HỒNG QUANG
HỒNG QUANG (Bút hiệu: Nguyễn Kha, Bùi Kha, Nguyễn Đăng Lâm, Hồng Ngọc…)
Sinh năm 1949 tại tỉnh Quảng Trị, Việt Nam. Du học Hoa Kỳ năm 1974.
Một trong những sáng lập viên Hội Từ thiện và báo Giao Điểm.
Tác phẩm:
- Nguyễn Trường Tộ Sau Bức Màn Canh Tân.
- NGUYEN TRUONG TO, HIDING BEHIND THE BANNER OF REFORM, Colonialism & Catholicism in the French Occupation of Vietnam (sắp xuất bản).
- Alexandre de Rhodes, Chữ Quốc Ngữ Và Quan Điểm Chính Trị.
- Tuyển tập Bùi Kha: Alexandre de Rhodes, Trương Vĩnh Kư, Trần Lục, Ngô Đ́nh Diệm.
Nhiều bài thuộc loại khảo cứu, tham luận, đối luận, dưới nhiều bút hiệu khác nhau, đăng báo, sách và trang nhà điện tử trong và ngoài nước:
- Những đại pháp nạn của Phật giáo Việt nam. “Phật giáo trong thế kỷ mới, Tuyển tập 1”, Giao điểm xuất bản, Hoa kỳ, 1996
- Tham luận: “Vài nét về Phật giáo Tây phương để suy nghĩ về mười vấn đề cấp thiết của Phật giáo Việt nam.” Đọc tại Đại hội Phật Giáo toàn quốc, tháng 12. 2002 tại Hà nội, Việt nam. In trong tác phẩm “Phật giáo trong thời đại chúng ta”, nhà xuất bản Tôn giáo, TP.HCM, 2004.
- Tham luận: “Năm ước mơ của một Phật tử và mười điều cấp thiết mà Phật giáo Việt nam không thể thiếu”. Hội thảo “Phật giáo trong thời đại mới, cơ hội và thách thức”. Viện nghiên cứu Phật học, TP. Hồ Chí Minh, Việt nam, tháng 7. 2006. In trong “Phật giáo trong thế kỷ mới. Tại sao phải chấn hưng?” Tuyển tập 3. Giao điểm, 2006.
- Phật Giáo có hại cho việc phát triển kinh tế?
a
VÀI NÉT VỀ
PHẬT GIÁO TÂY PHƯƠNG ĐỂ
SUY NGHĨ VỀ MƯỜI VẤN ĐỀ CẤP THIẾT CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM
Kính bạch chư Tôn đức Tăng Ni,
Kính thưa quí vị Đại biểu và Quí khách
Thật là một hân hạnh lớn lao cho chúng tôi hôm nay được về tham dự Đại hội kỳ V của Giáo hội Phật giáo Việt Nam tổ chức tại thủ đô Hà Nội. Thật vậy, từ ngàn dặm xa xôi mà được về thăm quê hương đă là một điều hạnh phúc, lại được phép tŕnh bày một số thao thức của một người con Phật trước những người đồng đạo mà cũng là đồng bào cùng chung một ước mơ, th́ thật là một cơ duyên hiếm có.
Do đó, chúng tôi xin mạo muội góp ư với Đại hội về hai chủ đề: Phần thứ nhất sẽ đề cập đến vài nét đặc thù trong quá tŕnh phát triển Phật giáo Tây phương, đặc biệt là tại Mỹ, để nhận diện những yếu tố nào đă làm cho Phật-Giáo nở rộ, cả phẩm lẫn lượng, trên các mảnh đất Kitô giáo và những thành tŕ của nền văn minh vật chất, duy lư và duy lợi nầy. Phần thứ hai, chúng tôi sẽ xin gợi ư về mười vấn đề vừa cụ thể vừa cấp thiết, vừa cho bây giờ vừa cho tương lai, mà tôi nghĩ Giáo hội Phật giáo Việt Nam cần đặc biệt quan tâm.
Dĩ nhiên ư kiến của chúng tôi th́ chủ quan và c̣n nhiều giới hạn, nhưng chắc chắn chân thành và thiện chí, nên có điều ǵ sơ suất và khó nghe, xin Đại Hội niệm t́nh tha thứ.
PHẦN MỘT
VÀI NÉT ĐẶC THÙ TRONG QUÁ TR̀NH PHÁT TRIỂN PHẬT GIÁO TẠI TÂY PHƯƠNG
Như chúng ta đều biết, từ quê hương của đức Phật, giáo lư của Ngài đă tỏa ra bốn hướng chính. Trong cuốn "The Buddhist Handbook: The Complete Guide to Buddhist Schools, Teaching, Practice and History", 1999, USA, John Snelling, một nhà sử-học Phật-giáo Mỹ, đă dùng hai tiêu chuẩn không-thời gian và sự h́nh thành các tông phái để xác định quá tŕnh phát triển Phật-Giáo trên toàn thế giới, đă mô tả bốn hướng chính đó như sau:
- Về phương Nam, Phật Pháp thấm sâu vào Sri Lanka, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cam Bốt và Indonesia.
- Về phương Bắc, Phật Pháp xuyên rặng Hy Mă Lạp Sơn qua Tây Tạng, Mông Cổ và Nga.
- Về phương Đông, Phật Pháp được truyền vào Việt-Nam,Trung Quốc rồi tỏa hai nhánh lên Đại Hàn, Nhật Bản và Đài Loan.
- Về phương Tây, theo con đường Tơ lụa, Phật-Pháp được truyền vào Trung Đông, các nước ven Địa Trung-Hải, và từ sau Đệ-nhất Thế-chiến, th́ bắt đầu bắt rễ tại Âu-Châu.
Tuy nhiên, phải đợi đến cuối thế kỷ thứ 19, khi Phật -Giáo theo hai ngă đường tràn vào Mỹ th́ quá tŕnh phát triển của đạo Phật mới có những chuyển biến ngoạn mục và sâu sắc. Đó là khi từ lục địa châu Âu, những hiệp hội Phật-Giáo năng động như Buddhist Society of Great Britan and Ireland, Old Buddhist Community, Buddhist Publication Society,... bắt đầu phát hành những ấn phẩm diễn giảng kinh sách Phật-Giáo xuyên Đại Tây dương để xâm nhập vào miền Đông nước Mỹ. Và từ châu Á, những đợt sóng di dân từ Trung Quốc và Nhật Bản cập vào miền Tây nước Mỹ để, theo đúng truyền thống Đông Phương, lấy chính cuộc sống của ḿnh làm chứng thực lời dạy của đức Phật, th́ dân tộc Mỹ mới khám phá ra và hân hoan chào mừng Phật Pháp tuyệt vời của đấng Từ Phụ.
Tại Anh-quốc ngày nay chỉ c̣n 7.5% đi lễ nhà thờ, nhưng tại Mỹ người Công-giáo và Tin-lành chiếm 56%, trong đó phần lớn bao gồm các sắc dân Châu-Á, Châu-Phi, Châu Mỹ La-tinh, giới lao-động và thợ thuyền. Tuy vậy, sau Đệ Nhị Thế Chiến và cuộc Chiến Tranh Lạnh giữa các Đại-cường, th́ những tác phẩm viết về tôn giáo Đông-Phương như cuốn Ánh Sáng Á-châu Về Cuộc Đời Và Lời Dạy Của Đức Phật (The Light of Asia on the Light and Teaching of Buddha) của đại thi sĩ Edwin Arnold, cuốn Khoa Học Tối Thượng Của Đức Phật (Supreme Science of the Buddha) của Egerton C. Baptist, cuốn Đạo Vật Lư (The Tao of Physics) của khoa-học gia Fritjof Capra, bộ Thiền-luận của Suzuki, v.v... đă thấm vào tim óc của giới trí thức Tây-phương. Phong trào nghiên cứu về tôn giáo và tín ngưỡng Á-châu nở rộ thành những đợt sóng người đến với đạo Phật, lan tràn khắp thế giới, đặc biệt là tại các nước tiên tiến như Đức, Anh, Pháp và Hoa-kỳ. Từ giới văn nghệ sĩ đến quân nhân, từ học đường đến kinh doanh. Số trí thức người Mỹ theo Phật-Giáo trong thập niên 1980 là 7 triệu, và năm 2000 là 10 triệu. Trong số những trí thức nổi tiếng trở thành phật-tử có ứng cử viên tổng thống Jerry Brown, ông cũng từng là Thống-Đốc bang California, tài tử nổi tiếng Richard Gere, Steve Seagal, danh ca Tina Turner, nhà văn Jack Kerovac, thi sĩ Allen Ginsberg. Ngay tại bộ Quốc-pḥng cũng có Câu-lạc Bộ Thiền (The Pentagon Meditation Club) được thành lập từ 1976 qui tụ nhiều sĩ quan cao cấp và tướng lănh. Theo báo Tricycle: The Buddhist Review, số mùa hè năm 1997, người sáng lập câu lạc bộ nầy là ông Ed. Winchester cho biết: câu lạc bộ có 16 vị tướng và đô-đốc hải-quân là những thiền sinh (The fact is at one point I think there were about sixteen generals and admirals who were meditators).
Tại Mỹ, năm 1966 chỉ có 3 đại-học mở phân khoa Phật Học, nhưng sau 30 năm, 1996, có đến 145 đại học, và ngày nay th́ có nhiều hơn nữa. Môn sử Phật-giáo khái quát cũng được giảng dạy trong nhiều trường Trung và Tiểu-học. Trong thập niên cuối cùng của thế kỷ thứ 20, tại Mỹ, có trên 1.500 cơ sở hoằng-pháp. Quần thể tu viện The Odiyan Monastery được xây cất trên một vùng đất rộng hơn một ngh́n mẫu tây tại bang California, được xem là cơ sở vĩ đại nhất của Phật-Giáo Mỹ trong thập niên qua. Trong cuốn Sự Thức Tỉnh Của Tây Phương (The Awakening of the West), xuất bản năm 1994, tác giả Stephen Batchelor viết: “Ngày nay Phật Giáo được coi như là một tôn giáo phát triển nhanh nhất và là một trong những phong trào tâm linh có ảnh hưởng nhiều nhất ở Tây Phương” (Buddhism is said to be the fastest growing religion and one of the most influential spiritual movement in the West). Tạp chí Time là một trong những tuần báo giá trị nhất của Mỹ, số ra ngày 13.10.1997, trang b́a đăng h́nh tài tử điện ảnh chính, Brad Pitt, đóng phim Bảy năm ở Tây Tạng (Seven years in Tibet) với hàng tít lớn: Sự hấp dẫn của Phật-Giáo đối với Mỹ (America's Fascination With Buddhism). Số báo nầy có viết một bài dài 11 trang về sự phát triển Phật-giáo tại Mỹ. Trong nhật báo Chicago Tribune, số ra ngày 16. 6. 2000, kư giả Karen Mellen tường tŕnh về chủ đề Người Tây-phương đến với tín ngưỡng Á-châu nhiều hơn�(More Westeners are Drawn to Asian Faith), trong đó có đoạn tác giả đă mô tả: Không cần phải t́m cách thu phục hay tích cực kiếm thêm tín đồ, Phật-giáo đang nở rộ tại tiểu bang Illinois và các tiểu bang lân cận. Trong 5 năm qua, số tín đồ Phật-giáo tăng thêm 25%, và mỗi năm có thêm 4 hay 5 chùa mới (Without proselytizing or actively seeking members. Buddhism is flourishing in Illinois and nearby states. Over the last five years the number of Buddhists has risen 25 percent, and four or five new temples open each year). Những buổi thuyết pháp của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma ngày nay không c̣n được tổ chức trong các hội trường nhỏ hẹp từ 3 đến 5 ngàn người, mà mỗi lần thuyết pháp phải được tổ chức ở các sân vận động thể thao để có thể chứa được cả trăm ngàn thính giả.
Sở dĩ người Tây-phương, nhất là người Mỹ, ngày càng theo Phật-giáo nhiều, trước hết v́ họ bị khủng khoảng niềm tin nơi những tôn giáo lâu đời của xứ sở họ. Thứ hai là với đầu óc thực nghiệm sẵn có trong nền giáo dục duy lư thực dụng và khoa học, họ khám phá thấy Phật giáo là tôn-giáo của từ bi hỷ xả, tôn-giáo của trí-tuệ và khoa-học, một tôn giáo giải đáp được những băn khoăn thao thức của họ về con người, vũ trụ và cuộc sống trong một xă hội đầy duy lư, máy móc, bạo động và bấn loạn tâm linh mà họ phải đối diện hàng ngày. V́ thế, thiên tài khoa học Albert Einstein, người Mỹ gốc Do-thái, sinh tại Đức, được giải thưởng Nobel vật lư học năm 1921, phát biểu về Phật-giáo như sau:
"Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo hoàn vũ. Tôn giáo này phải vươn lên khỏi một Thượng Đế cá thể và tránh các giáo điều và một nền Thần Học. Tôn giáo này phải bao gồm cả thiên nhiên giới và tâm linh giới, và phải dựa vào một ư thức tín ngưỡng phát xuất từ kinh nghiệm của cả vật chất lẫn tinh thần, và dựa trên một thế hợp nhất có ư nghĩa. Phật Giáo chính là tôn giáo đáp ứng được với những mô tả vừa kể...
Nếu có một tôn giáo nào ứng phó được với các nhu cầu của nền khoa học hiện đại, th́ đó chính là Phật Giáo. Phật Giáo không cần phải tu chính để chối bỏ những quan điểm của ḿnh mà theo khoa học, v́ Phật Giáo vừa bao gồm khoa học vừa vượt xa quá khoa học nữa.”...
(The religion of the future will be a cosmic religion. It should transcend a personal god and avoid dogmas and theology. Covering both the natural and the spiritual, it should be based on a religious sense arising from the experience of all things, natural and spiritual and a meaningful unity. Buddhism answers this description...
If there is any religion that would cope with modern scientific needs, it would be Buddhism. Buddhism requires no revision to surrender its views to science, because it embraces science as well as goes beyond science).
Kính thưa quư vị,
Dưới con mắt của thiên tài khoa học gia Albert Einstein, Phật Giáo quả thật là một bảo vật vô giá, vượt thời gian và không gian. Nhưng theo thiển ư của chúng tôi th́ Phật giáo Việt-Nam chúng ta chưa nỗ lực đúng mức để truyền tŕ món bảo vật ấy. Nói một cách mộc mạc, Phật-Giáo có một món hàng vô giá nhưng các ban tiếp thị đă thiếu khả năng để bán món hàng ấy.
Nói vậy không có nghĩa là chúng tôi không thấy được bao nhiêu tâm lực, bao nhiêu hy sinh của chư tôn đức và hàng Phật Tử tại gia đă và đang kiên tŕ hoạt động Phật sự để cho mạng mạch Phật giáo luôn luôn là một ḍng suối tươi mát, là một đại dương cam lồ tưới tẩm dân tộc qua nhiều thế hệ thăng trầm biến đổi, nhất là trong thời gian nước nhà gặp biết bao khó khăn sau những năm dài chinh chiến. Phật tử Việt Nam và phật tử thế giới luôn luôn ghi nhớ công đức hành thiện đó.
Lịch sử đă chứng minh thành qui luật rằng lúc nào Phật giáo hưng thịnh th́ quốc gia phú cường, lúc nào Phật giáo tŕ trệ th́ dân tộc cũng nguy khốn. V́ thế, học giả Phan Khôi đă rất đúng khi nhận định: “...thuở nhà Lư nhà Trần đạo Phật tràn ngập cả nước. Chùa chiền khắp nơi, thầy tu làm dân tráng, nhưng nước nhà chưa hề có cái vẻ tích nhược như thời Lê Trung Hưng hay Nguyễn Thống Nhất là hai thời đại Nho học thịnh hành. Trái lại nhà Lư nhà Trần mạnh lắm... mấy phen giặc Tàu sang chúng ta đuổi đi như đuổi vịt.” (Nguyễn Lang, Phật-giáo sử luận, tập 3, Lá-bối, Paris 1985, tr.29).
Lư Trần là thời kỳ đạo Phật thịnh, kéo theo thế hưng thịnh của quốc gia. Quân Nguyên Mông chiến thắng cả thiên hạ. Nhưng lúc sang chiếm Việt Nam, đạo quân bách chiến bách thắng nầy không những đă thua trận một lần mà thua đến ba lần. Nước nhà có được những nét vàng son ấy là nhờ tinh thần TỪ BI, TRÍ TUỆ và DŨNG MĂNH được vua quan và dân chúng áp dụng một cách nhuần nhuyễn tích cực vào trong tất cả các hành động và cuộc sống hằng ngày. Vua Trần Nhân Tông xuất gia ĺa bỏ ngai vàng như bỏ đôi dép rách là một bài học sống động và vô giá cho tất cả chúng ta. Sự hi hiến phi thường nầy cũng giống như hơn 2500 năm trước, Thái Tử Tất đạt Đa bỏ ngai vàng điện ngọc cao sang để t́m phương cách giải khổ đem vui cho con người.
Chỉ hơn mười năm sau khi nhân loại thoát khỏi ác mộng Chiến Tranh Lạnh th́ thế giới ngày nay đang bước vào một khúc quanh lịch sử mới với viễn ảnh của một cuộc chiến không phải giữa Ư Thức Hệ Độc Thần với Ư Thức Hệ Vô Thần như trước, nhưng là giữa Ư Thức Hệ Độc Thần Da Trắng với Ư Thức Hệ Độc Thần Da Nâu, giữa những người cùng thờ một Chúa, cùng tin một một "Thánh" Thư, cùng phát xuất từ một suối nguồn tín ngưỡng.
Cuộc chiến hôm nay là một cuộc chiến giữa 'người uy hiếp và người bị uy hiếp', chứ không hẳn là 'giữa kẻ ăn không hết và người mần không ra'. Thực trạng hôm nay, một lần nữa, làm chứng cho chân lư đơn giản của Phật giáo đó là đem hận thù chống hận thù th́ cũng giống như đem dầu xăng mà chữa lửa. Chỉ có t́nh thương, chỉ có từ bi mới xóa bỏ được hận thù và nghèo đói.
Thế giới đang lên cơn sốt trầm trọng, nhất là đối với những dân tộc đau thương đói khổ dài ngày. Điều nguy hại là đôi lúc một vài tổ chức phản động, độc tôn, quá khích đă và đang lăm le lợi dụng t́nh trạng thiếu thốn đói khổ và ḷng ưa muốn ăn no mặc ấm để gieo rắc những mầm phân hóa, bất ổn, sa đọa, phi dân tộc, phản cách mạng dưới chiêu bài Nhân Quyền, Tự Do Tôn giáo, Hiện Đại, Tiên Tiến.
Không có quyền nào cao quư bằng quyền tự chủ để độc lập và tự cường để tồn tại. Nhân quyền là quyền quyết định lấy số phận của ḿnh nhưng phải đặt nó trong mối tương quan ḥa ái với dân tộc và nhân loại. Không có tự do nào bằng tự do vượt ra khỏi sức ép của ngoại nhân. Không có cái ǵ hiện đại bằng người Việt Nam vào thế kỷ 21 phải tự ḿnh vững bước hai chân trên các ngành khoa học kỹ thuật để phú cường, và về mặt tâm linh th́ dựa vào cái triết lư vượt lên trên khoa học để làm ngọn đuốc soi đường cho các phương châm hành động.
Không có cái ǵ tiên tiến bằng người Việt Nam hôm nay có thể nh́n vào đồng loại năm châu để nói rằng chúng tôi đă dứt được quá khứ nhục nhă v́ bị trị. Chúng tôi tự hào một cách có thực là dân tộc chúng tôi đă thắng 3 cường quốc vĩ đại của thế giới để giành lại độc lập cho con cháu Tiên Rồng và tương lai đang ở trong tay chúng tôi. Chúng tôi đang đứng hàng thứ nh́ trong việc xuất cảng gạo, hàng thứ ba xuất cảng cao-su. Vài vùng trước đây đồng khô cỏ cháy, nay lúa xanh ngắt một mầu nhờ hệ thống thủy lợi thuận tiện. Và điện thoại, tivi, fax, máy vi tính, hệ thống internet đă hiện diện tại nhiều nơi ở vùng xa, vùng sâu. Nhưng quan trọng hơn cả, Việt-nam là một quốc gia ổn định và an ninh nhất vùng Đông-Nam Á, và dân tộc chúng ta hôm nay có thể hănh diện và tự hào về những thành quả vàng son vừa kể. Vấn đề chỉ là ǵn giữ, phát triển và noi gương các bậc tiền bối nhiều hơn nữa trong quốc sách “Đói cho sạch rách cho thơm.” Nạn tham nhũng là một điều nhục quốc thể và làm cho thế giới khinh rẻ một dân tộc vốn đă có những nét vàng son vừa kể, cần phải được chấm dứt. Và đây chính là lúc Phật giáo Việt Nam phải nỗ lực nhiều hơn để gánh phần trách nhiệm của ḿnh.
Đạo Phật là đạo của từ bi, đạo của tri túc tiện túc, đạo của những kẻ trượng phu “thà làm quỷ nước Nam...”, những kẻ sống chết với nguyên tắc “Tiên thiên hạ chi ưu hậu thiên hạ chi lạc”, những kẻ vừa thấy được cái tốt của người để bắt chước, vừa biết rơ cái xấu của ḿnh để sửa sai. Đạo Phật cũng là đạo “Thương người như thể thương thân”, �”Áo rách phải giữ lấy lề”, chứ không phải là đạo của sống chết mặc bây, hoặc đói mà muốn nhận loong gạo hoặc lảnh ổ bánh ḿ th́ phải nhận “phép rữa tẩy.”
Quyển “Thánh” Thư và cây thập ác từng là lá cờ tiên phong cho những đạo quân thực dân xâm chiếm bóc lột và diệt chủng ở Phi Châu, Á Châu, Nam Mỹ. Bi kịch lịch sử đó đang được một số người lăm le tái diễn ở Trung Đông. Bi kịch đó đă và đang có người âm mưu tái diễn ở miền cao nguyên và sơn cước Việt Nam hiện nay.
Hơn bao giờ hết, người phật tử, trong cũng như ngoài nước, có lẽ nên dựa vào nguyên tắc khế lư, khế cơ và khế thời như lời Phật dạy để áp dụng một cách uyển chuyển và linh động vào t́nh trạng bấn loạn của thế giới và vào hoàn cảnh của quốc gia đang trên đà phát triển hiện nay, để kiện toàn đường lối sinh hoạt Phật sự trong mục tiêu góp phần làm cho dân tộc an lạc, quốc gia giàu mạnh và thế giới ḥa b́nh.
PHẦN HAI
MƯỜI VẤN ĐỀ CẤP THIẾT CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM
Trước những chuyển đổi sâu rộng của thời đại trên thế giới cũng như đặc biệt trên quê hương, và quan sát những kinh nghiệm thành công của Phật giáo ở các nước Tây-phương, chúng tôi ư thức được rằng Việt Nam có những vấn đề đặc thù của Việt Nam, và Giáo hội ta có những vấn nạn của riêng chúng ta. Do đó, chúng tôi chỉ xin đề cập đến những vấn đề thật cấp bách không thể nào bỏ qua được, lại có tính phổ quát mà Giáo Hội nước nào cũng phải kinh qua, và có tính khả thi mà Giáo hội Việt Nam không đối trị bây giờ th́ cũng phải đối diện trong một tương lai gần.
Mười chủ điểm mà chúng tôi đặc biệt thao thức th́ có quan hệ hữu cơ và nhân quả đến:
- Hai vấn đề nhân sự của Giáo hội v́ con người bao giờ cũng là trục vận hành của mọi tổ chức
- Bốn vấn đề tổ chức v́ đó là công cụ vận hành và phương tiện thiện thừa của Giáo hội
- Hai vấn đề giáo dục đào tạo v́ đó là đội ngũ kế thừa của mọi nỗ lực phát triển
- Hai vấn đề văn hóa v́ đó là thành tố bất khả phân ly giữa đạo và đời.
Dĩ nhiên, những đề nghị của chúng tôi sẽ không giải quyết được tận gốc những khó khăn to lớn mà chúng ta đang nỗ lực vượt qua, lại càng chưa chắc đă nằm trong ưu tiên hàng đầu mà Giáo hội đang quan tâm, tuy nhiên chúng quả thật đang là những ḥn đá tảng, sừng sững nằm chắn lối trên con đường hoằng dương Phật Pháp. Do đó mà chúng tôi xin tŕnh bày với tất cả khiêm cung nhưng cũng rất triệt để, đó là:
1. Trẻ Trung Hóa Nhân Sự: Cơ thể con người là một vi trần của vạn hữu, biến thái theo chu kỳ thành trụ hoại không. V́ thế, ngày nay hầu như quốc gia nào trên thế giới cũng định tuổi về hưu của công tư chức là 60 đến 65 tuổi, cái tuổi mà sinh lực như một ngọn đèn dầu đang cạn, cái tuổi mà trí tuệ cũng không c̣n minh mẫn và nhạy bén như buổi thiếu thời. T́nh trạng lăo hoá nầy không miễn trừ cho bất cứ một ai, do đó, những vị cao niên cần được nghỉ ngơi tĩnh dưỡng sau bao năm hi hiến cuộc đời của ḿnh cho đại sự. Hơn nữa phục vụ Giáo hội là một sự hy sinh chứ không phải là một công chức hoặc tư chức có lương bổng để bồi dưỡng, nên lại càng phải đ̣i hỏi một sự tĩnh dưỡng nhiều hơn. Quy luật tâm sinh lư nầy mang tính phổ quát, không phải chỉ đúng cho giai tầng lănh đạo, mà ở mọi vị trí, mọi nhiệm vụ và mọi lănh vực, một khi đă tuổi cao trí kém th́ không những sẽ làm tŕ trệ tổ chức mà c̣n là những phản động lực cản đường phát triển của định chế ḿnh phục vụ. V́ thế, tất cả nhân sự hành chánh của Giáo Hội từ trung-ương đến địa phương nên được chọn lựa trên tiêu chuẩn đức, tài, khoẻ và không quá 70 tuổi. Những vị đạo cao đức trọng trên 70 tuổi nên được cung thỉnh vào Hội đồng Chứng minh để làm biểu tượng đạo đức và trang nghiêm cho Giáo hội, không nên đ̣i hỏi quí ngài phải nhọc nhằn lận đận với những công việc nặng nhọc hằng ngày của Hội Đồng Trị Sự hay Hội Đồng Điều Hành, mà nhiều lúc và nhiều nơi c̣n ép quí ngài phải kiêm nhiệm đến 3 hoặc 4 chức.
Một điểm khác về nhân sự là phẩm hơi thấp nhưng lượng cao. Nhiều tỉnh xa những trung tâm thị tứ th́ thiếu Tăng Ni nhất là các vùng quê và miền cao nguyên, nhưng tại thành phố Hồ Chí Minh và các vùng phụ cận th́ hầu như Tăng Ni bị lạm phát, phẩm h́nh như c̣n thấp nhưng lượng quá cao là một tai hại cho tiền đồ Phật-giáo.
Một minh chứng điển h́nh là hiện nay, tại Hoa Kỳ, hàng giáo sĩ từ 200 năm qua vốn là biểu tượng của đạo đức xă hội, nhưng từ hơn nửa năm nay, h́nh ảnh đó đă hoàn toàn sụp đổ và sẽ kéo theo sự suy tàn của các giáo hội Công giáo La Mă khi báo chí, đài truyền thanh truyền h́nh phát hiện và phổ biến rộng răi những vụ linh mục, giám mục cưỡng dâm trẻ em, mà có kẻ lại hiếp dâm trên cả trăm trẻ em trong nhiều năm, rồi họ lại được chính các giáo hội đó bảo bọc che đậy. Hàng tỉ Mỹ-kim đă và đang chi phí để bồi thường cho các nạn nhân, nhưng quan trọng hơn, niềm kính trọng và tin tưởng vào các Giáo hội đă hoàn toàn bị lung lay và có nguy cơ sụp đổ trong ḷng các tín đồ.
Giáo hội và quí vị Trú-tŕ dày công đào luyện cho Tăng Ni và đệ tử một mớ hành trang để lên đường hành đạo, th́ cũng nên tạo dư luận và tạo một số hành trang cần thiết để cho đệ tử nào muốn hoàn tục nếu cơ duyên chưa trọn, c̣n hơn là chấp chứa một số sư tử trùng mà thân c̣n ở trong nhưng tâm th́ đă rong ruổi bên ngoài từ lâu rồi.
T́nh trạng phẩm thấp lượng cao trong một số ít Tăng Ni sinh trẻ hiện nay, ở một vài vùng tại Việt Nam, là một điều đáng ngại mà Giáo Hội cần có biện pháp ngay từ bây giờ. Hành động phá giới phạm trai của một vài Tăng Ni trẻ, nếu có, là những ngọn lửa đốt cháy niềm tin của hàng triệu tín đồ.
2. Cái Ghế Một Chân: Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hóa thế giới, điều hành một tổ chức trở nên cực kỳ phức tạp. Hơn thế nữa, cuộc cách mạng thông tin đă nâng mọi hoạt động, mọi sự cố lên tŕnh độ đa khoa (interdisciplinary) và đa tầng (multilayer), khiến cho không một người nào hay một nhóm nhỏ nào có thể quản lư một tổ chức mà không huy động nhiều nguồn nhân lực và tri thức khác nhau.
Giáo hội Phật giáo lại càng cần sự huy động tổng hợp đó v́ tính chất nhập thế rốt ráo và v́ khả năng tiếp cận đầy tính dung hóa của đạo Phật. Đội ngũ đông đảo các cư sĩ, với chức năng hộ pháp, và với khả năng và cơ hội được thật sự dùi mài trong cuộc sống thật, sẽ là nhân tố quan trọng phải được huy động tham gia vào việc phát triển đạo Phật.
Tại các nước Tây-phương, vốn là thành tŕ của chủ nghĩa vật chất và căn cứ địa của các tôn giáo độc thần, nhưng cuối cùng cũng đă phải mở cửa trân trọng đón chào đạo Phật như một viên thuốc thần tiên vô giá. Nhưng quá tŕnh đón chào đó không phải tự nhiên mà có, mà chủ yếu là nhờ một đội ngũ cư sĩ biết vận dụng đạo Phật vào cuộc sống và h́nh thành một hệ thống tổ chức đặc thù theo lối hiện đại cho người Tây-phương. Không những họ nghiên cứu Kinh, thuyết giảng Luật, phổ biến Luận, mà họ c̣n cụ thể tham gia vào công tác định hướng chính sách, tổ chức các khóa tu Bát Quan Trai, xây cất chùa, quản lư tài chánh, đối thoại về các chủ đề thần học với các tôn giáo khác, v.v... Ngài Suzuki là một nhân vật Nhật Bản nổi tiếng đă đem đạo Phật đến cho người Tây-phương trong nhiều thập niên qua là một cư-sĩ có gia đ́nh. Ngài Tarthang Tulku, một vị sư Tây Tạng có vợ là một người Ai-Cập lai Pháp, xây dựng một cảnh chùa trị giá trên 100 triệu Mỹ-kim tại miền bắc California, Hoa-kỳ, mà nguồn tịnh tài có được, một phần nhỏ do việc phát hành sách mà ngài viết, số c̣n lại và nhân công xây cất là do cư sĩ Phật-tử Mỹ đóng góp.
Nhưng đối với Phật Giáo Việt-Nam qua nhiều năm gần đây, trong cũng như ngoài nước, chúng ta có một cấu trúc nhân sự Giáo hội rất lạ, rất thiếu quân bằng. Bốn chúng đệ tử Phật là Tăng, Ni, Nam cư-sĩ và Nữ cư-sĩ, nhưng nay chỉ c̣n hơn một chúng trong hầu hết các tổ chức lớn nhỏ của Giáo Hội. Thật vậy, cứ nh́n vào nhân sự của Giáo-Hội th́ sẽ thấy, tất cả các chức vụ hầu như do chư tăng phụ trách cả. Lác đác chỉ thấy vài vị Ni và vài cư sĩ với những phần vụ phụ thuộc hoặc trang trí mà thôi. Theo thống kê của nhà nước về phân bố giới tính, th́ số lượng nữ giới của dân số nước ta tăng nhanh hơn nam giới. Nhưng nh́n vào nhân sự điều hành của Giáo hội th́ Ni giới chỉ có một vai tṛ rất hạn hẹp và quá thiểu số so với tăng giới. C̣n thành phần cư sĩ, họ ít được Giáo-hội quan tâm, ngoại trừ các chương tŕnh cần đóng góp tịnh tài. Một số khác th́ chỉ được dùng vào việc làm hàng rào danh dự, nghênh tiếp chư tôn đức và sai vặt. Có lẽ đây là một trong số những lư do chính mà phần lớn hàng trí thức cư-sĩ ít đến chùa và họ đă phải tổ chức những đạo tràng riêng từng nhóm để tu học.
Qua những kinh nghiệm và thực trạng nêu trên, chúng ta thấy nếu Phật giáo Việt Nam muốn phát triển th́ các tổ chức giáo-hội cần phải có 4 chúng như cái ghế có 4 chân. Đối với hai chúng Phật-tử tại gia, cần dành một chức năng và một chỗ đứng cho cư sĩ trong cả ba vai tṛ hoạch định chính sách, trợ lư tổ chức và điều hành nhiều Phật sự th́ mới tạo thêm được những thuận lợi cho việc hoằng dương Phật-Pháp. Ngược lại, cái ghế chỉ c̣n một hoặc hai chân đứng c̣n chưa vững nói ǵ đến phát triển.
Ngoài ra, trong hàng Phật tử tại gia chúng ta nên đặc biệt quan tâm đến một thành phần trẻ trung khác đó là Gia Đ́nh Phật Tử chủ yếu v́ hai lư do chính:
a. Tre già măng mọc: Đây là thành phần kế thừa và tiếp nối các công tŕnh mà thế hệ phụ huynh để lại. Họ sẽ không thể gánh vác mà thậm chí c̣n có thể phá hoại những di sản quí báu của tiền nhân nếu không được hướng dẫn và đào tạo ngay từ lúc c̣n thơ những giá trị đạo đức và những kiến thức Phật-học. Do đó Giáo hội nên trang bị cho thành phần con cháu chúng ta một hành trang đạo lực và trí lực để bước đi trên con đường phụng sự Giáo-hội, phụng sự quốc gia, phụng sự nhân loại và phụng sự chúng sanh tức là phụng sự chư Phật.
b. Tránh phạm pháp và trở thành người tốt: Nếu những câu châm ngôn của Gia Đ́nh Phật Tử như “Em tưởng nhớ Phật. Em kính mến cha mẹ và thuận thảo với anh chị em. Em thương người và vật” và “Phật-tử qui-y Phật, Pháp, Tăng và giữ giới đă phát nguyện, Phật tử mở rộng ḷng thương và tôn trong sự sống, Phật-tử trau dồi trí tuệ và tôn trọng sự thật, Phật-tử trong sạch từ thể chất đến tinh thần, từ lời nói đến việc làm...” được thật sự thể hiện thành hành động cụ thể trong cuộc sống đời thường th́ cá nhân các em, gia đ́nh của các em, trường học của các em, Giáo Hội và dân tộc của chúng ta sẽ an lành biết mấy. Một đoàn thể với chủ trương đào luyện những con người trẻ như thế tại sao chúng ta lại thiếu quan tâm. Về phương diện tâm lư, những điều mà con người học được từ lúc c̣n nhỏ sẽ ở lại trong tâm họ lâu hơn là những điều học được lúc đă trưởng thành. Thống kê cho thấy những sa ngă của tuổi trẻ và những vụ tự tử thường xẩy ra vào ngày Chủ-nhật hơn là những ngày khác trong tuần. Do đó ngày Chủ-nhật con em chúng ta có môi trường không những để rèn luyện bản lĩnh mà c̣n để vui đùa và học hỏi thêm các điều thiện mà bậc phụ huynh v́ sinh kế nên thiếu chu toàn.
Gia Đ́nh Phật Tử đúng là nơi, phải là nơi, đáng tin cậy nhất để gởi con em đến. Nhưng rất tiếc, trong nhiều năm qua, v́ một số hệ lụy của các vị tôn trưởng, v́ thời cuộc và tâm t́nh chưa thông thoáng, nên đă có một số Gia Đ́nh Phật Tử không thể sinh hoạt b́nh thường được. Một vài nơi họ bị đuổi ra khỏi chùa và hành lễ ngoài sân trong cảnh trời mưa lạnh như có lần tôi thấy tại một chùa ở Đà-lạt. Một số khác th́ không được đến sinh hoạt tại chùa v́ có người gán cho họ là có liên hệ với người nước ngoài. Tại hải ngoại, một vài Gia Đ́nh Phật Tử không sinh hoạt dưới nhăn hiệu của Giáo-hội nầy hay Giáo-hội khác th́ họ bị gán cho là “thân Cọng”.
Kính thưa quí vị, những đứa con ngoan, những người dân tốt, sẵn sàng phụng sự cha mẹ và noi gương các bậc tiền bối để kế thừa sự nghiệp của chúng ta và họ sẽ hy sinh tánh mạng lúc nước nhà nguy biến để đuổi ngoại xâm như đuổi vịt chính là con em của chúng ta hôm nay. Họ sẽ là thế hệ tiếp nối công tŕnh mà chúng ta và tổ tiên đă dày công xây dựng. Xin tất cả chúng ta và mỗi một tự viện hăy mở ṿng tay chào đón và giáo dưỡng Gia Đ́nh Phật Tử để ṭa nhà Phật Giáo không những có đủ 4 chân mà c̣n là 4 chân khoẻ mạnh, vẹn toàn và có tiềm năng tăng trưởng.
3. Phật Vô Nam Bắc: Lục tổ Huệ Năng th́ dạy “Phật Vô Nam Bắc”, nhưng trong nhiều năm qua chúng ta h́nh như chỉ chú trọng đến những Phật tử tại thị thành mà lăng quên những người ở thôn quê, chỉ chú trọng đến những Phật tử tại miền xuôi mà lăng quên người mạn ngược, nhất là các vùng dân tộc thiểu số. Đồng bào sống ở miền Rẻo cao là một thành phần trong đại khối dân tộc. Nhưng thực dân Pháp, sau 1884, đă chia Việt Nam thành nhiều miền: Bắc Kỳ (Tonkin), Trung Kỳ (Annam), Nam Kỳ (Cochinchine) và miền cao nguyên như Kông-tum, Plei-ku, Đắc Lắc, Lâm Đồng, Di-linh, Đà Lạt họ đặt tên là Hoàng Triều Cương Thổ. C̣n vùng giữa biên giới Việt-nam và Trung-hoa, Giám-mục Puginier và Hội Truyền-Giáo cũng thành lập một khu vực tự trị khác để giúp chính phủ thực dân dễ biến Bắc-kỳ trở thành một nước Pháp nhỏ ở Viễn-đông. Chính sách thâm độc nầy là nhằm thiết lập nhiều quốc gia nhỏ trong một quốc gia lớn, chặt đứt t́nh đồng bào và dứt nghĩa t́nh đồng hương. Họ tạo cho dân chúng trong các vùng nầy có óc địa phương cát cứ chống đối lẫn nhau, đ̣i độc lập tự trị và theo ngoại bang. Trong các cuốn sách viết về Linh-mục A. de Rhodes, Nguyễn Trường Tộ, Trương Vĩnh Kư và Linh-mục Trần Lục, không những chúng tôi đă tiên đoán và báo động t́nh trạng nêu trên mà c̣n nói rơ 6 kế hoạch mà tôn giáo Tây Phương áp dụng tại đất nước ta. Chính phủ và nhân dân toàn nước đă có phản ứng, riêng Phật giáo cũng phải tiến hành những chương tŕnh huấn luyện để phân phối một số Tăng Ni thông thạo tiếng Trung-Hoa và tiếng các sắc dân khác để thuyết phục anh em đồng bào chúng ta biết thờ cúng tổ tiên, đừng bỏ tôn giáo dân tộc hay tín ngưỡng vật linh truyền thống của họ, và có trí tuệ sáng suốt để thấy được âm mưu xúi dục bạo loạn. Chương tŕnh nầy trước kia được cố Ḥa Thượng Thích Thiện Châu và Ḥa Thượng Thích Thiện Siêu tích cực quan tâm. Ngay từ những năm trước 1975, Ḥa Thượng Thiện Siêu đă từng phái những đệ tử của ngài lên truyền đạo trên đó.
Những Phật tử yêu nước đă gọi Phật là Phật Tổ Hồng Bàng Thị cũng chỉ v́ mối liên hệ khắng-khít giữa đạo Phật và Nước nhà. Đạo Phật yếu th́ tổ quốc cũng lâm nguy, và Tổ quốc nghiêng ngửa th́ đạo Phật cũng ngửa nghiêng theo. Bài học lịch sử gần gũi nhất là thời nhà Nguyễn, Nho giáo thịnh hành rồi kỳ thị Phật giáo, thêm vào đó là âm mưu diệt Phật giáo của các giáo sĩ Tây phương, (nhất là Giám Mục Bá Đa Lộc, cố vấn đặc biệt và là cánh tay phải của vua Gia-Long) nên Việt Nam đă bị Tây Phương xâm chiếm và bị đô hộ gần cả trăm năm dưới bóng thập ác và lá cờ Tam-tài.
Tại Ấn Độ, thời vua A-dục, Phật giáo được thịnh hành th́ quốc gia Ấn Độ cũng trải qua một triều đại huy hoàng chưa từng có trong lịch sử Ấn. Nhưng các triều đại tiếp theo, Phật giáo suy vi v́ không được các triều vua quan tâm nên sau đó, Hồi giáo đă có thể xâm lăng và thẳng tay phá chùa giết tăng chúng, đẩy Ấn-Độ vào trạng huống từ bất ổn đến nghèo đói từ đó cho đến nay.
Tại Trung-Hoa thời nhà Đường, Phật-giáo rất thịnh hành và cũng mang theo sự thịnh hành của đất nước. Nhưng về sau bị Nho giáo lấn át rồi bị Tây-Phương xâu xé.
Ba biến cố lịch sử kể trên đă xác nhận một quy luật: Phật giáo và Dân tộc th́ không thể phân ly. Giáo Hội Phật-giáo và Nhà nước Việt Nam nên rút tỉa bài học vừa vinh quang vừa tủi nhục của ba biến cố ấy.
4. Tánh, Tướng, Chấp, Danh: Trước năm 1975, Phật Giáo tại miền Nam đă bị lũng đoạn phân hóa thành hai tổ chức là Việt Nam Quốc Tự và Ấn Quang. Đó là điều đau ḷng cho phật tử. Phật tử chúng ta được chư tôn đức dạy phép Lục Ḥa th́ chính một vài vị lại không sống với lời dạy đó. Nước nhà ḥa b́nh thống nhất, ai cũng cứ tưởng rằng vết thương đau nhức ấy chắc sẽ lành và không bao giờ c̣n tiếp diễn nữa. Nhưng niềm hy vọng ấy dần dà bay theo gió núi mây ngàn.
Từ năm 1992, Phật Giáo Việt Nam lại có hai danh xưng là Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam và Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Đâu là những trở ngại do những danh xưng đó có thể gây ra? Chúng tôi sẽ không đào sâu v́ quư vị có lẽ cũng đă biết rồi, mà chỉ xin kể hai chuyện đau ḷng để quư vị suy ngẫm:
- Năm 1993, tôi đi xe đ̣ từ Đà Nẵng ra Huế, bác tài xế trên xe là một phật tử và v́ biết tôi cũng là một người đồng đạo từ xa về nên bác tâm sự rằng: “Mấy năm trước, địa phương Đà Nẵng chúng tôi tổ chức Phật Đản rất vui. Chỉ cần một phiên họp, quí thầy cắt đặt đạo hữu chúng tôi mỗi người lo một việc thế là xong. Năm nay đă 3 đêm họp liên tiếp rồi nhưng chưa có kết quả. V́ trong buổi họp có hai ư kiến khác biệt nhau. Một số th́ đề nghị làm dưới danh xưng của giáo hội có chữ thống nhất, số khác th́ bác bỏ. Chỉ v́ mấy chữ “thống nhất” và “không thống nhất” mà không khí buổi họp trở nên rất căng thẳng và Đà Nẵng năm nay sợ e sẽ không có lễ Phật Đản..."
- Mấy năm sau đó, tôi đến thăm một ngôi chùa tại vùng cao nguyên. Tuy là ngày Chủ nhật nhưng tôi chẳng thấy bóng dáng những em Gia Đ́nh Phật Tử đến sinh hoạt như trước năm 1975. Sau đó, tôi bèn hỏi một số cựu huynh trưởng th́ được mấy vị đó trả lời là “Chúng tôi đợi lúc nào Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được phục họat rồi chúng tôi mới sinh hoạt trở lại”. Tôi than thở, liệu 50 hoặc 70 năm nữa Giáo Hội Thống Nhất mới tái sinh hoạt th́ sao, mấy vị đó yên lặng không trả lời.
Người Phật tử được dạy phải bỏ tánh, bỏ tướng, bỏ chấp, bỏ danh. Nhưng nay chỉ v́ có hay không hai chữ “Thống Nhất” mà một số sinh hoạt Phật sự bị ngưng trệ.
Danh xưng hầu như không có ảnh hưởng trong những sinh hoạt của Phật giáo trong mấy năm qua tại hải ngoại. Thật vậy, từ hơn hai mươi năm qua, người Phật tử Việt-nam nước ngoài tha hồ truyền đạo và hành đạo với bất cứ danh xưng nào, thành lập bất cứ giáo hội nào mà ḿnh muốn. Nhưng b́nh tâm nh́n lại thành quả th́ có lẽ phải nhận rằng phần lớn tâm sức và tiền tài đều hoặc dồn vào việc thi đua làm chùa, hoặc tiến hành những hoạt động chống đối mà phần lớn là phe ta chống phá phe ḿnh, hoặc trúng kế xui Nguyên dục Bị chỉ làm lợi cho các thế lực đă và sẽ thù nghịch với cả Phật giáo lẫn Tổ Quốc Việt Nam.
Nhiều nơi trong nước mà tôi có dịp biết qua, chỉ v́ bị trói bởi hai chữ “Thống Nhất” mà một số nhân sự Phật giáo nằm chờ thời chứ không chịu làm việc. Số khác th́ chủ yếu tập trung vào các đô thị, c̣n vùng quê và nhiều nơi nghèo đói th́ khoán trắng cho Công giáo. Riêng tại Cao nguyên th́ hoàn toàn bỏ ngơ cho Tin Lành, mà hậu quả hiện nay như thế nào th́ mọi người đă biết. Chúng ta có thể tóm lược sự tai hại nầy bằng 4 câu thơ chữ Nho của ngài Qui-Thiện như sau:
Do lai duật bạng cửu tương tŕ,
Để sự tang thương vị liễu tri.
Bán chẩm hoàng lương kinh mộng hậu,
Tiền trần hội thủ sự giai phi.
(Có nghĩa: Nghêu c̣ kém trí, thợ săn thậm mừng).
5. Thi Đua Làm Chùa: Tại các nước Tây Phương, việc quy định vị trí và công tác xây cất nhà thờ đều căn cứ trên nhu cầu tôn giáo và tỷ lệ phân bố số lượng tín hữu của từng địa phương. Một vùng phải có bao nhiêu tín đồ th́ mới được phép dựng một ngôi nhà thờ. Tại Việt Nam, nguyên tắc nầy hầu như không được cả nhà nước lẫn các Giáo hội áp dụng. V́ vậy mà có nhiều vùng nhà thờ đồ sộ mọc lên quá loạn trước sự nghèo đói của dân chúng. Riêng đối với Phật giáo, một số ít Tăng Ni trẻ cũng bắt chước tôn giáo khác trong việc lạm phát xây chùa ở những nơi đă có nhiều chùa rồi. T́nh trạng phân bố bất hợp lư nầy không những làm cho chính sách hoằng dương Phật Pháp thiếu hiệu năng, mà c̣n bất chấp cả lời dạy từ bi của Đức Phật là mang đại sự nhân duyên đến cho tất cả chúng sinh.
Thêm vào đó, làm nhà thờ và làm chùa đôi lúc rất bừa băi, không xin phép, không theo một nguyên tắc kỹ thuật và mỹ thuật tối thiểu nào cả nên bị chính quyền bắt phải tự tháo gở hoặc bị tháo gở. Nếu sự việc nầy xẩy ra th́ họ lại hô hoán là “không có tự do tôn giáo” và “vi phạm nhân quyền”! Tại chính các nước Tây Phương như Hoa Kỳ, việc làm chùa, làm nhà thờ hoặc xây cất mà không có giấy phép và không đủ tiêu chuẩn an toàn cũng sẽ bị đ́nh chỉ, thậm chí c̣n phá đi và chủ xây cất phải chịu trả tiền phạt. Nhưng không thấy ai hô hoán là thiếu tự do tôn giáo và thiếu nhân quyền bao giờ. Do đó, thay v́ thi đua làm chùa ở một vài nơi tại Việt-nam và nhiều nơi khác ở hải-ngoại mà xem ra có nhiều vùng không cần thiết, chúng ta nên thi đua tu học và đóng góp vào các công tŕnh văn hoá và công tác từ thiện xă hội v.v...
Để đối phó với t́nh trạng hết lạm phát Tăng Ni ở vài đô thị lớn lại đến nạn lạm phát chùa ở một số vùng, Giáo hội nên điều hướng việc trùng tu và xây dựng hệ thống chùa vào những vùng sâu, vùng xa, vùng cao nguyên, vùng quê hẻo lánh và đặc biệt là nên trùng tu các chùa làng; những di tích văn hóa bị bỏ quên, Giáo hội nên ban hành các nguyên tắc hướng dẫn và qui-định tối thiểu để tránh sự phí phạm tịnh tài của Phật tử đóng góp và tránh nạn tăng ly chúng tăng tàn.
6. Đưa Phật Sự Vào Xa Lộ Công Nghệ Thông Tin: Trên cả hai lănh vực điều hành Giáo hội và tiếp cận/xử lư thông tin của nhân loại, các phương tiện hiện nay mà Giáo Hội đang sử dụng th́ không phù hợp nữa, thậm chí không tương dụng với các đối tác của Giáo hội vốn là phật tử và các định chế tôn giáo trên thế giới. Thật ra, sản phẩm của công nghệ thông tin đă phổ quát và đơn giản đến độ không hiểu vẫn dùng được (như khách sử dụng máy bay mà không cần biết máy bay đă được thiết kế và gia công như thế nào).
Thiết lập một hệ thống mạng lưới tin học cho Giáo hội không phải là chuyện khó, lại cũng chẳng phải là chuyện cần vốn đầu tư lớn, mà hiệu quả sẽ tăng lên cả ngàn lần và ứng dụng của nó th́ vô cùng. Từ tích lũy tài liệu đến phân bố kinh sách, từ điều hành nhân sự đến phổ biến thông tin, từ kiểm tra tài chánh đến xử lư công tác. Hai điều lợi nhất của hệ thống nầy là làm chủ thời gian thật, và khống chế không gian theo ư muốn: Một vị Trụ tŕ ở Cao Bằng có thể biết ngay tức khắc có bao nhiêu phái đoàn tham dự một Đại hội Phật giáo tại Paris, một Ủy viên trung ương của Giáo hội ở Hà Nội có thể biết được và xử lư kịp thời một nhu cầu tài chánh của một ngôi chùa tại Sóc Trăng, một nhà nghiên cứu Phật học của một viện đại học Mỹ có thể đọc được thơ của Vua Trần Nhân Tôn, ...
Từng bước đầu tư có hệ thống vào hệ thống công nghệ thông tin của Giáo hội là tăng tốc phát triển một cách an toàn và hiện đại. Và quan trọng hơn, là không bị thời đại và nhân loại bỏ lại đàng sau.
7. Chương Tŕnh Giáo Dục Tăng Ni Tại Các Trường Cơ Bản Và Cao Cấp: Như chúng ta đă biết, đạo Phật không phải là những giáo điều cứng nhắc và xa vời với thực tế. Đạo Phật không nói chuyện trên trời mà nói chuyện con người. Mục tiêu chính của độc thần giáo là phụng sự Chúa, c̣n đạo Phật th́ phụng sự chúng sanh. Giáo lư của Phật là cái ǵ có thể nắm bắt và thực chứng. Do đó, chương tŕnh giáo dục Tăng Ni trong các trường cơ bản và cao cấp Phật-học phải được hoạch định để giá trị bằng cấp của các trường Phật giáo phải được chính thức thừa nhận, nếu không cao hơn th́ cũng có giá trị tương đương với các trường khác hầu giúp cho Tăng Ni sinh không cần phải theo đuổi một lúc 2 chương tŕnh là chương tŕnh cao đẳng của trường Phật học và chương tŕnh của một đại học ngoại điển khác ở bên ng̣ai.
Muốn giỏi th́ sinh viên nên được hướng dẫn và khuyến khích chọn những môn học mà ḿnh thực sự có năng khiếu, chứ không nên một lúc ôm đồm học nhiều môn th́ sẽ không học được ǵ cả.
Để có thể đạt được mục đích nâng cấp giá trị văn bằng của các trường Phật giáo, uỷ viên giáo dục của Giáo-hội nên có một chương tŕnh giáo-dục tốt, tổ chức và tạo điều kiện cho ban giảng huấn tham gia các chương-tŕnh tu nghiệp và hội thảo về giáo-dục, trong đó quy tụ nhiều chuyên viên và các nhà giáo dục có tiếng trong nước và nước ngoài để tạo cơ hội cho ban giảng huấn trao đổi và học hỏi thêm kinh nghiệm giảng dạy.
8. Học Hàm Thụ: Mấy năm gần đây H. T. Thích Trí Quảng và báo Giác Ngộ có tổ chức chương tŕnh học hàm thụ, đó là một trong những điểm son cần được tán thán công đức. Giáo-Pháp của Phật là một món hàng vô giá, nhiều phật tử không đủ phương tiện và điều kiện để đến trường Phật học th́ chương tŕnh hàm thụ là một đáp ứng cần thiết. Những người hiểu và thực hành lời dạy của Phật sẽ trở thành những công dân tốt góp phần dựng nước và giử nước. Thời Lư Trần, vịêc dựng nước và giữ nước đều dựa trên căn bản học đạo và hành đạo từ vua quan đến dân chúng, v́ thế mà quân Nguyên Mông bị đuổi đi như đuổi vịt. Đó là một trong những nét vàng son cần được duy tŕ và phổ triển. Các lớp học hàm thụ không những chỉ được tổ chức tại các thành thị mà nên mở rộng khắp các tỉnh, thành và làng mạc để mỗi người Phật Tử luôn luôn vẫn là những con người có đạo lực cao trong việc hộ quốc an dân cho mọi thời đại.
9. Hiện Đại Hóa Danh Từ Phật Học: Phật là gương sáng trong việc thích ứng phương thức quảng diễn chánh pháp. Ngôn từ và cách thế thuyết pháp của Đức Phật đổi thay tùy theo hoàn cảnh và căn cơ người thọ nhận. Chúng ta đă bỏ chữ Hán sang chữ Nôm, rồi bỏ chữ Nôm sang mẫu tự La-Tinh. Ngoài ra, một điều đáng lo cho những người Việt lưu vong, và nhất là con em người Việt lưu vong, là chúng ta đang bỏ tiếng Việt để dùng tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Nga... Phật Giáo Việt Nam - ở hải ngoại cũng như trong nước - phải đối phó với hiện tượng đa ngôn ngữ ấy như thế nào? Những kinh văn nặng nề Hán Việt như chú Văng-sanh, Tiêu Tai Cát Tường Thần chú, chú Đại Bi và ngay cả kinh Nhật-Tụng cũng thiếu sự thống nhất. Có rất nhiều cuốn kinh tụng hằng ngày được lưu hành, mỗi chùa dùng một bản khác nhau, đă tạo rất nhiều trở ngại cho việc đọc tụng của tín đồ.
Ngoài ra nhà Phật chủ trương như thế nào và phật-tử phải có thái độ như thế nào về quản lư kinh tế thị trường và tự do mậu dịch, về môi sinh, về nền văn hóa thụ hưởng chết bỏ, về những hậu quả của văn minh dot.com đối với tâm linh, về thực phẩm cải biến, về gene, về cloning, về phá thai, về trợ tử. Dĩ nhiên, người phật-tử tin tưởng ḿnh thuộc vào một tôn giáo vượt lên trên khoa-học và đạo pháp vi diệu miên viễn sẵn có những câu trả lời thích đáng cho từng câu hỏi đó, bởi lẽ thời nào đi nữa th́ thế giới cũng không thể vận hành ra ngoài ṿng Sinh-Trụ-Dị-Diệt, cũng như con người không thể thoát khỏi con đường cong một chiều Sinh-Lăo-Bệnh-Tử. Nhưng ngôn từ của trăm năm trước, của mười năm trước và bây giờ đă khác nhau. Cho nên, không trả lời - hay không nghĩ đến cách trả lời - cho những câu hỏi đó th́ văn học Phật giáo không khéo sẽ trở thành văn chương không phải của Nguyễn Du, Phạm Thiên Thư, Trịnh Công Sơn, mà là văn chương của Nhị Độ Mai, Cung Oán Ngâm Khúc, hay của Nguyễn đ́nh Chiểu chỉ gần gũi với những chuyên viên Hán-Nôm mà không gần gũi với đại chúng.
10. Trung Tâm Văn Hóa Có Tầm Cỡ: thư khố trung ương và viện bảo tàng Phật giáo - Dưới danh xưng nào th́ ngày 30.4.1975 cũng là cơ may cho Phật giáo thống nhất thật sự. Mọi ư thức phân rẽ cục bộ sẽ bị hồn thiêng sông núi và đạo lực của truyền thống Phật giáo Việt Nam hóa giải.
Nhiều ngàn năm qua Phật giáo Việt-Nam đă xây dựng được những ngôi chùa nguy nga đồ sộ, nhưng kiểu đồ sộ xưa tuy có giá trị lịch sử và văn hóa cao nhưng lại thiếu tiện dụng cho các hoạt động hôm nay. Nếu có một cuộc đại hội Phật-giáo toàn quốc hay đại hội Phật-giáo thế giới với số lượng khoảng một ngàn người ngay cả chỉ có 500 người, chúng ta cũng thấy trở ngại về pḥng họp, pḥng ăn, pḥng vệ sinh, về tổ chức, về kiểm soát, về điều hành. Do đó, thay v́ thi đua làm các ngôi chùa nhỏ, mà nhiều nơi lại không cần thiết, Giáo-hội nên nghiên cứu chương tŕnh xây cất một cơ sở Phật-giáo có tầm cỡ của Thế-kỷ 21 trên một khoảng đất rộng tối thiểu vài chục mẫu. Trong đó gồm một thư khố Phật-học, một viện bảo tàng Phật giáo, một pḥng họp hiện đại, pḥng ngồi thiền có thể chứa đựng vài ngàn người cùng một lúc, pḥng ẩm thực, công viên, thiền cảnh... Chia ra khu tĩnh, khu động. Ngay cả trong công tŕnh nầy cũng nên nghiên cứu xây cất một khách sạn hay lưu xá vài trăm pḥng để làm nguồn lợi tức cho việc hoằng dương Phật Pháp thay v́ nhất nhất mọi việc đều kêu gọi vào sự đóng góp của tín đồ. Mỗi phật tử hay mỗi gia đ́nh Phật giáo trong và ngoài nước có thể được mời vào ban sáng lập bằng sự cúng dường một khoản tiền nào đó cho việc xây cất cơ sở nầy. Phải chăng đây là thời gian đúng lúc, đúng thời để đại hội thảo luận thêm vấn đề này?
Kính thưa quư vị, thời vua A-Dục tại Ần-Độ, thời nhà Đường tại Trung-Hoa, thời Lư-Trần tại Việt-Nam, hộ tŕ chánh pháp là công việc của các vua quan và đại thần với sự đồng thuận của mọi giai tầng xă hội, nhờ thế mà dân giàu nước mạnh, xă hội thái b́nh. Những bài học lịch sử đó phải chăng cần được tất cả người dân Việt ư thức và chiêm nghiệm để phụng sự tổ quốc tốt đẹp hơn, và lúc sơn hà nguy biến th́ có thể đuổi kẻ xâm lăng như đuổi vịt.
Chúng ta đang ở trong những ngày cuối cùng của năm 2002. Chỉ c̣n mấy tuần nữa là đến năm 2003. Một số ư kiến thô thiển của chúng tôi hôm nay xin được tŕnh lên chư Tôn-Túc, quí đại biểu, quí vị khách quí và chư phật tử trong truyền thống “phục vụ Dân Tộc trong ánh sáng của Đạo Pháp và phục vụ Đạo Pháp trong hoàn cảnh cụ thể của Dân Tộc.”
Ai rồi cũng phải ra đi, không thể ở măi trên thế gian nầy. Vậy th́ xin gởi lại những ǵ đẹp cho nhân thế. Vâng chúng ta nên cố gắng.
Xin cám ơn và trân trọng kính chào liệt quí vị.
Hồng-Quang
29-11-2002