THÍCH THẮNG HOAN
Thế danh: Nguyễn Văn Đồng
Sanh năm Kỷ Tỵ (1928) tại thành phố Cần Thơ, miền Nam Việt Nam.
Thân phụ là ông Nguyễn Văn Ngô, một nhà Nho, một nhạc sĩ cổ nhạc. Thân mẫu là bà Nguyễn Thị Hương, sau xuất gia là Tỳ Kheo Ni Như Quả, thọ Cụ Túc Giới năm 1968 tại Đại Giới Đàn Chùa Từ Nghiêm.
Xuất gia năm 8 tuổi với Ḥa Thượng Đắc Ngộ, húy là Tường Ninh, tại Chùa Hội Thắng, làng Châu Điền, quận Cầu Kè, tỉnh Vĩnh B́nh.
Thọ Sa Di năm 1946 với Ḥa Thượng Thích Hoàn Thông được ban Pháp hiệu là Long Hoan.
Cũng năm 1946 được Ḥa Thượng Thích Hoàn Thông giới thiệu đến y chỉ với Ḥa Thượng Thích Thiện Hoa và nhập chúng tu học tại Phật Học Đường Nam Việt, Chùa Ấn Quang, Sài G̣n.
1953 thọ Cụ Túc Giới tại Phật Học Đường Nam Việt, Chùa Ấn Quang.
1957 tốt nghiệp Trung Đẳng Phật Học tại Phật Học Đường Nam Việt.
Cuối năm 1957 ra Phật Học Viện Trung Phần Nha Trang tham học Chương tŕnh Cao Trung.
1962 tốt nghiệp Cao Đẳng Phật Học tại Phật Học Đường Nam Việt, Chùa Ấn Quang.
1963 làm Đốc Học tại Phật Học Viện Biên Ḥa, kiêm Giảng huấn trường Trung học Trí Đức Biên Ḥa.
Từ 1964 đến 1975:
· Giảng sư Viện Hóa Đạo, Sài G̣n
· Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Tài Chánh GHPGVNTN
· Giáo sư các trường Trung Học Bồ Đề, các trường Trung Đẳng Chuyên Khoa Phật học tại các Chùa như: Dược Sư, Từ Nghiêm, Hoa Quang, Huê Lâm, Từ Thuyền, Giác Sanh, Phổ Đức, Phật Ân.
1982 vượt biên.
1983 định cư tại Chùa Việt Nam, Los Angeles, Hoa Kỳ và đảm nhận chức vụ Phó Hội Chủ kiêm Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Hoằng Pháp Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ.
1985 tổ chức Đại Hội Hoằng Pháp tại Denver, Colorado.
1992 Phó Chủ Tịch Đặc Trách Liên Lạc Các Châu của GHPGVNTNHNHK.
2004 Thành viên Hội Đồng Trưởng Lăo Viện Tăng Thống GHPGVNTN kiêm Chánh Thư Kư Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTNHNHK.
Hiện tịnh trú tại Tịnh thất Viên Hạnh, thành phố Baker, tiểu bang Louisiana, Hoa Kỳ.
Tác phẩm đă xuất bản:
- Khảo Nghiệm Duy Thức Học, quyển I và II
- Khái Luận Về Pháp Tướng Duy Thức Học
- Bát Nhă Tâm Kinh Qua Cái Nh́n Của Duy Thức
- Bát Thức Quy Củ Tụng
- Yếu Chỉ Kinh Pháp Hoa
- Thờ Cúng và Lễ Bái
- Thắng Hoan Thi Tập
Những tác phẩm sẽ xuất bản:
- Quan Niệm Sử Học Của Duy Thức
- Quan Niệm Triết Học Của Duy Thức
- Những Điều Kiện Căn Bản Xây Dựng Hạnh Phúc Gia Đ́nh Theo Tinh Thần Phật Giáo
a
Thiền Tọa
Rừng thông yên lặng tiếng
Hoàng hôn phủ khắp nơi
Đơn thân ngồi tĩnh tọa
Mặc t́nh cánh sao rơi
Giữa đêm trường hoang vắng
An nhiên miệng mỉm cười
Thời gian nào hay biết
B́nh minh đă hết rồi.
Bên Thềm Chân Như
Lăng Già trăng tỏ ngoài hiên
Sáng soi Công án bên thềm Chân Như
Niết ban hiển lộ vô dư
Thiền Hương thơm ngát vần thơ nhiệm mầu (1)
Ḍng sông tịnh thủy dạt dào
Từ bi chất liệu thấm vào nguyên sinh (2)
Con thuyền Bát nhă chân minh
Quay về bến giác lộ tŕnh Không Môn (3)
Kim cang đỉnh ngự vân am (4)
Bảo châu ḥa khúc Pháp âm diệu thường (5)
Hoa Nghiêm duyên khởi mở đường
Nối liền chân vọng, khơi nguồn trí năng
Mênh mông thế giới ba ngàn
Hạt sương thâu gọn nằm trang Kinh cầu (6)
Nụ cười giải thể niềm đau
Tiếng chuông tỉnh mộng sạch làu trần ai
Thảnh thơi dạo gót trang đài
Qua cầu vọng nguyệt hát bài Vô Ngôn.
_______________
(1) Tinh thần Kinh Lăng Già Tâm Ấn
(2) Tinh thần Kinh Phổ Môn
(3) Tinh thần Kinh Bát Nhă
(4) Tinh thần Kinh Kim Cang
(5) Tinh thần Kinh Pháp Hoa
(6) Tinh thần Kinh Hoa Nghiêm.
oOo
TƯ TƯỞNG PHẬT GIÁO TRONG THI VĂN KHUÔNG VIỆT VÀ PHÁP THUẬN
Thích Thắng Hoan
Phần 1
Phật Giáo Việt Nam kể từ khi lập quốc (970) đến nay đă đóng góp rất lớn cho nền Văn Học Việt Nam qua các triều đại Đinh, Lê, Lư, Trần, v.v... nhưng không có một Quốc Sử Việt Nam nào ghi nhận cả thật đau buồn, mặc dù Phật Giáo Việt Nam thời bấy giờ và cho đến bây giờ không cần ai quan tâm đến. Phật Giáo Việt Nam nếu như không có công ǵ với núi sông th́ đâu được Đinh Tiên Hoàng Đế phong Thiền sư Ngô Chân Lưu đến chức Khuông Việt Thái Sư vào năm Thái B́nh thứ 2 (971) và chức Tăng Thống Phật Giáo Việt Nam. Cho đến các Thiền sư Pháp Thuận, Thiền sư Vạn Hạnh, v.v... là những bậc long tượng trong trụ cột quốc gia của thời bấy giờ, thế mà cũng không thấy một Quốc Sử Việt Nam nào ghi lại đậm nét những vết son cao quư của họ. Phật Giáo Việt Nam mặc dù bị đối xử phũ phàng đến mấy của các sử gia biên kiến nhưng cũng phải công nhận Văn Học Lư Trần là thời đại vàng son của Phật Giáo Việt Nam đă tài bồi công sức rất lớn cho nền Văn Học Việt Nam trong các thời đại đó.
Riêng ở đây chúng tôi muốn các đọc giả cùng chúng tôi nh́n lại vài nét tư tưởng của Phật Giáo trong Thi Văn Khuông Việt và Pháp Thuận để nhận chân được giá trị độc đáo của nền Văn Học Phật Giáo đă được Văn Học Việt Nam tiếp nhận một cách sâu sắc.
I.- TƯ TƯỞNG PHẬT GIÁO TRONG
THI VĂN KHUÔNG VIỆT:
A)- PHẦN TIỂU SỬ:
Thiền sư Khuông Việt, tục danh là Ngô Chân Lưu, con của Ngô Xương Tỷ, cháu của Ngô Xương Sắc (1), người làng Cát Lợi, huyện Thường Lạc (2), trụ tŕ chùa Phật Đà (3). Thuở nhỏ ngài theo Nho Học, lớn lên thọ giới với Thiền sư Vân Phong ở chùa Khai Quốc. Năm 40 tuổi ngài nổi tiếng tinh thông Thiền Học và được vua Đinh Tiên Hoàng quư trọng phong chức Tăng Thống. Năm sau, niên hiệu Thái B́nh thứ 2 (971), vua lại phong Quốc sư với tước hiệu là Khuông Việt Thái Sư (Khuông Việt Thái Sư nghĩa là Quốc sư chuyên lo giúp đỡ sửa sang nước Việt).
Khi Lê Đại Hành lên ngôi (980 – 1105), Thiền sư Khuông Việt và Thiền sư Pháp Thuận được vua mời tham dự những việc quan trọng trong triều đ́nh. Năm Thiên Phúc thứ 7 nhà Tiền Lê (986), nhà Tống phái sứ giả Lư Giác sang nước ta, vua cử Thiền sư Khuông Việt và Thiền sư Pháp Thuận ra đón tiếp. Khi Lư Giác về Trung Hoa, Thiền sư Khuông Việt thay vua làm một bài thi tiễn chân Lư Giác theo điệu hát “Tống Vương Lang Qui”. Tống Vương Lang Qui, nghĩa là tiễn đưa Ngọc Lang về nước.
TỐNG VƯƠNG LANG QUI
“Tường quang phong hảo, cẩm phàm trương,
Thần Tiên phục Đế Hương,
Thiên lư vạn lư thiệp thương lương,
Cửu Thiên qui lộ trường,
Nhân t́nh thảm thiết đối ly trường.
Phan luyến sứ tinh lang,
Nguyện tương thâm ư vị Nam Cương,
Phân minh báo ngă Hoàng.”
Ngô Tất Tố dịch:
“Trời quang, gió thuận, buồm giương,
Thần Tiên chốc đă giục đường Bồng Lai,
Mông mênh muôn dặm bể khơi,
Lối về trong bóng chín trời xa xa,
Bâng khuâng trước chén quan hà,
Mến ai, ḷng những thiết tha nỗi ḷng,
Xin ai v́ cơi Nam Trung,
Rơ ràng gửi lại mặt Rồng trước sau.”
(Văn Học Đời Lư, Trang 20 của Ngô Tất Tố).
Theo Việt Nam Phật Giáo Sử Lược, trang 112 của Thích Mật Thể ghi Thiền sư Khuông Việt ở triều được ít lâu th́ lấy cớ già yếu xin về hưu. Thiền sư dựng một ngôi chùa ở núi Du Hư để mở trường dạy đạo. Học tṛ đến học với Thiền sư rất đông. Trong số học tṛ nói trên, Thiền sư Đa Bảo là người xuất sắc nhất của Thiền sư Khuông Việt, được thầy xem như đệ tử thân tín của ngài. Theo Thiền Uyển Tập Anh kể lại, một hôm Đa Bảo nghe danh Thiền sư Khuông Việt liền đến tham vấn. Đa Bảo hỏi Thiền sư về sự khởi đầu và sự kết thúc của việc học đạo. Thiền sư Khuông Việt trả lời bằng hai câu thơ:
“Thủy chung vô vật diệu hư không,
Hội đắc chân như thể tự đồng.”
Ư nghĩa hai câu thơ này là:
Không một vật nào có “Thủy” và có “Chung”, chỉ có “Hư Không” mới thực sự là nhiệm mầu, nếu ngộ được “Chân Như” th́ vạn vật đều đồng một bản thể Chân Tâm.
Đa Bảo nghe qua tỏ ngộ liền xin thọ giáo với Thiền sư Khuông Việt và về sau được thầy truyền tâm pháp.
Ngày 15 tháng 2, niên hiệu Thuận Thiên thứ hai đời nhà Lư tức là ngày 22 tháng 3 năm 1011, Thiền sư Khuông Việt viên tịch. Trước khi viên tịch Ngài gọi Đa Bảo đến đọc bài kệ rằng:
“Mộc trung nguyên hữu hỏa,
Nguyên hỏa phục hoàn sanh.
Nhược vị mộc vô hỏa,
Toản toại hà do manh.”
Thích Mật Thể dịch:
“Trong cây vốn có lửa,
Tia lửa mới sáng ḷa.
Nếu bảo cây không lửa,
Cọ xát sao lại ra?”
Đa Bảo hiểu thâm ư của thầy liền sụp xuống lạy. Thiền sư Khuông Việt ngay lúc đó chấp tay viên tịch, thọ được 81 tuổi. Thiền sư Khuông Việt là đời thứ tư của hệ phái Vô Ngôn Thông. Đây là phần tiểu sử của Thiền sư Khuông Việt đă được nhiều sách sử ghi lại.
B)- PHẦN TƯ TƯỞNG:
Thiết nghĩ trong các hệ phái của Thiền Tông Việt Nam, Thiền Môn Gia Huấn lẽ tất nhiên phải có và có rất nhiều do các Thiền sư nối tiếp sáng tạo để làm phương châm cho sự đạt đạo của các thiền sinh. Thiền Môn Gia Huấn nghĩa là những lời giáo huấn trong gia phả của Thiền Môn và những lời giáo huấn đó chính là những khuôn vàng thước ngọc không thể thiếu để phát huy hệ phái Thiền Tông. Thiền Môn Gia Huấn có khi là thi kệ, có khi là văn bản, đều là những Pháp Ngữ có tánh cách trắc nghiệm thiền sinh nhằm trao truyền chỗ chứng đắc của ḿnh cho đệ tử. Thiền Tông càng phát triển th́ Thiền Môn Gia Huấn càng phong phú. Căn cứ nơi lịch sử truyền thừa của các hệ phái Thiền Tông Việt Nam, danh bộ các Thiền sư được liệt kệ trong gia phả không phải là ít và được thấy một số Thiền sư như Khuông Việt, Pháp Thuận, Vạn Hạnh, v.v... đă để lại thanh danh một thời cho dân tộc và đạo pháp. Nhưng Thiền Môn Gia Huấn của các ngài th́ bị bỏ quên trong lịch sử Việt Nam và chỉ c̣n lại thưa thớt một vài thi kệ nghèo nàn nơi lịch sử truyền thừa của các Thiền Tông. Hơn nữa các thi kệ c̣n lại của các Thiền sư mặc dù chỉ có một vài câu thi ngắn gọn, đơn giản, nhưng chúng ta nhận thấy tư tưởng trong đó vô cùng súc tích và phong phú, chứng tỏ tŕnh độ thông bác và đạt đạo của các Thiền sư thời bấy giờ không phải tầm thường. Trường hợp Thiền sư Khuông Việt là một trong những bằng chứng của lịch sử Phật Giáo Việt Nam. Thiền sư là Quốc Sư của một triều đại mà lịch sử dân tộc chỉ ghi lại danh phận thật quá đơn giản và phũ phàng. Theo Việt Nam Phật Giáo Sử Lược của Thích Mật Thể cho biết Thiền sư Khuông Việt sau khi cáo lăo về hưu mở trường dạy đạo ở núi Du Hư và học tṛ đến học rất đông th́ không phải kết quả chỉ có một Thiền sư Đa Bảo thôi đâu. Đă là học tṛ đến học rất đông, Thiền sư Khuông Việt lẽ tất nhiên cũng phải tổ chức học đường cho qui củ và cũng phải sáng tác rất nhiều Thiền Môn Gia Huấn để giáo dục các thiền sinh. Thế mà những Thiền Môn Gia Huấn đó không thấy lịch sử ghi lại và chỉ t́m được nơi Thiền sư một vài thi kệ thưa thớt như thi kệ “Tống Vương Lang Qui, Thủy Chung, Thị Tịch”. Thật là vô cùng thương tiếc cho thân phận đời ngài và cũng thương tiếc cho thân phận của lịch sử Phật Giáo Việt Nam. Giờ đây chúng ta thử khảo sát tư tưởng của Thiền sư Khuông Việt trong thi kệ “Thủy Chung” qua câu chuyện vấn đáp giữa hai thầy tṛ để hiển bày giá trị đạt đạo của ngài.
GIÁ TRỊ THI KỆ THỦY CHUNG:
Câu chuyện vấn đáp giữa Thiền sư Khuông Việt và học tṛ Đa Bảo được thấy trong Thơ Văn Lư Trần tập I, trang 210 do nhà xuất bản Khoa Học Xă Hội Hà Nội 1977 ghi rằng: “Theo TUTA th́ một hôm có người học tṛ là Đa Bảo hỏi về sự khởi đầu và sự kết thúc của việc học đạo, Khuông Việt đă trả lời bằng hai câu thi:
“Thủy Chung Vô Vật Diệu Hư Không,
Hội Đắc Chân Như Thể Tự Đồng”.
Dịch nghĩa:
Không một vật nào có Thủy và có Chung, chỉ có Hư Không mới thực sự là nhiệm mầu. Nếu ngộ được Chân Như th́ vạn vật đều đồng một bản thể Chân Tâm.”
Đại ư hai câu này:
Vạn vật đều đồng một bản thể Chân Tâm nơi thế giới Chân Như. H́nh tướng của vạn vật th́ có sanh (có thủy) và có diệt (có chung), nhưng tự thể của vạn vật th́ trường tồn, cho nên không có điểm khởi đầu (vô thủy) và cũng không có điểm kết thúc (vô chung).
Giá trị tư tưởng hai câu thi trên của Thiền sư Khuông Việt trả lời câu hỏi của học tṛ Đa Bảo được nhận định như sau:
a)- Vấn Đề Thủy Chung:
Chữ Thủy nơi ư của hai câu thi trên gọi cho đủ là Vô Thủy và chữ Chung nơi ư của hai câu thi trên gọi cho đủ là Vô Chung. Vô Thủy nghĩa là vạn pháp không có nguyên nhân đầu tiên sanh ra và Vô Chung nghĩa là vạn pháp không có điểm cuối cùng của sự hoại diệt.
Vấn đề Thủy Chung được đặt ra là căn cứ nơi sự sanh diệt của vạn pháp. Vạn pháp trong thế gian, theo quan niệm của Phật Giáo đều do nhân duyên nên được sanh thành và cũng do nhân duyên nên bị hoại diệt. Nối tiếp theo đó, vạn pháp từ nơi chỗ hoại diệt lại liên tục sanh ra nữa và cứ như thế sanh diệt măi cho đến vô cùng tận. Dựa trên nguyên lư duyên sanh vừa tŕnh bày, vạn pháp không có vấn đề Thủy Chung (không có nguyên nhân đầu tiên sanh ra và cũng không có điểm cuối cùng của sự hoại diệt).
Kinh Thắng Man Bảo Quật, quyển trung ghi rằng: “Nhiếp Luận nói: “Vô thủy tức là hiển nhân. Nếu hữu thủy th́ vô nhân, hữu thủy th́ hữu sơ, sơ th́ vô nhân. Vô thủy th́ hữu nhân, cho nên làm sáng tỏ sự hữu nhân, để hiển bày Phật Pháp là cái nghĩa nhân duyên.”
Giải thích đoạn văn trên:
Không có nguyên nhân đầu tiên tức là hiển bày được nguyên lư nhân duyên. Nếu như có nguyên nhân đầu tiên th́ nhất định không có nguyên lư nhân duyên. Nếu như có nguyên nhân đầu tiên th́ phải có cái nguyên lư sơ khởi và nếu như có cái nguyên lư sơ khởi th́ không có nguyên lư nhân duyên. C̣n như không có nguyên nhân đầu tiên th́ mới có nguyên lư nhân duyên. Cho nên một khi làm sáng tỏ vấn đề nguyên lư nhân duyên là hiển bày được Phật Pháp.