LÂM NHƯ TẠNG
Sinh năm 1943 tại Quảng Ngăi .
Năm 1967 tốt nghiệp Cao Đẵng Phật Học tại Phật Học Viện Huệ Nghiêm , Saigon.
Đậu Tú Tài hai năm 1968. Sinh viên Đại Học Luật Khoa Saigon và Phật Khọa tại Đại Học Vạn Hạnh .
Tháng 12 năm 1969 du học Tokyo, Nhật Bản.
Năm 1975 tốt nghiệp cử nhân Kinh Tế Chính Trị học tại Đại Học Meiji , Tokyo, Nhật Bản.
Năm 1977 tốt nghiệp Phó Tiến Sĩ Chính Trị Học (Master’s Degree in Political Science) tại Đại Học Meiji, Tokyo, Nhật Bản.
Năm 1983 tốt nghiệp Tiến Sĩ Chính Trị Học (Doctor of Philosophy in Political Science) tại đại học Meiji, Tokyo, Nhật Bản. Nghiên cứu về so sánh hiến pháp tại đại học Tokyo, Nhật Bản.
Năm 1986 định cư tại Sydney, Úc Đại Lợi. Nghiên cứu về hiến pháp và chính trị Úc Đại Lợi tại đại học Sydney.
Tất cả những bằng cấp tại Việt Nam và tại Nhật Bản được chính phủ Úc Đại Lợi công nhận tương đương với bằng cấp tại Úc.
Năm 1990 Đậu hai bằng thông dịch: (Việt - Anh, Anh - Việt) và (Nhật - Anh, Anh - Nhật).
Từ năm 1987 đến hiện tại làm việc tại Bộ Tư Pháp của tiểu bang New South Wales, Úc Đại Lợi.
Giảng Sư thỉnh giảng tại Đại Học New South Wales, Sydney, Úc Đại Lợi.
Phó Tổng Vụ Trưởng Tổng vụ Văn Hóa Giáo Dục thuộc Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTN Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan.
Những tác phẩm chính :
1- So Sánh Hai Chế Độ Chính Trị của Anh và Hoa Kỳ - Tokyo 1977 (bằng tiếng Nhật) .
2- Tự Điển Vietnamese – Japanese – Ede (Lâm Như Tạng và T. Shintani etc.) – Tokyo 1981 .
3- Nghiên Cứu về Điều Chín Hiến Pháp Nhật Bản - Tokyo 1983 (tiếng Nhật).
4- Những Đặc Điểm Trong Phương Pháp Quản Lư Xí Nghiệp tại Nhật Bản - (bằng tiếng Việt và tiếng Anh) - Sydney 1988. v.v…
5- Thức Thứ Tám (xuất bản tại Đức Quốc 2005), nhà xuất bản tổng hợp Saigon tái bản 2006.
6- Đang viết về Sử Phật Giáo Nhật Bản và Tịnh Độ Pháp Môn Luận.
Về thơ :
7- Gởi Về Quê Mẹ - Tokyo 1978.
8- Hạnh Phúc Từ Đây (Như Tạng và Ngọc Bích) – Tokyo 1982.
9- Những Bước Thời Gian – Tokyo 1984. (CD do Hồng Vân ngâm thơ)
10- Trọn Vẹn Một T́nh Yêu – Sydney 1991. (CD do Hồ Điệp ngâm thơ )
11- Con Đường Cảm Thông (truyện thơ) . Sydney 1996. (2CD do Hồng Vân, Mai Hiên, Ngô Đ́nh Long ngâm thơ)
12- Trên Nửa Đời Đi (xuất bản tại Đức Quốc năm 2004). (2CD do Thúy Vinh, Hồng Vân, Đ̣an Yên Linh, Ngô Đ́nh Long, Tô Kiều Ngân ngâm thơ).
13- Đi Giữa Rừng Mơ (sẽ xuất bản).
Hiện đang cọng tác với các báo Viên Giác tại Đức Quốc và Pháp Bảo tại Sydney; các trang mạng trên Intertnet như: quangduc.com, viengiac.net, buddhismtoday.com, exryueurope.free.fr, v.v...
oOo
LỐI HOA VÀNG
Nắng không xế
Trời vẫn trưa vàng rực
Ḍng sông xanh chưa cạn nước bao giờ
Hoa vẫn nở hương thơm ngào ngạt tỏa
Nguyện vẫn dài qua khắp nẻo ước mơ
Gặp em đây
Trong thế giới Hoa Vàng
Mơ mấy cơi
Thấy người về sum họp
Tay nắm chặt tay
Thấy ḿnh không có tuổi
Trong hơi thở rời xa cát bụi
Với tiếng cười trong suốt nẻo vô minh
Không lời nói mà pháp âm vang dội
Không câu ca mà nhạc trỗi quanh ḿnh
Không đốt lửa mà hào quang vô lượng
Không nói yêu, nhưng yêu cả hữu t́nh
Ṿng tay ngọc
Có Đen, Vàng, Đỏ, Trắng
Vẫn rộng dài vươn khắp cả nhân gian
Cùng ngồi xuống
Có bao lời chưa nói
Đă thành văn
Thành nếp sống Đạo Vàng
Sông uốn khúc
Thác ghềnh, đá tảng
Nước không dừng
Đượm mát vẫn ḍng trôi
Cây cỏ vọng
Mưa rơi chừng đáp lại
Hoa ửng vàng lan rộng măi không thôi
Ḷng hoan hỷ
Trước Phật Đài qú xuống
Không thời gian
Không cả khoảng không gian
Từ vạn hạnh đă qui về một mối
Muôn vạn nẻo đêm đen
Giờ rực lối hoa vàng.
HOA ĐÁ
Ta về, em vẫn chưa về kịp
Gió hú chiều hoang có vọng về
Mây tan từng mảnh đời phiêu bạt
Nắng rám môi người mộng tái tê
Quê cũ c̣n trơ hai mộ ốm
Hoa gầy ong bướm cũng gầy lan
Sông cạn ḍng đi vào cát cũ
Đồi dương trơ trọi đứng xiêu hàng
Núi cũng chờ ta đầu bóng xế
Mây chiều áo mỏng gió đi hoang
Nắng măi xa hoài sương bỡ ngỡ
Rơi rơi từng vị đắng thời gian
Thu nay về nữa người đâu nhỉ
Chỉ thấy hoa khô lá úa vàng
Đá đă ṃn hơi, thuyền lỗi bến
Em về trong giấc mộng chưa tan.
oOo
PHÂT GIÁO TỪ ẤN ĐỘ
TRỰC TIẾP TRUYỀN VÀO VIÊT NAM
NHƯ THẾ NÀO
A. Bề Lưng của bán đảo Ấn Trung:
Việt Nam là cái lưng của bán đảo Ấn Trung, vị trí của bán đảo nầy nằm giữa Ấn Độ và Trung Hoa. V́ địa thế nằm giữa hai nước lớn có nền văn hóa cổ xưa nhất của nhân loại nên đương nhiên Việt Nam có ảnh hưởng cả hai nền văn hóa đó, kể cả tôn giáo.
Từ phương Bắc, Trung Quốc đă tràn xuống chiếm cứ đất đai với âm mưu đồng hóa dân Việt, biến Việt Nam thành một phần lănh thổ của họ. Do đó dân Việt chiến đấu không ngừng để sống c̣n và giữ ǵn sự độc lập của ḿnh, thế nhưng không tránh khỏi sự ảnh hưởng qua lại về ngôn ngữ, văn hóa và tôn giáo...
Từ phía Tây, Ấn Độ trong cao trào bành trướng văn minh văn hóa, tôn giáo của họ ra các nước chung quanh có tính cách ôn ḥa, ḥa b́nh, v́ lúc đầu chỉ là mục đích giao thương qua lại, sau đó nhờ giáo lư cao sâu bất bạo động của Phật giáo đă đi vào ḷng người một cách tự nhiên, dễ dung hợp với các nền văn hóa địa phương. Do đó người Ấn Độ đă gây được ảnh hưởng rất sâu rộng ra các nước chung quanh. Bằng chứng cho thấy rằng Phật giáo có số tín đồ đông nhất trên thế giới hiện nay.
Từ trước đến nay có rất nhiều giả thuyết về thời điểm và phương hướng của sự du nhập Phật giáo vào Việt Nam. Thông thường có nhiều sách sử cũ tin rằng Phật giáo từ Trung Hoa truyền vào Việt Nam. Điều đó không đúng.
Khởi nguyên Phật giáo Việt Nam phải nói là được thương nhân theo đạo Phật và các Tăng sĩ người Ấn Độ trực tiếp truyền vào Việt Nam.
Sau đây xin được dẫn chứng các dữ kiện lịch sử, các tài liệu để minh chứng những tuyến đường và thời điểm du nhập của Phật giáo từ Ấn Độ vào Việt Nam.
B. Phương cách và các tuyến đường du nhập:
Sau khi b́nh phục được toàn cơi Ấn Độ, vua A-Dục (Asoka) lên ngôi năm 273 trước Tây lịch làm vua được 37 năm. Ông là một Phật tử rất thuần thành trị nước an dân bằng tinh thần Bi Trí Dũng của Phật Giáo. Ấn Độ dưới thời ông trị v́ rất thái b́nh thịnh vượng. Ông rất hăng say trong việc chấn hưng Phật giáo nên đă cho dựng trên 84.000 tháp thờ Phật trên toàn cơi Ấn Độ. Đồng thời nhà vua cũng cho dựng vô số những trụ đá tại những nơi di tích của Đức Phật như tại vườn Lâm Tỳ Ni nay nằm trong địa phận nước Nepal nơi Đức Phật đản sanh, tại Bồ Đề Đạo Tràng nơi Đức Phật thành đạo, tại Lộc Uyển nơi Đức Phật thuyết pháp lần đầu tiên, tại rừng Ta La Song Thọ nơi Đức Phật nhâp Niết Bàn...
Nhờ những trụ đá A-Dục các nhà khảo cổ mới xác định được một cách rơ ràng các thánh tích của Đức Phật. Ngoài ra các nhà khảo cổ c̣n t́m được 35 di tích ngự chỉ có đánh số của vua A Dục dặn ḍ con cháu mai sau phải tiếp tục phụng thờ Đức Phật và phát huy truyền bá Phật Pháp. Trong số đó có ngự chỉ số 4 t́m được tại núi Kandahar ngày nay thuộc địa phận Afghanistan có ghi những lời dạy của nhà vua là phải tổ chức đại lễ Phật Đản hằng năm cho trọng thể và truyền bá lời dạy của Đức Phật đến mọi người... Ngự chỉ số 6 được t́m thấy tại núi Gimar miền tây Ấn Độ có ghi rơ hơn lời dặn về việc phụng thờ Đức Phật bằng cách tổ chức rước tượng Đức Phật và di tích trọng thể trong ngày đản sanh...
Sử Tích Lan (Sri-Lanka) Mahavamsa có ghi rằng vua A Dục (Asoka) cho Hoàng tử Mahinda qua Tích Lan để truyền bá Đạo Phật và kể từ đó về sau mỗi năm đại lễ Phật Đản được tổ chức trọng thể. Mặc dầu Tích Lan đă bị Anh xâm lăng và bị áp lực của hội truyền giáo Thiên Chúa Tây phương bỏ ngày lễ Vesak từ năm 1815 nhưng Phật tử Tích Lan đă tranh đấu và đă có lại được ngày nghỉ lễ Phật Đản từ ngày 17.4.1885. Kể từ đó Đạo Phật rất hưng thịnh tại đảo quốc nầy.
Từ phong trào chấn hưng Phật giáo dưới thời vua A Dục, Phật giáo có đầy đủ năng lực, nhiều nhân tài trí thức kể cả Phật tử tại gia và nhiều trí thức lỗi lạc thuộc hàng tăng lữ nên đă là thuận duyên cho việc truyền bá đạo Phật ra nước ngoài.
Nói tiếp từ thời A Dục, theo nhiều sử liệu được kiểm chứng cho thấy rằng vào thế kỷ thứ hai trước công nguyên tại Ấn Độ có tư trào Phật giáo Đại Thừa rất phóng khoáng, rất năng động, rất hăng say hoạt động truyền giáo trong nước và truyền sang nước ngoài nhất là theo đường biển truyền sang các nước chung quanh.
Sự truyền bá Đạo Phật từ Ấn Độ cùng trong tư trào truyền bá văn minh Ấn ra các nước chung quanh. Trong thập hùng ca Ramayana của Ấn Độ có nói đến tên các xứ như Sumatra, xứ của vàng (Suvanna Bhumi), Java...
Theo các tư liệu của W. Cohn trong Buddhha in der Kunst des Ostens, Leipzig 1925; F.M. Schnitger trong The Archaellogy of Hindoo Sumatra, Leyde 1937 và G. Ferrand trong tạp chí Journal Asiatique Juillet - Aout 1919... Người ta đă t́m thấy các ḍng chữ Sanskrit của Mulavarman tại các vùng Kutei ở Borneo và các bia đá khắc chữ Sanskrit của Purnavarman ở Tây Java. Các tượng Phật thuộc trường phái Amaravati được t́m thấy ở Sampaga (Célèbes) phía nam tỉnh Giember (Đông Java) trên đồi Se Guntang ở Pelembang (Sumatra) là xưa nhất có thể là trước công nguyên. Do đó người ta đă kết luận rằng những bước đầu văn minh và tôn giáo từ Ấn Độ đă truyền qua Indonesia phải xảy ra trước công nguyên. Do đó hệ luận đương nhiên là nền văn minh và tôn giáo từ Ấn Độ xuôi buồm đến Giáo Châu cũng cùng thời điểm và cùng đi theo đường biển lên phương Bắc.
Văn minh và tôn giáo từ Ấn Độ cũng đă truyền qua Mă Lai tại các vùng như Perak, Xêlebơ..., qua Thái Lan, Campuchia, Miến Điện... Tại Campuchia các nhà khảo cổ đă t́m thấy được 4 bia đá có khắc chữ Sanskrit.
Theo V. Rougier trong sách Nouvelles Découvertes Chames au Quang Nam, Befeo XI, đă viết rằng các nhà khảo cổ đă t́m thấy tượng Phật Đông Dương một trong những tác phẩm điêu khắc đẹp nhất thuộc trường phái Amaravati Ấn Độ. Điều nầy cho thấy chính người Ấn Độ đă truyền đạo Phật thẳng vào Việt Nam chứ không phải từ Trung Hoa truyền vào.
Theo H.G. Quaritch Wales trong A. Newly Explored Route of Ancient Indian Cultural Expansion Indian Art and Letters, các nhà truyền giáo và thương nhân người Ấn c̣n dùng những con đường vừa thủy vừa bộ từ nam Ấn thay v́ phải qua eo biển Malacca về phía nam xa xôi họ đă qua eo đất Kra và bán đảo Mă Lai, họ có thể vượt mấy tiếng đồng hồ đường bộ là có thể từ biển Ấn Độ để vào biển Mă Lai. Họ dùng thủy đạo giữa Andaman và Nicobar, hoặc dùng thủy đạo giữa Nicobar và Achin để đến Kedah, tại những địa điểm nầy các nhà khảo cổ đă t́m thấy nhiều đồ vật cổ của nền văn minh Ấn Độ. Họ tiếp tục đường bộ nầy đến Thái Lan, Campuchia và vào Việt Nam.
Đồng thời những người Ấn phát xuất từ Trung Ấn c̣n dùng tuyến đường bộ ngang qua đèo Hasse Des Trois Pagodes, theo sông Kanburi xuống châu thổ sông Menam, từ đó đến sông Mekong qua đất Lào rồi vào Thanh Hóa, Nghệ An và đến Luy Lâu của Giao Châu. Trên tuyến đường nầy các nhà khảo cổ cũng đă t́m được các cổ vật của nền văn minh Ấn Độ và di tích Phật giáo.
Về Thiền Tông nếu phân tích các văn thơ thiền sớm nhất tại Việt Nam như các ḍng thiền thuộc hệ Tỳ Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci, năm sanh không rơ nhưng Sư mất năm 594, Sư người miền nam Ấn Độ, qua Việt Nam truyền bá Thiền tông. Thiền sư hành đạo tại chùa Pháp Vân thường gọi là chùa Dâu tại Luy Lâu hiện nay vẫn c̣n tại xă Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc. Đây là một trong những ngôi chùa được thành lập sớm nhất tại trung tâm Phật Giáo Luy Lâu) và ḍng thiền Vô Ngôn Thông (năm sanh không rơ, chỉ biết Thiền sư mất năm 826) chẳng hạn ta thấy rơ ràng là trực tiếp ảnh hưởng tư tưởng Bát Nhă từ Ấn Độ.
Trong sách Thuyền Uyển Tập Anh, có ghi đoạn văn Thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi gọi đệ tử Pháp Hiền bảo rằng:
"Đại phàm tâm ấn của chư Phật không lừa dối ta. Tâm ấn tràn đầy như thái hư, không thiếu, không thừa, không đi, không tới, không được không mất, chẳng một chẳng khác, chẳng thường chẳng đoạ; vốn không ở chỗ sinh, cũng không ở chỗ diệt, không ĺa xa mà cũng chẳng không ĺa xa v́ phải đối lập các nhân duyên hư vọng mà phải đặt giả ra các tên như vậy. Cho nên chư Phật ba đời đều do đó mà đắc pháp, Tổ các đời cũng do đó mà đắc pháp, ta cũng do đó mà đắc pháp, ngươi cũng do đó mà đắc pháp. Đến như những loài hữu t́nh hay vô t́nh cũng do đó mà đắc pháp".
Đó là tư tưởng Bát Nhă, nếu ai đă từng nghiên cứu kinh Bát Nhă đều rơ, như đối chiếu với Bát Nhă Tâm Kinh ta cũng hiểu được điều đó.
Theo K. Mukerji trong sách Indian Literature in China and the Far East, ở Trung Hoa phải đợi đến đầu thế kỷ thứ V, Cưu Ma La Thập (Kumarajiva) đến Trung Hoa dịch kinh Bát Nhă và sau đó mới có ảnh hưởng sâu rộng của bộ kinh nầy. Trong khi đó bộ Bát Thiên Tụng Bát Nhă (Astasahasrika) do Khương Tăng Hội dịch tại Giao Châu vào đầu thế kỷ III được các nhà Phật học đánh giá là bộ kinh từ Ấn Độ xuất hiện xưa nhất trong toàn bộ văn hệ Bát Nhă. Trong khi đó kinh Bát Nhă Damasahasrika do Lokasema dịch tại Trung Quốc cuối đời nhà Hán là bộ kinh xuất hiện chậm hơn nhiều, có thể nói là vào thời kỳ thứ hai của văn hệ Bát Nhă tại Ấn Độ (tham khảo Jaidava Singh trong sách An Introduction to Hadhyamaka (Trung luận) Philosophy).
Điều nầy cho thấy bộ Bát Thiên Tụng Bát Nhă do Khương Tăng Hội dịch ra chữ Hán là do các Tăng sĩ từ Ấn Độ trực tiếp đưa sang Giao Chỉ vào thời điểm sớm hơn lúc dịch kinh rất nhiều. V́ để có đủ tŕnh độ ngôn ngữ và kiến thức về Bát Nhă để có thể dịch kinh được, chắc chắn tại Giao Chỉ phải có các viện nghiên cứu và giảng dạy Phật Pháp nhất là về kinh Bát Nhă và dạy tiếng Pali, Sanskrit do các Tăng sĩ người Ấn giảng dạy.
Có nhiều lối giải thích về nguyên nhân của sự truyền bá văn minh và tôn giáo từ Ấn Độ ra các nước chung quanh trong đó từ việc di dân từ Ấn Độ ra nước ngoài cũng là những nguyên nhân quan trọng.
Vào những năm đầu công nguyên có các cuộc xâm lăng của người Kushans cũng có thể là nguyên nhân gây ra những đợt di tản người Ấn ra nước ngoài. Những người Ấn ra nước ngoài đă truyền bá tôn giáo và văn minh của họ cho dân địa phương trên quê hương mới đó là lẽ đương nhiên và nó đă trở thành như vết dầu loang dần dần rộng ra khắp các vùng lân cận.
Thế nhưng theo G. Coedes tác giả sách Histoire Ancienne Des États Hindouisée d'Extrême Orient, 1944, th́ nguyên nhân sâu xa của sự bành trướng nền văn minh và tôn giáo của Ấn Độ trước công nguyên là kinh tế, thương mại, sự giao dịch giữa Viễn Đông và Địa Trung Hải. Kế đến là sự đông tiến của Alexandre, sự thành lập triều đại Maurya, sau đó là triều đại Kaniskha ở Ấn Độ... Nhất là đế quốc La Mă ở phương Tây đă kích thích mạnh mẽ nền ngoại thương Ấn Độ (tham khảo E.H. Warminton trong sách The Commerce Between The Roman Empire and India, Cambridge 1928). Những món hàng giao thương chính yếu là tiêu, quế, gỗ trầm hương và vàng...
Từ những thế kỷ trước công nguyên Ấn Độ vẫn mua được vàng ở Xibêri đi bằng con đường xuyên qua Bactriane nhưng từ thế kỷ thứ hai trước công nguyên v́ các đợt di dân lớn ở Trung Á đă làm chướng ngại con đường chuyên chở đó. Sau đó họ chuyển hướng nhập vàng từ La Mă thế nhưng chẳng bao lâu La Mă không bán vàng ra nước ngoài nữa nên Ấn Độ mới chuyển qua các nước phía Đông và lên tận Giao Châu để mua những tiêu, quế, gỗ trầm hương, vàng bạc và các loại ngọc thạch. (Tham khảo sách Roman coins found in India của R. Sewell, 1904).
V́ địa thế của Việt Nam nằm trên trục giao thông từ Nam Á lên Bắc Á và gần như nằm giữa các nước Đông Nam Á nên các tàu buôn Ấn Độ theo gió Tây Nam lên trước khi đến Trung Quốc họ phải ghé qua Giao Châu như trạm dừng chân để nghỉ ngơi cũng như học Hán văn và làm quen với phong tục của Việt Nam và Trung Hoa trước khi đi sâu vào lục địa Trung Quốc.
Để có đủ những thương phẩm kể trên cung ứng cho thị trường rộng lớn ấy, các thương gia Ấn phải theo gió mùa Tây Nam dong thuyền đến các nước như Mă Lai, Indonesia, Việt Nam... Chuyến về họ phải đợi năm sau mới có gió mùa Đông Bắc để xuôi buồm về Ấn Độ.
Những thương gia Ấn Độ cố nhiên họ không phải là những tu sĩ Phật Giáo nhưng v́ đường đi quá xa và lênh đênh trên biển cả lâu ngày nên họ thường thờ và cầu nguyện Đức Quán Thế Âm (Avalokitedvara) Bồ Tát và Đức Phật Nhiên Đăng (Dipankara) để cầu che chở cho tai qua nạn khỏi trên biển cả. Những người Ấn Độ rất tin tưởng vào Đức Phật Nhiên Đăng che chở cho họ khi họ chí thành niệm danh hiệu của Ngài (Tham khảo A. Fouchet trong sách Iconographie Bouddhique).
Phẩm Phổ Môn trong kinh Pháp Hoa có những câu như sau: Tŕ niệm danh hiệu Quan Âm Đại Sĩ th́ vào lửa dữ, lửa ấy không đốt được, và đó là thần lực của vị Đại Sĩ nầy. Nếu bị nước lớn cuốn trôi mà tŕ niệm danh hiệu Quan Âm Đại Sĩ, th́ tức khắc được vào chỗ nước cạn. Trăm ngàn vạn ức người, v́ kiếm bạc, vàng, lưu ly, xa cừ, mă năo, san hô, hổ phách, trân châu, và những thứ quí báu khác..., phải ra biển cả; giả sử bị trận gió lớn trong bầu trời u ám thổi bạt thuyền tàu sa vào đảo quốc la sát, trong những người ấy đến nỗi chỉ có một người tŕ niệm danh hiệu Quan Âm Đại Sĩ, những người ấy cũng vẫn thoát được cái họa la sát. V́ những lư do như vậy mà vị Đại Sĩ nầy có danh hiệu là Quán Thế Âm".
Bởi lẽ những thương thuyền Ấn Độ luôn luôn đem những tượng Phật và Bồ Tát theo họ để thờ phụng nên khi họ đến Giao Châu lưu lại để chờ đến năm sau xuôi theo gió Đông Bắc trở về, trong khoảng thời gian dài hăng năm đó họ đă gây ảnh hưởng một cách tự nhiên đến dân bản xứ Giao Châu. Ngoài ra c̣n có một số người đă định cư ở lại Giao Châu làm ăn lấy vợ lấy chồng. Những người Ấn đó đă là những hạt nhân truyền bá Phật Giáo tại Giao Châu trong thời kỳ phôi thai ban đầu.
Ngoài ra cũng v́ lư do cầu nguyện cho tai qua nạn khỏi trên biển nước mênh mông đầy sóng to gió lớn nguy hiểm như vậy nên những thương gia người Ấn thường mời một vài vị tu sĩ Phật giáo cùng đi trên thuyền với họ để cầu nguyện. Chính những vị tu sĩ Phật giáo nầy đă lưu lại Giao Châu và do những sinh hoạt tín ngưỡng của họ đă dần dần ảnh hưởng một cách tự nhiên đến dân địa phương mà họ có dịp tiếp xúc. Như thế là Phật giáo đă được thâm nhập vào dân Việt Nam một cách rất ôn ḥa và được đón nhận đầy thiện cảm của dân địa phương. Do đó mà Phật giáo đă phát triển nhanh chóng và được lan dần ra các địa phương khác của Giao Châu lúc bấy giờ. Nhờ những thuận duyên như vậy nên trung tâm Phật Giáo Luy Lâu được h́nh thành tại Giao Châu rất sớm.
Sau đó Phật Giáo từ Luy Lâu được truyền sang Trung Quốc, từ Trung Quốc truyền qua bán đảo Triều Tiên và từ bán đảo nầy truyền qua Nhật Bản. (Tham khảo sách Trung Quốc Phật Giáo Thông Sử của nhà sử học Nhật Bản Kamata, Tokyo 1981).
C. Thời gian và sự hiện hữu của Phật giáo tại Việt Nam:
Hai thế kỷ trước công nguyên các trung tâm Phật giáo tại miền duyên hải Đông Nam Ấn Độ như Amaravati và Nagarjunakonda... đă trở thành những trung tâm Phật giáo Đại Thừa rất hưng thịnh. Chính từ phong trào Phật giáo Đại Thừa hưng thịnh tại Ấn Độ các vị Tăng sĩ đă lên các thương thuyền qua truyền đạo Phật và do đó trung tâm Phật giáo Luy Lâu tại Giao Chỉ (Việt Nam thời bấy giờ) được thành lập. Hiện nay tại Luy Lâu c̣n những di tích lịch sử trong đó chùa Dâu c̣n gọi là chùa Pháp Vân, nơi mà sau nầy vào khoảng năm 580 Thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi (người Ấn Độ) đă hành đạo tại đây.
Phật giáo từ Ấn Độ được truyền trực tiếp qua Việt Nam trước rồi sau đó mới truyền qua Trung Quốc chứ không phải Phật giáo từ Trung Quốc truyền qua Việt Nam như những sách cũ đă ghi (Theo sách "Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, quyển I, của Nguyễn Lang, 1994).
Theo sử gia Nhật Bản, ông Kamata, trong sách Trung Quốc Phật Giáo Thông Sử, xuất bản tại đại học Đông Kinh năm 1981, đă nhiều lần xác nhận rằng Phật giáo đă du nhập vào Trung Quốc từ Việt Nam, có đoạn ông gọi là Việt Nam, có đoạn gọi là Giao Chỉ. Đề cập đến Phật Giáo Giao Chỉ tức là đề cập đến trung tâm Phật Giáo tại Luy Lâu.
Do đâu mà có từ Luy Lâu? Tiếng Việt gọi là Dâu, tiếng Hán phiên âm ra Luy Lâu c̣n gọi là Liên Lâu, nằm ở trung tâm đồng bằng sông Hồng nay là huyện Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc, Bắc Việt.
Ngày xưa Việt Nam có 3 thị trấn cổ là Luy Lâu, Long Biên và Cổ Loa. Riêng Luy Lâu nằm trên bờ sông Dâu cách sông Đuống 5 cây số về phía Bắc. Dân Luy Lâu có nghề trồng dâu nuôi tằm và dệt lụa rất nổi tiếng.
Về địa thế, có nhiều đường thủy bộ chạy ngang qua Luy Lâu khiến nơi đây thành một trung tâm giao dịch rất quan trọng. Có những đường bộ như con đường đi Phả Lại, Đông Triều đến biên giới Việt Trung (nay là đường số 18). Đường thủy từ Dâu nối sông Đuống, sông Hồng ra biển, hoặc nối với sông Lục Đầu, sông Thái B́nh rồi ra biển.
V́ địa thế thuận lợi cho việc giao thông như thế nên Dâu là trung tâm thương mại rất sầm uất đương thời. Các thương gia Ấn Độ và Trung Quốc đều đổ về đây để mua bán các nông sản, lâm sản, vải vóc và các hàng công kỹ nghệ khác rất thạnh hành. Họ mua hàng tại đây để đem về nước hoặc trên đường buôn bán tiếp tục qua các nước khác trong vùng.
Luy Lâu c̣n là trung tâm chính trị, là thủ phủ của Giao Châu qua nhiều thời đại của chính quyền đô hộ từ phương Bắc. Thủ phủ nầy có thể được xây dựng từ thời Triệu Đà, 179 năm trước công nguyên. Sau khi nhà Hán chiếm được Nam Việt của Triệu Đà, họ vẫn giữ nguyên Luy Lâu làm trị sở của Giao Chỉ. Trong sách biên niên của nhà Hán ghi 10 huyện của quận Giao Chỉ trong đó Luy Lâu là đứng đầu.
Nhờ vào vị thế như vậy nên chẳng những các thương nhân mà các vị tu sĩ Phật giáo Ấn Độ cũng đến đây để truyền bá Phật Giáo, học chữ Hán và dịch kinh điển từ tiếng Phạn ra Hán văn trước rồi mới tiếp tục công việc công việc truyền bá dễ dàng hơn để đi sâu vào lục địa Trung Quốc.
Từ Luy Lâu Phật giáo được lan truyền ra khắp vùng đồng bằng sông Hồng, và khắp vùng đồng bằng Bắc Bộ lúc bấy giờ. Phật giáo đă tạo cho Luy Lâu một phong tục tốt đẹp, một h́nh ảnh thân thương mà dân chúng nơi nầy rất tự hào không bao giờ quên qua những câu ca dao như sau:
"Dù ai buôn bán trăm nghề
Nhớ ngày mùng tám th́ về hội Dâu"
hay là
"Dù ai đi đâu về đâu
Hễ trông thấy tháp Dâu th́ về"
Như thế là Phật Giáo Luy Lâu đă gắn liền với tín ngưỡng dân gian, được dân gian hóa và phong tục hóa. Nó thể hiện tâm lư dân gian, thế giới quan và ḷng mong ước, tính hiền ḥa của dân quê vùng Dâu và cả vùng đồng bằng Bắc Việt cho măi đến ngày nay vẫn giữ được nét đặc thù của Phật giáo dân gian.
Ngược về quá khứ lúc bấy giờ tại Ấn Độ nhằm thời kỳ vua A Dục (Asoka lên ngôi vào năm 273 trước Tây lịch và làm vua được 37 năm, theo Phật Học Từ Điển của Đoàn Trung C̣n) chinh phục được toàn cơi Ấn Độ, đóng đô tại Pâliputra, Ngài mời hàng ngàn vị Thánh Tăng để lo việc kết tập Kinh Luật Luận và cử nhiều phái đoàn ra nước ngoài truyền đạo đến các nước phương Tây, phương Đông cũng như vùng Đông Nam Á.
Sử liệu Miến Điện có chép rằng, một phái đoàn do hai Cao Tăng Uttara và Sona đă đến Miến Điện để truyền bá Đạo Phật. Sử liệu Phật Giáo Thái Lan cũng có ghi hai Cao Tăng nói trên cũng đă qua Thái Lan để truyền bá Đạo Phật. Thế nhưng hai Cao Tăng đó tiếp tục hành tŕnh đến Việt Nam và Trung Quốc hay không, không thấy sử liệu nào ghi lại.
Theo sử liệu Trung Hoa có ghi rằng ở Giao Châu tại thành Nê Lê (chính là Đồ Sơn hiện nay) có bảo tháp của vua A Dục. Điều đó có thể nói lên rằng Phật Giáo được truyền trực tiếp từ Ấn Độ qua Việt Nam rất sớm có thể vào thời vua A Dục bên Ấn Độ.
Chúng ta vẫn biết rằng từ Bắc Ấn Độ có những đường bộ có thể qua Trung Quốc nhưng đến Lạc Dương, Bành Thành và các thành phố khác của Trung Quốc rất xa xôi, đường đi qua núi non hiểm trở đầy thú dữ và tiếp đến phải qua những sa mạc mênh mông, mùa hè rất nóng bức và mùa đông th́ băng giá cực lạnh, rất nguy hiểm về nhiều mặt không tiện lợi cho việc giao thương. Hơn nữa lúc bấy giờ đi đường bộ chỉ có thể dùng ngựa, do đó việc chuyên chở hàng hóa không thuận tiện. Bởi những lư do đó mà đường bộ không được các thương nhân và các tu sĩ Phật giáo sử dụng.
Theo George Coedes trong sách "Histoire ancienne des états hindouisés d'Extrême Orient" viết rằng: Hầu hết các vùng ở Ấn Độ đều tham gia vào việc truyền bá nền văn minh Ấn Độ ra ngoài lục địa Ấn, nhưng phần tham gia lớn nhất thuộc về vùng Nam Ấn.
Khi nh́n vào bản đồ thế giới, ta thấy rằng sự truyền bá trên phải đi bằng đường biển mới có thể đến Việt Nam và các nước trong vùng Đông Nam Á được.
Giáo sư Louis De La Vallée Puossin trong sách "Dynasties et histoire de l'Inde" viết rằng: Tất cả các hải cảng vùng Đông Ấn đều có tham gia vào sự nghiệp chung truyền bá nền văn minh Ấn Độ ra các nước ngoài, nhưng các hải cảng Nam Ấn cống hiến nhiều nhất cho sự nghiệp đó.
Cả hai sử liệu trên đều cho ta thấy rằng sự truyền bá nền văn minh Ấn Độ, đương nhiên là trong đó có cả Phật giáo, ra các nước lân cận phải là đường biển, có nghĩa là Phật giáo phải được truyền vào Việt Nam trước rồi mới vào Trung Quốc sau.
Vào thế kỷ thứ V có Pháp Hiển và vào cuối thế kỷ thứ VII có Nghĩa Tịnh của Trung Quốc đều lên thuyền tại Tamralipti cũng gọi là Tamluk, cửa sông Hằng để trở về Trung Hoa. Như vậy không phải những thế kỷ trước kỷ nguyên mà măi về sau đến thế kỷ thứ VII đường biển vẫn là phương tiện giao thông thuận lợi nhất từ Ấn Độ đi Đông Nam Á và lên đến Trung Quốc.
Những điều kể trên nói lên rằng sự truyền bá nền văn minh Ấn trong đó có cả Phật giáo được truyền ra các nước lân cận bằng đường biển thuận lợi hơn là đường bộ. Như vậy càng làm rơ nét hơn sự truyền bá Phật giáo từ Ấn Độ qua Việt Nam lúc bấy giờ bằng đường biển và như thế hệ luận đương nhiên là sớm hơn qua Trung Quốc rất nhiều năm.
Trong sách "Lĩnh Nam Chích Quái" có câu chuyện Đồng Tử và Tiên Dung như sau:
"Đồng Tử và Tiên Dung lập phố xá buôn bán, giao thiệp với nhiều nhà buôn nước ngoài. Một hôm Đồng Tử theo một khách buôn ngoại quốc đi bằng thuyền ra khỏi xứ. Họ ghé lại một ḥn núi tên là Quỳnh Viên để lấy nước ngọt. Dưới núi Quỳnh Viên, Đồng Tử gặp một nhà sư Ấn Độ ở trong một túp lều. Nhà sư giảng cho Đồng Tử nghe, Đồng Tử phát tâm ở lại đảo để học đạo, giao vàng cho bạn để bạn đi buôn dùm ḿnh, hẹn khi về th́ ghé lại đón cùng về. Khi về, Đồng Tử được nhà sư cho một cây gậy và một nón lá, bảo rằng với những vật nầy có thể làm phép lạ. Sau khi về nước, Đồng Tử giảng Phật Pháp cho Tiên Dung nghe, cả hai đều được giác ngộ, bỏ chuyện buôn bán, t́m thầy học đạo..."
Trong câu chuyện trên thấy nói đến khách buôn nước ngoài đó là những người Ấn Độ. Đồng thời việc Đồng Tử và Tiên Dung bỏ nghề buôn bán để tầm thầy học đạo cho thấy đạo Phật rất được dân chúng mến mộ. Câu chuyện càng làm sáng tỏ thêm Phật giáo được truyền bá vào Việt Nam trực tiếp từ Ấn Độ, và do chính các tu sĩ người Ấn truyền vào.
Trong sách "Ngô Chí" có chép bức thư của Viên Huy gửi cho thượng thư lệnh Tuân Húc năm 207, trong đó có đoạn khen Sĩ Nhiếp giữ ǵn quận Giao Châu được thái b́nh an ổn hơn 20 năm, và có đoạn viết: "Khi ra vào th́ đánh chuông khánh, uy nghi đủ hết, kèn sáo thổi vang, xe ngựa đầy đường, người Hồ đi sát bánh xe đốt hương thường có mấy mươi người..."
Người Hồ tức là các vị sứ người Ấn Độ, bấy giờ đă có nhiều ở Giao Châu. V́ Sĩ Nhiếp rất sùng kính đạo Phật nên trong những lễ lạc đều có các sị sư bản xứ và sư người Ấn Độ tham dự.
Theo Trần Văn Giáp, tác giả sách "Le Bouddhism En Annam Des Origines Au XIIIè Siècle" có đề cập đến Mâu Tử là người Trung Hoa trước theo Lăo Giáo, sau đó nhập tịch Giao Châu, theo đạo Phật và học giáo lư Phật giáo tại Giao Châu. Sau đó ông viết sách "Lư Hoặc Luận" (những luận lư để làm tiêu tan các mối nghi hoặc về Phật giáo), là sách về Phật giáo sớm nhất tại Việt Nam bằng Hán văn. Điều đó nói lên rằng Đạo Phật đă phát triển phổ biến lắm từ nhiều thế kỷ trước đó nghĩa là từ thế kỷ trước công nguyên. Nếu không như thế tại sao Mâu Tử lại học Phật tại Giao Châu mà không học Phật giáo tại nội địa Trung Hoa, có nghĩa là Phật giáo tại Trung Quốc lúc bấy giờ chưa được phổ cập đến mọi nơi hay vừa mới được du nhập vào lục địa nầy chưa lâu nên chưa phát triển bằng đất Giao Châu, mặc dù vẫn biết rằng lúc bấy giờ tại Trung Quốc có nội loạn nhưng không v́ thế mà hoàn toàn không thể nghiên cứu Phật Pháp được.
Trong sách "Lư Hoặc Luận" của Mâu Tử được viết vào thế kỷ thứ II Tây lịch tại Giao Châu có nói nhiều về Tăng Ni tại Giao Châu trong đó có cả Tăng sĩ bản xứ và Tăng sĩ nước ngoài và những tệ trạng trong giới Tăng Ni như sau: "Sa Môn ngày nay có kẻ lại thích uống rượu ngon, có khi có vợ con, biết cất giữ tiền bạc, của quí..."
Trong đoạn văn trên cho ta những nhận xét như sau: Trước tiên là từ "Sa Môn." Theo thứ bậc của Tăng Ni Phật giáo khi xuất gia thọ 10 giới gọi là Sa Di. Sau nhiều năm tu học có công hạnh, rành rơi về Kinh Luật Luận Phật giáo và phải trên 20 tuổi mới có thể thọ 250 giới để trở thành Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni phải thọ 348 giới. Sau khi thọ Tỳ Kheo hay Tỳ Kheo Ni, mỗi năm phải nhập hạ và liên tục tu học mấy mươi năm sau và phải có đức hạnh tốt, gương mẫu và thường là trên 50 tuổi Giáo Hội mới suy tôn lên hàng Thượng Tọa. Quí Thượng Tọa tiếp tục đạo nghiệp, có đức độ gương mẫu được mọi người kính nể và thường là trên 60 tuổi mới được Giáo Hội lập ra giới đàn truyền giới để suy tôn lên hàng Ḥa Thượng và cao hơn nữa là Đại Lăo Ḥa Thượng. Thường th́ những Thượng Tọa cao tuổi hoặc Ḥa Thượng trở lên mới được gọi là Sa Môn. Thế nhưng không phải đạo Phật truyền bá vào Việt Nam một sớm một chiều trong ṿng một thế kỷ có thể có nhiều vị tu sĩ như Mâu Tử đă viết. V́ để có những bậc Sa Môn theo như quá tŕnh đào tạo kể trên có thể là phải trải qua mấy thế hệ mới có đủ nhiều bậc chân sư trưởng thượng, mới có đủ Tam Sư (Ḥa Thượng, Yết Ma, Giáo Thọ), và Thất Chứng (bảy vị Tôn Chứng), và phải có nhiều Tu sĩ có đủ tài đức để có thể thọ Sa Di, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni v.v... khi đó giới đàn mới được thiết lập để truyền giới. Những điều kiện tối cần yếu để đào tạo ra Tăng sĩ là phải có nhiều tín đồ mới có đủ điều kiện tài chánh để thiết lập chùa chiền và nuôi Tăng chúng để sau đó họ mới trở thành những bậc trưởng lăo có đủ tài đức để thiết lập giới đàn cho Tăng Ni đến thọ giới.
Như vậy nếu tính ngược thời gian từ lúc Lư Hoặc Luận ra đời (theo Paul Pelliot nói rằng Mâu Tử sinh vào khoảng 165-170. Trong bài tựa Lư Hoặc Luận, Mâu Tử nói v́ thời ấy tại Trung Quốc loạn lạc nên ông cùng mẹ đến Giao Châu tỵ nạn, năm 26 tuổi lấy vợ. Theo Hồ Thích và Paul Pelliot th́ Lư Hoặc Luận được viết vào cuối thế kỷ thứ II, nghĩa là những mẩu chuyện về Phật giáo mà ông đă viết thuộc về thế kỷ thứ hai và trước đó rất lâu có thể phải tốn trên vài trăm năm mới có đủ thời gian đào tạo được những Sa Môn như trong sách đă kể.
Điều tiếp theo là Đạo Phật phải có mặt tại Giao Châu lâu lắm, có rất nhiều chùa chiền và rất nhiều Tăng Ni, sinh hoạt Phật giáo cũng rất nhiều thế hệ nên tín đồ Phật tử lâu ngày sinh ra lờn đi, xem thường các vị Sa Môn, trong sự thờ ơ bất kính, quên lăng của tín đồ, các sị Sa Môn mới sinh tật như trong Lư Hoặc Luận đă viết.
Theo sử liệu trên ta có thể kết luận rằng đạo Phật đă được các tu sĩ Ấn Độ truyền vào Việt Nam chậm lắm phải là vào thế kỷ trước công nguyên hoặc sớm hơn mới sinh ra những hiện tượng tiêu cực mà Mâu Tử đă đề cập đến.
Trường hợp vị sư Khương Tăng Hội (200-280). Theo sách "Việt Nam Phật Giáo Sử Luận" quyển I, của Nguyễn Lang từ trang 85, viết như sau:
"Cha mẹ Tăng Hội người gốc Khương Cư (Sogdiane) cư trú tại Giao Chỉ để buôn bán. Tăng Hội chắc chắn là sinh trên đất Giao Chỉ, cha mẹ ông mất năm ông lên mười tuổi. Không biết ai đă nuôi dạy Tăng Hội sau khi cha mẹ ông mất, chỉ biết rằng lớn lên ông đi xuất gia và tu học rất tinh tiến (Cao Tăng Truyện). Ta cũng không biết thầy của ông là ai và trong số mười vị Tăng sĩ truyền giới cho ông có vị nào là Tăng sĩ ngoại quốc không. Ta chỉ biết ông giỏi cả Phạn ngữ lẫn Hán tự. Trong các tác phẩm của ông ta thấy có tập Nê Hoàng Phạm Bối là một tập thi ca về đề tài Niết Bàn tuyển dịch từ những bài thi tụng Phạn Ngữ, Lục Độ Tập Kinh của ông văn từ điển nhă, chứng tỏ Hán văn của ông không thua ǵ người Trung Hoa thời ấy. Cố nhiên là sinh trưởng tại Giao Châu ông phải nói thạo tiếng nước ta.
"Sách Cao Tăng Truyện nói rằng ông đến Kiến Nghiệp thủ đô nước Ngô (nay là Nam Kinh) vào năm Xích-Ô thứ mười, tức là năm 247. Ông mất vào năm 280, niên hiệu Thái Khương nguyên niên đời nhà Tấn. Như vậy ông đă ở trên đất Trung Hoa 33 năm. Nhiều người cho rằng ông đă trước tác và dịch thuật tại đây, nhưng kỳ thực một phần quan trọng của công việc nầy đă được ông làm tại Giao Chỉ.
"Trong bài tựa kinh An Bang Thủ Ư do ông viết, ta thấy có một chứng cớ rơ rằng ông đă viết bài tựa nầy trước năm 229, nghĩa là hồi ông c̣n hành đạo tại Giao Chỉ. Đó là chi tiết An Thế Cao, người đă dịch kinh An Bang Thủ Ư: "Có vị Bồ Tát tên là An Thanh, tự là Thế Cao, con đích của vua nước An Tức, sau khi nhường ngôi cho chú lánh nạn qua đất nầy, sau bèn về ở Kinh Sư...". Kinh Sư ở đây là Lạc Dương, chính ở Lạc Dương mà An Thế Cao đă dịch nhiều kinh vào hậu bán thế kỷ thứ hai. Nếu bài tựa nầy viết sau năm 229, tức năm Ngô Tôn Quyền xưng đế th́ Kinh Sư phải là Kiến Nghiệp chứ không phải là Lạc Dương nữa. Bởi v́ sau ngày Tôn Quyền xưng đế, nước ta đă nội thuộc Đông Ngô rồi mà không theo Bắc Ngụy.
"Chi tiết quan trọng trên c̣n cho ta một dữ kiện lịch sử nữa: Những cuốn kinh mà An Thế Cao dịch tại Lạc Dương đă được mang tới và lưu hành tại Giao Chỉ trong thời gian Tăng Hội hành đạo tại đây. Những kinh nầy ví dụ như kinh An Bang Thủ Ư, đă được mang xuống do những người Phật tử Lạc Dương tới tỵ nạn tại Giao Chỉ. Trong số những người Phật tử nầy có Cư sĩ Trần Tuệ, học tṛ của An Thế Cao, người mà Tăng Hội đă gặp và đă cùng cộng tác để chú sớ kinh An Bang Thủ Ư".
Sau khi đọc những đoạn trên chúng ta thấy rơ rằng những kinh mà An Thế Cao dịch đă được lưu hành tại Giao Châu và từ Giao Châu được Phật tử đem đến Lạc Dương cho An Thế Cao dịch. Điều đó một lần nữa khẳng định rằng Phật Giáo đă được truyền vào Việt Nam sớm hơn vào Trung Quốc rất lâu và đă phát triển cũng như đă có rất nhiều kinh sách lưu hành tại đây sau đó mới được chuyển sang Trung Quốc.
Trong bài tựa kinh An Bang Thủ Ư, Khương Tăng Hội viết: "Tôi sinh ra như dấu tích cuối cùng, vừa mới đủ sức vác củi th́ mẹ cha đều mất, bậc Tam Sư cũng viên tịch, nh́n lên mây trời, buồn thấy ḿnh thiếu người chỉ dạy". Tam Sư tức là Ḥa Thượng, Yết Ma, Giáo Thọ ba chức vị cao nhất trong giới đàn truyền giới cho Tăng Ni và Phật tử như đă nói phần trên.
Điều nầy một lần nữa cho ta thấy rằng Phật giáo Việt Nam đă phát triển sớm lắm và đă có hệ thống hoằng pháp, truyền giới một cách có truyền thống lâu đời. Trong khi đó có nhiều sử liệu cho thấy rằng đến giữa thế kỷ thứ ba Trung Hoa mới có lễ truyền giới cần đến bậc "Tam Sư".
Theo sách "Thiền Uyển Tập Anh Ngữ Lục" (được soạn từ cuối thế kỷ XI đến đầu thế kỷ XIII, khắc in năm Vĩnh Thịnh thứ 11 (1715) truyện Quốc Sư Thông Biện có nói về truyền đạo Phật vào nước Việt Nam với những chi tiết rằng: Nhân ngày rằm tháng hai, mùa xuân năm Hội Phong thứ 5 (1096), Phù Thánh Cảm Linh Nhân Hoàng Thái Hậu (tức Ỷ Lan nguyên Phi, mẹ vua Lư Nhân Tông, được phong làm Hoàng Thái Hậu năm 1073) đến chùa thiết lễ Trai Tăng. Trong khi đàm đạo bà hỏi Thiền sư Trí Không (tức Quốc Sư Thông Biên) về Đạo Phật truyền vào nước ta khi nào, nhà sư đă dẫn lời sư Đàm Thiên người Trung Quốc trả lời Tùy Văn Đế về Phật giáo Giao Châu như sau: "Xứ Giao Châu có đường thông với Thiên Trúc. Khi Phật Pháp mới đến Giang Đông chưa khắp th́ ở Luy Lâu đă có tới 20 bảo tháp, độ được 500 vị Tăng và dịch được 15 quyển kinh rồi. Như vậy là Phật giáo đă truyền đến Giao Châu (Việt Nam) trước nước ta (Trung Quốc) Hồi ấy đă có các vị Tăng như Ma Ha Kỳ Vực (Mahajivaka, nhà sư Ấn Độ đến Luy Lâu khoảng năm 168-169), Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương (Kalaruci, nhà sư người nước Nhục Chi (Trung Á) đến Giao Châu đầu thế kỷ thứ 3), Mâu Bác v.v... cư trú tại đó".
Theo sử liệu Lư Hoặc Luận ta có thể hiểu rằng số kinh đă được dịch tại Giao Châu rất nhiều chứ không phải chỉ 15 quyển mà thôi.
Trong Lư Hoặc Luận có đoạn:
"Người ta hỏi Mâu Tử: Chân lư chí thật th́ thường không văn hoa, lời nói chí lư th́ không hoa ḥe... cho nên châu ngọc th́ quư giá mà ngói vụn th́ đồ bỏ. Xưa thánh nhân chế ra bảy kinh, văn từ không quá ba vạn lời và không ǵ không đủ trong từng ấy kinh văn. Ngày nay, chương điển của Phật giáo có tới hàng ngàn, ngôn từ có tới hàng ngàn ức, sức một người không thể nào đọc hết được. Tôi chán mà không muốn đọc".
Đó là sách được viết vào cuối thế kỷ thứ hai có thể cho ta h́nh dung được số lượng kinh điển đă được dịch và lưu hành tại Giao Châu thời bấy giờ rất nhiều. Điều đó cũng cho ta thấy Phật Giáo đă du nhập vào Giao Châu lâu lắm, đă có nhiều Tăng sĩ, nhiều học giả lắm mới có đủ thời gian và tŕnh độ dịch kinh nhiều đến như thế.
Những kinh mà An Thế Cao đă dịch tại Lạc Dương là do Phật tử mang từ Giao Châu đến đó là những kinh ǵ? Theo sử gia Nhật Bản Kamata. Trong sách đă dẫn là Trung Quốc Phật Giáo Thông Sử gồm có 35 bộ 41 quyển như sau:
1. An Bang Thủ Ư kinh, 1 quyển
2. Ấm Tŕ Nhập kinh, 1 quyển
3. Bách Lục Thập Phẩm kinh, 1 quyển
4. Đại Thập Nhị Môn kinh, 1 quyển
5. Tiểu Thập Nhị Môn kinh, 1 quyển
6. Đại Đạo Địa kinh, 2 quyển
7. Nhơn Bổn Dục Sanh kinh, 1 quyển
8. Đạo Y Phát Hành kinh, 2 quyển
9. A Tỳ Đàm Ngũ Pháp kinh, 1 quyển
10. Thất Pháp kinh, 1 quyển
11. Ngũ Pháp kinh, 1 quyển
12. Thập Pháp kinh, 2 quyển
13. Phổ Pháp Nghĩa kinh, 1 quyển
14. Nghĩa Quyết Luật kinh, 1 quyển
15. Lậu Phân Bố kinh, 1 quyển
16. Tứ Đế kinh, 1 quyển
17. Thất Xứ Tam Quán kinh, 2 quyển
18. Cửu Hoàng kinh, 1 quyển
19. Bát Chánh Đạo kinh, 1 quyển
20. Tạp Kinh Tứ Thập Tứ Biến, 2 quyển
21. Ngũ Thập Giảo Kế kinh, 2 quyển
22. Đại An Bang kinh, 1 quyển
23. Tư Duy kinh, 1 quyển
24. Thập Nhị Nhơn Duyên kinh, 1 quyển
25. Ngũ Ấm Dụ kinh, 1 quyển
26. Chuyển Pháp Luân kinh, 1 quyển
27. Lưu Nhiếp kinh, 1 quyển
28. Thị Pháp Phi Pháp kinh, 1 quyển
29. Pháp Thọ Trần kinh, 1 quyển
30. Thập Tứ Ư kinh, 1 quyển
31. Bổn Tướng Y Trí kinh, 1 quyển
32. A Hàm Khẩu Giải, 1 quyển
33. A Tỳ Đàm Cửu Thập Bác Kiết kinh, 1 quyển
34. Thiền Hành Pháp Tưởng kinh, 1 quyển
35. Nan Đề Ca La Việt kinh, 1 quyển.
Những sử liệu đă dẫn đủ để cho chúng ta kết luận được rằng các nhà sư Ấn Độ đă trực tiếp đến nước Việt Nam để truyền bá Phật giáo và do đó trung tâm Phật giáo tại Luy Lâu đă được thành lập, hiện nay c̣n nhiều di tích trong đó có chùa Dâu là một trong những trung tâm Phật giáo rất quan trọng trong những thế kỷ đầu công.
Về thời điểm du nhập của Phật Giáo như trên đă nói chậm lắm phải là trong thế kỷ trước công nguyên. Sau đó Phật giáo đă phát triển khá phổ biến tại Luy Lâu và những vùng lân cận.
T/S Lâm Như Tạng