi ngàn năm sau nữa, mới chịu sáng lại. Cũng vậy, khi con người chịu mồi ngọn đuốc trí tuệ của ḿnh với ngọn đuốc chánh pháp của chư Phật, chư Tổ, th́ ngọn đuốc trí tuệ của ḿnh cũng bừng sáng lên ngay. Giây phút bừng sáng đó, trong thiền tông, gọi là: ngộ đạo, nhập đạo, vào đạo.
3) Thiền sư Bá Trượng Hoài Hải có dạy: "Tâm cảnh không dính nhau là giải thoát".
Nghĩa là: Chúng ta vẫn thấy, vẫn nghe, vẫn hiểu, vẫn biết tất cả các cảnh trên trần đời, trong kinh điển gọi là: kiến văn giác tri, nếu tâm không dính mắc, th́ không phiền năo. Không phiền năo tức là giải thoát. Thật là hết sức đơn giản! Lư lẽ tuy cao siêu vi diệu, nhưng hết sức thực tế. Bất cứ ai cũng có thể làm được, không cần phải thờ lạy, cúng kiến, không phân biệt tôn giáo, sắc tộc, ngôn ngữ, nghề nghiệp, xuất xứ, học thức, nam nữ, già trẻ, bé lớn, giàu nghèo, sang hèn. Tâm không phan duyên chạy theo cảnh trần là: giải thoát!
4) Sơ Tổ Thiền phái Trúc Lâm Trần Nhân Tông có dạy: "Đối cảnh vô tâm, mạc vấn thiền".
Nghĩa là: Khi nào đối trước cảnh trần, tâm không c̣n dính mắc, không khởi bất cứ tâm niệm ǵ, trong kinh sách gọi là: vô tâm vô niệm, tức là không c̣n khởi tâm tham sân si, thản nhiên trước sự thịnh suy, thăng trầm của đời sống, b́nh thản trước những lời khen tiếng chê, vượt qua được sóng gió của cuộc đời, tức nhiên tâm sẽ được khinh an, tự tại, đó là: thiền định niết bàn.
Con người sống trên đời, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ư, thường xuyên tiếp xúc với các cảnh trần: h́nh ảnh, âm thanh, mùi hương, mùi vị, xúc chạm và kư ức. Khi con người tiếp xúc với các trần cảnh, mà bị dính mắc, tức là: trong tâm khởi niệm thương hay ghét, khen hay chê, ưa thích hay tức giận, đều gọi là: loạn tâm vọng tâm. Không khởi bất cứ tâm niệm nào cả, gọi là: định tâm, hay: tâm thiền định. Đây chính là cốt tủy, là mục đích cứu kính của đạo Phật vậy.
5) Thiền sư Mă Tổ Đạo Nhất có dạy: "Tức Tâm thị Phật" hay "Phật tức Tâm, Tâm tức Phật".
Nghĩa là: Tâm của chúng ta chính là Phật, Phật chính là tâm của chúng ta. Khi chúng ta hành động, nói năng hay suy nghĩ bất thiện, lợi ḿnh hại người, tức là tam nghiệp không thanh tịnh, tâm Phật ẩn mất. Khi chúng ta hành động, nói năng hay suy nghĩ hiền thiện, lợi ḿnh lợi người, tức là tam nghiệp thanh tịnh, tâm Phật hiển hiện. Thực là đơn giản!
V́ không chịu học hiểu giáo lư, biết bao nhiêu người gọi là Phật Tử, tại gia hay xuất gia, tin theo đạo Phật, không khác ǵ ngoại đạo. Ngoại đạo nghĩa là: tuy vẫn thờ tượng Phật, tại gia hay là tại chùa, nhưng vẫn thường ngày ngoài tâm cầu đạo, chỉ biết lo chuyện cúng kiến lễ nghi, dâng sớ cầu an, cúng sao giải hạn, cầu khẩn van xin, cầu nguyện khấn vái, đủ thứ mọi điều, nhưng không hiểu không biết Phật ở nơi đâu?
Ngoài tâm không có Phật, cầu Phật ngoài tâm, là nghĩa lư ǵ? Phật không ở trong chùa, không ở trong các pho tượng, bằng vàng hay bạc, bằng đồng hay cây. Phật không ở trên mây, trên non hay trên núi. Phật không ở dưới suối, dưới sông hay dưới biển. Chúng ta không cần phải đi đến xứ Ấn Độ xa xôi, hay bất cứ nơi đâu, mới thấy được Phật. Phật đang ở ngay trong tâm của chúng ta.
Tóm lại, trên cuộc đời này, dù giàu sang hay nghèo khó, dù trí thức hay b́nh dân, dù nam phụ lăo ấu, dù da trắng da đen hay da màu, dù vua chúa hay dân chúng, nói chung, bất cứ người nào cũng có hai thứ bệnh: thân bệnh và tâm bệnh. Đối với thân bệnh, chẳng hạn như đau răng, nhức đầu, sổ mũi, cảm cúm, đau tim gan t́ phế thận, con người cần tới khả năng trị bệnh của các vị thầy thuốc, dù đông y hay tây y. Để pḥng ngừa thân bệnh, có những phương pháp tập thể dục, những cách dưỡng sinh khoa học, những chế độ ăn uống thích ứng với từng lứa tuổi, và t́nh trạng sức khỏe cá nhân.
C̣n đối với tâm bệnh, chẳng hạn như tâm tham sân si, tâm ganh tị đố kỵ, tâm hơn thua phải quấy, tâm thành kiến cố chấp, tâm lo âu sợ sệt, tâm loạn động bất an, con người cần phải t́m hiểu chánh pháp và áp dụng trong đời sống hằng ngày. Ngay đến Đức Phật là bậc toàn giác, trí tuệ sáng ngời, phước báu vô biên, vẫn CÓ thân bệnh, nhưng KHÔNG phiền năo và khổ đau, tâm trí vẫn an nhiên tự tại, trong mọi hoàn cảnh. Nói một cách khác: Đức Phật không có tâm bệnh. Bất cứ ai sống trên đời này, c̣n mang thân xác con người, là c̣n khổ v́ thân bệnh, nếu không giác ngộ được chân lư vi diệu nhiệm mầu. Các vị giáo chủ của các tôn giáo cũng có thân bệnh và rồi cũng chết như mọi người mà thôi.
Khi đứng trong một căn pḥng, cầm đèn rọi ra bên ngoài, th́ ḿnh sẽ thấy rơ, biết rơ cảnh vật bên ngoài, c̣n bên trong căn pḥng th́ tối thui. Ngược lại, khi xoay ngọn đèn vào bên trong căn pḥng, dĩ nhiên căn pḥng sáng tỏ, một cách rơ ràng, con người có thể thấy mọi thứ đồ đạc và đi đứng không bị vấp ngă. Cũng vậy, khi phóng tâm quán sát bên ngoài, con người có thể phê phán người này đúng, người kia sai, chuyện này phải, chuyện kia quấy.
Con người có thể biết chuyện khắp năm châu bốn biển, chuyện thời sự khắp thế giới, chuyện văn chương kim cổ đông tây, muôn sự mọi việc bên ngoài đều biết rơ ràng rành mạch. Trái lại, chuyện bên trong tâm trí của chính ḿnh th́ mù tịt, chẳng biết tí ǵ cả! Ḿnh thực sự là ai, chẳng biết! Ḿnh thực sự đang muốn ǵ, chẳng biết! Ḿnh thực sự đang làm thiện hay bất thiện, chẳng biết! Ḿnh thực sự đang nghĩ thiện hay bất thiện, chẳng biết! Ḿnh thực sự sống trên đời để làm ǵ, chẳng biết! Ḿnh sau này sẽ đi về đâu, nếu vẫn cứ tạo tội tạo nghiệp hằng ngày, chẳng biết! Chuyện ǵ thuộc về bên trong, thuộc về nội tâm, chúng ta cũng đều chẳng biết!
Cái tâm ư điên đảo đảo điên, cái vọng tưởng lăng xăng lộn xộn, tạo tội tạo nghiệp này, là nguyên nhân chính dẫn chúng ta vào ṿng sanh tử luân hồi. Làm sao hàng phục và an trụ được cái tâm ư này chính là trọng tâm của đạo Phật.
Điều quan trọng trong đạo Phật chính là:
Tâm trí có dính mắc hay không dính mắc cảnh trần.
Nếu tâm dính mắc, gọi là: tâm phan duyên, tâm loạn động.
Nếu tâm không dính mắc, chính là: bản tâm thanh tịnh vậy.
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
cutranlacdao@yahoo.com
cosophathoctinhquangcanada.org