VĨNH HẢO
Tên viết đủ: Nguyễn-phước Vĩnh Hảo; pháp danh: Tâm Quang.
Bổn sư là Ḥa thượng Trừng San - Thích Hải Tuệ, Giám sự Viện Cao Đẳng Phật Học Hải Đức Nha Trang.
Nguyên quán Vĩ Dạ, Phú Vang, Thừa Thiên; sinh ngày 30-11-1958 tại Nha Trang. Sống nhiều năm tại Hội An, Sài-g̣n, Long Thành-Đồng Nai trước khi vượt biển đến Songkhla, Thái Lan (1987). Ở trại chuyển tiếp tại Bataan, Philippines từ tháng 12.1987 đến cuối tháng 8 năm 1988 th́ qua Mỹ. Hiện ở California.
Tổng Thư Kư tạp chí Chân Nguyên (1992); Tổng Thư Kư tạp chí Phật Giáo Hải Ngoại, Hoa Kỳ (1994); Chủ nhiệm kiêm Chủ bút tạp chí Phương Trời Cao Rộng (2006 - 2008); Chủ bút nguyệt san Chánh Pháp (từ 2009). Chủ biên trang văn học vinhhao.info, trang Phật học Buddha Home (đă đ́nh bản) và www.chanhphap.us.
Cộng tác các báo chí văn học hải ngoại: Văn Học, Khởi Hành, Thế Kỷ 21, Gió Văn, Người Việt, Việt Báo, v.v…; có bài đăng trên các báo và các trang lưới Phật giáo trong nước, ngoài nước.
Tác phẩm đă xuất bản:
- Mẹ, Quê Hương và Nước Mắt - truyện ngắn, 1989
- Núi Xanh Mây Hồng - truyện vừa, 1991
- Biển Đời Muôn Thuở - truyện ngắn, 1992
- Thiên Thần Quét Lá - truyện ngắn, 1993
- Phương Trời Cao Rộng - truyện dài, 1993
- Sân Trước Cành Mai – tùy bút, 1994
- Bụi Đường - truyện dài, 1995
- Chạnh Ḷng Tiếng Thơ Rơi – thơ, 1996
- Ngơ Thoát - truyện dài, 1996
- Cởi Trói - truyện dài, tập 1, 1997
- Cởi Trói - truyện dài, tập 2, 1997
- Con Đường Ngược Ḍng – tùy bút, 1998
- Giấc Mơ và Huyền Thoại – truyện ngắn, 2001.
- Trong Những Thoáng Chốc - tùy bút và tạp ghi, 2014.
- Lời Ca của Gă Cùng Tử - tùy bút và tạp ghi, 2020
a
Phong trần
Chuyện người đi dài như đêm mất ngủ
Không vàng đông cũng đă vàng thu
Xin đừng hỏi phong trần thừa hay đủ
Tóc đong đưa hứng từng giọt sa mù.
(1978)
Thể nhập
Trăng rơi vào tách trà
Trà loang trong ḷng sư
Sư lăn trên nền chùa
Đánh một giấc phù hư.
(1984)
Thôi đành
Thôi đành quên ước hẹn
Giấc mộng kê vàng phai
Ta về khua tiếng mơ
Xóa tan một đêm dài.
Thời ở ẩn
Một túp lều tranh nhỏ
Khép lại một đời rông
Nửa vành khung cửa sổ
Lùa vào một trời không.
1982 (Long Thành)
Trà khuya
Phật điện không cài cửa
Tha hồ ánh trăng len
Sư vào xin tí lửa
Nhúm một b́nh trà sen.
(1984)
Hóa thân
Từ khi hóa núi bên sông
Đứng trơ thiên cổ mơ ṃng trời mây
Hóa thân em xuống nơi nầy
Hạt mưa nho nhỏ cũng đầy chiêm bao
Rồi em xuôi nước theo trào
Biền biệt xa măi phương nào ai hay
Một hôm chim nhỏ về đây
Tiếng như mưa vỡ
Ḷng say điệu buồn
Từ mây em hóa mưa phùn
Từ mưa em hóa giọng buồn chim di
Tiếng chim ngân một đêm dài
Vụt theo bóng nhỏ về nơi muôn trùng...
Tôi, vẫn đứng lại bên sông
Lắng nghe âm hưởng c̣n rung cuối trời.
Viễn hành
Thật chậm, thật chậm
Con ốc ḅ ngang sân ga
Nghe được vẻ nhộn nhịp của người khác
Cảm cái buồn của sự biệt ly
Đôi khi quên mất thân ḿnh yếu đuối có thể bị nghiền nát bất cứ lúc nào
Dưới những bàn chân vô t́nh hoặc cố ư
Nơi sân ga này phải biết khôn ngoan
Lánh vào những nơi không có chân người bước đến
Đi ở giữa hai đường sắt song song
Không ai phiền đến ḿnh
Hoặc trong hốc kẹt, hang nhỏ, có thể thu ḿnh để có được giấc b́nh yên...
Nhưng tiếng c̣i tàu mỗi khuya
Vẫn mơ hồ thúc giục một cuộc viễn hành
Đi về đâu, con đường thăm thẳm
Một thân hữu hạn trườn đến vô chung?
Đi qua sân ga này
Có khi tưởng chừng không chi dính dáng đến ḿnh
Mà kỳ thực th́ mọi thứ đều bắt đầu từ đây
Lên đường hay nằm im
Cũng đều là sự khởi hành
Để dấn bước trên con đường vô hạn xa xăm
Hoặc lui vào chỗ tận cùng của niềm cô liêu hiu quạnh...
Chẳng con đường, chẳng nơi chốn nào có tiêu đích thật sự
Chỉ có sự vô hạn mênh mông
Chỉ có cuộc viễn hành
Và có con ốc, nơi sân ga này
Lắng nghe tiếng c̣i tàu mỗi khuya
Giục giă khát vọng lên đường.
(10/2004)
Tự khúc
TINH
Rừng im mây đầy ôm núi ngủ
Cỏ mềm xanh mướt ngập bờ hoang
Thoang thoảng đêm huyền hương thạch nhũ
Đầu hoa nhụy ứa gió lên ngàn.
T̀NH
Một lần tương ngộ một lần say
Môi mềm khép mở nụ hôn đầy
Mai sau quảy gánh về xóm cũ
Nhớ mắt sầu đưa vỡ tim nầy.
TỈNH
Biển t́nh sóng dậy nước lao xao
Yêu em, yêu người như thủy trào
Nỗi ḷng trăm năm hay thoáng chốc
Cũng nhẹ nhàng qua như chiêm bao.
TĨNH
Thức dậy trầm ngâm đêm hạ huyền
Hồ thu lồng bóng trăng soi trăng
Hương thoảng ngàn lau, hoa mở cánh
Một thoáng tịch nhiên hỷ lạc tràn.
TÍNH
Từ đâu lần về nẻo nguyên sơ
Trăm năm mỏi gót chân giang hồ
Chó xưa vẫy mừng người năm cũ
Chắp tay đáp lễ, niệm nam mô.
TỊNH
Gió mưa đă tạnh chiều thôn dă
Cầu vồng bắc nhịp núi với sông
Hoa quả vườn sau chờ gặt hái
Thủng thỉnh nhấp trà ngó trời không.
(Tháng 8, 2009)
***
KỶ LỤC CỦA MỘT BẬC THẦY
Vĩnh Hảo
Ngọn đồi không cao nhưng diện tích khá rộng. Nếu đi bộ một ṿng quanh chân đồi, cũng mất gần một ngày. Cây cối trên đồi đă được đốn hạ trụi lủi từ năm năm trước để tiến hành công tŕnh xây dựng ngôi chùa, đạt kỷ lục là có chánh điện rộng lớn nhất nước; bên cạnh đó, lại thêm một kỷ lục là có tượng Phật tọa thiền vĩ đại nhất châu lục. Thế nên, khi công tŕnh xây dựng hoàn tất, nh́n từ xa, chỉ thấy ngôi chùa nguy nga với mái ngói xanh đỏ và tượng Phật to lớn thếp vàng nhũ lóng lánh, nổi bật giữa trời mây, không c̣n thấy ngọn đồi.
Ngoài chánh điện, nơi đây c̣n có nhiều ṭa nhà rộng lớn, bao gồm tiền sảnh, hậu sảnh, tăng xá, tàng kinh các, bảo tàng viện, tăng quán, v.v… với ngói lợp nhập cảng và cột kèo chạm trổ tinh vi, tiếp nối liền lạc nhau tạo nên một quần thể kiến trúc qui mô, chiếm hết diện tích ngọn đồi, từ chân lên đỉnh, từ mặt trước đến mặt sau.
Trên đỉnh đồi, phía tây của chánh điện, sư phụ cho dựng một căn nhà rường bằng gỗ, h́nh lục lăng, không vách, đặt tên là Không Phong Các. Gió lồng lộng suốt ngày đêm. Sư phụ thường ngồi uống trà một ḿnh nơi đó. Thỉnh thoảng mới có khách phương xa đến, xin được bái kiến vị tăng sĩ nổi danh chế tác nhiều kỷ lục không ai làm nổi.
Sư phụ chỉ có một đệ tử xuất gia, đă theo chân sư phụ từ lúc c̣n niên thiếu. Trước, cũng có nhiều đệ tử khác xin thọ pháp với sư phụ nhưng đă lần lượt hoàn tục hoặc rời bỏ thầy để cầu học với minh sư khác. C̣n lại người đệ tử hữu duyên này, nay đă là một vị tỳ-kheo xấp xỉ tuổi ba mươi. Từ khi sư phụ dấn thân vào việc xây dựng cơ sở, nay tỉnh này, mai tỉnh nọ, thầy tṛ ít có cơ hội ngồi với nhau để dùng bữa hay đàm đạo. Liên tục nhiều năm, sư phụ thường đi tham sát, đốc thúc các công tŕnh xây dựng, trong khi đệ tử th́ đóng cửa nghiên cứu kinh điển, tham thiền nhập định. Sư phụ đi đến tỉnh nào, đệ tử khệ nệ mang kinh sách theo đó; chưa một lần bắt tay vào việc của sư phụ, mà sư phụ cũng chưa bao giờ yêu cầu đệ tử tiếp giúp. Việc thầy thầy làm, việc tṛ tṛ làm; người lo xây dựng bên ngoài, người lo xây dựng bên trong.
Hôm nay sư phụ muốn vời đệ tử ra ngoài đàm đạo. Cửa pḥng đệ tử đóng kín, bên trong im lặng như tờ. Sư phụ gơ cửa ba tiếng không thấy trả lời, đành để lại một mẩu giấy nhỏ rồi một ḿnh ra ngồi nơi Không Phong Các, chờ đợi. Nửa giờ đồng hồ sau mới thấy đệ tử xuất hiện.
“Thầy gọi con có việc?” đệ tử cung kính thưa.
Sư phụ không nói, chỉ tay nơi một ghế trống, bảo đệ tử ngồi. Đệ tử không dám ngồi, vẫn cung kính đứng một bên, chờ sư phụ dạy bảo.
“Con vào thiền bao năm đă t́m thấy ǵ rồi?” sư phụ hỏi với nụ cười nhẹ.
“Thưa, vẫn nơi ấy, không tăng không giảm.”
“Nghĩa là cứ lẩn quẩn một chỗ hay sao?”
“Thưa, chỉ là không rơi vào chỗ nào ạ,” đệ tử minh xác.
Sư phụ trầm ngâm một lúc, nói:
“Tri không đủ, phải hành con ạ. Thầy đă dấn thân thực hiện nhiều phật-sự ở khắp các tỉnh thành, dù miệt mài trong nhiều năm qua vẫn cảm thấy là chưa thỏa nguyện. V́ không muốn làm gián đoạn công phu và ư nguyện của con, thầy cứ một ḿnh gánh hết mọi việc. Nay thầy đă già, cảm thấy sức lực không kham nổi những công tŕnh lớn. Những ngày qua, sau khi hai kỷ lục vĩ đại cuối cùng được hoàn thành nơi đây, thầy nghĩ là tạm đủ. Thầy muốn tịnh dưỡng. Nhưng cũng nhờ ngồi nơi đỉnh đồi này nhiều ngày, thầy bất ngờ nghĩ ra một công tŕnh vĩ đại hơn tất cả những công tŕnh mà trước đây đă làm. Ôi, thật thú vị, thật kỳ diệu thay!...”
Đệ tử liền lên tiếng, cắt ngang hứng cảm của sư phụ:
“Thưa thầy, con nghĩ thầy nên nghỉ ngơi. Một ḿnh thầy đă tạo nên 9 kỷ lục không ai làm nổi. Nay thầy cũng bắt đầu già yếu, thầy nên tịnh dưỡng, không cần phải tạo thêm kỷ lục nào nữa.”
Sư phụ chưng hửng một thoáng, rồi nói, giọng hơi gắt:
“Ta nói chưa hết ư mà!”
Thầy-tṛ im lặng một khoảng lâu. Sư phụ tằng hắng, nói:
“Như đă nói khi năy, thầy muốn tịnh dưỡng. Nhưng sáng kiến thực hiện kỷ lục vô tiền khoáng hậu này, nhất định không thể bỏ qua, mà nên làm cho bằng được. Kỷ lục này, thầy đặt lên vai con đấy!”
“Ồ, thầy muốn con… thay thầy thực hiện kỷ lục.. thứ mười à? Thưa thầy, con… sao làm nổi…, con đâu biết bắt đầu từ đâu… biết làm ǵ bây giờ!” đệ tử lúng búng nói trong họng.
Thầy nghiêm giọng, nói như trách móc, cũng vừa khích lệ:
“Con đóng cửa hai mươi năm qua để dồi mài kinh điển, t́m ǵ, thấy ǵ vậy hả? Pháp Phật không phải chỉ nằm trong những cuốn kinh, những bài thi kệ! Năm xưa ta cũng như con, từ tịnh thất bước vào ḍng đời, hai bàn tay không, kinh nghiệm không có, biết ǵ mà làm! Cứ dấn thân đi vào, sẽ tự t́m thấy con đường, tự biết việc ǵ phải làm. Những kiến thức nào con đạt được từ kinh sách, chỉ có thể tự soi cho chính con, chứ soi sáng ǵ được cho thế gian? Không lẽ cứ ngồi trong thư pḥng mà nhai đi nhai lại những sở văn, sở kiến! Hăy dũng mănh dấn thân, mà cái dũng đầu tiên của thiền sư là bước ra khỏi tháp ngà nhàn tịnh an vui của ḿnh.”
Sư phụ ngưng, xoay qua cái bàn nhỏ, với lấy b́nh nước sôi; đệ tử vội đỡ lấy b́nh, tay run run chế nước vào ấm trà mới thay. Hương trà ướp sen xông lên một thoáng rồi theo gió cuốn đi. Đệ tử rón rén ngồi xuống chiếc ghế trống khi năy sư phụ cho phép ngồi; châm trà vào chung. Hai thầy tṛ im lặng hồi lâu. Một toán du khách ăn mặc lịch sự, ồn ào bước ngang Không Phong Các; thấy hai thầy tṛ đang ngồi im ĺm tư lự, họ lập tức ra dấu với nhau, xuống giọng, không huyên náo nữa, chắp tay xá dài rồi đi thẳng về hướng đông, khu vực chánh điện.
Chờ không khí chung quanh yên lắng rồi, sư phụ nhấp ngụm trà, tiếp tục dạy đệ tử:
“Thế gian này không ǵ c̣n măi, nhưng trong tương đối, có những cái tồn tại rất dài lâu, mà một đời người không sao mục kích hoặc cảm nhận được sự biến đổi trong chúng. Như mặt trời, mặt trăng, như tảng núi kia… bao nhiêu triệu năm qua, vẫn như thế, có ai thấy được chúng đă đổi thay thế nào. Chưa kịp thấy sự biến hoại của chúng là đă trở thành người thiên cổ rồi. V́ vậy, thầy tạo nên 9 kỷ lục th́ cũng có lư do: thầy muốn gây ấn tượng thật mạnh vào tâm thức của người tham quan, chiêm bái; đồng thời cũng muốn những kỷ lục này, tuy là vật chất hữu h́nh hữu hoại, sẽ ở lại thật lâu với đời, ít ra cũng vài trăm cho đến cả ngh́n năm. Mấy trăm năm không so ǵ được với tuổi của thiên địa nhật nguyệt, nhưng dù ǵ cũng khiến cho hàng triệu người của bao thế hệ thành tâm lễ bái, hoặc chắp tay cung kính, hoặc cúi đầu ngưỡng mộ, thậm chí chỉ chiêm quan v́ ṭ ṃ, thị hiếu… cũng gieo được duyên lành với Phật. Con hiểu ư chỉ của thầy rồi chứ?”
“Dạ, con hiểu,” đệ tử nhỏ giọng thưa.
“Hai mươi năm qua, thầy chưa một lần yêu cầu con làm việc ǵ trọng đại. Nay đă đến lúc thầy cậy đến con, mà con cũng nên xem đây như việc của con, đừng miễn cưỡng nhận đó như là việc thầy giao phó. Con hăy rời khỏi thiền sàng, dấn thân vào trần gian khổ lụy, vận dụng trí tuệ nội quán mà phát khởi ḷng từ đối với chúng sinh. Con chỉ có thể chứng nghiệm được niết-bàn ngay nơi cuộc đời khổ đau tận cùng này mà thôi.”
Người học tṛ run bấn cả người, đứng dậy rời khỏi ghế, có vẻ như muốn quỳ xuống, hoặc đảnh lễ sư phụ, nhưng sư phụ đă nhanh nhẹn cầm lấy tay đệ tử, nâng dậy, đẩy đệ tử trở lại chỗ ngồi. Đệ tử chắp tay, nói lắp bắp, giọng đầy cảm xúc:
“Thưa thầy… con xin tâm lĩnh lời dạy của thầy… Xin cho con biết con nên bắt đầu từ đâu, và khi nào.”
Sư phụ không vội trả lời; tầm mắt phóng đến tận chân trời phía tây, nơi dăy núi Người Nằm mờ ảo ẩn hiện trong sương chiều. Một lúc, sư phụ chậm răi nói:
“Chúng ta đă có quả chuông lớn nhất, tượng Phật tŕ b́nh cao nhất, ngôi chùa có nhiều tượng Phật nhất, Phật khổ hạnh bằng đồng nặng nhất, tháp chín tầng cao nhất, tượng Phật bằng đá hoa cương lớn nhất, tượng Phật bằng ngọc lớn nhất, chánh điện rộng lớn nhất, và tượng Phật tọa thiền lớn nhất…”
Sư phụ nói ngang đó th́ ngưng; mắt không rời dăy núi Người Nằm. Đệ tử dơi theo mắt sư phụ, vẫn chưa đoán nổi kỷ lục thứ mười của sư phụ là ǵ. Thầy tṛ ch́m trong im lặng. Bất chợt, sư phụ lại lên tiếng:
“Có ít nhất là hai lư do thầy muốn con thay thầy thực hiện kỷ lục cuối cùng này. Thứ nhất, thầy đă bắt đầu yếu, không thể đi xa, không thể đảm đương công tŕnh lớn và dài hạn; thứ hai, thầy không muốn con hóa thành gỗ đá trong thiền pḥng. Con hăy nh́n xem, dăy núi kia, rơ ràng là dáng một người nằm nghiêng bên phải, chiều dài non hai cây số, chiều cao khoảng năm trăm thước. Thầy muốn biến cả dăy núi ấy thành tượng Phật nhập diệt vĩ đại nhất thế giới! Chúng ta phải làm được, nhất định phải làm được!”
Đệ tử thất kinh, mặt mày xanh mét, nói lắp bắp:
“Thưa thầy, sao mà làm nổi! Con không thể… Công tŕnh này to tát quá… con e sức con…”
“Con sẽ làm được. Thầy tin con làm được,” sư phụ quả quyết.
Đệ tử ngồi im, mặt cúi xuống, hai bàn tay đan nhau đặt trên bàn, run lẩy bẩy. Sư phụ nh́n đệ tử, thương xót, khích lệ:
“Hai mươi năm trước, việc này đối với thầy là một thách thức kỳ thú, nhất định thầy phải thực hiện cho bằng được. Con đừng tự ti, chùn ḷng trước những việc lớn. Thực ra chẳng có đại sự ǵ ở đời này mà người xuất gia chúng ta không làm nổi. Chỉ là muốn làm, quyết tâm làm hay không mà thôi. Ĺa tất cả vọng chấp, thoát ly sinh tử mới là đại sự; c̣n những phật-sự hữu h́nh hữu tướng này, có đáng sá ǵ mà con phải khiếp hăi!”
Đệ tử bàng hoàng như vừa tỉnh mộng, đứng bật dậy, sụp lạy sư phụ một lạy, rồi quỳ chắp tay, kính cẩn thưa:
“Con xin vâng lĩnh ư chỉ của thầy. Con xin nhận.”
Sư phụ gật gù hài ḷng; đỡ đệ tử dậy, ôn tồn nói:
“Thầy đă bàn thảo với những người cọng sự của thầy từ tuần trước. Nhóm kiến trúc sư ước tính kinh phí cho toàn công tŕnh là khoảng 80 ngh́n lượng vàng, sử dụng khoảng 100 nhân công thường trực, chính thức, làm việc ngày tám giờ, ṛng ră trong 10 năm th́ có thể hoàn tất. Nhóm người trong hội của thầy sẽ tŕnh bày chi tiết từng giai đoạn của công tŕnh dài hạn này. Nhóm này sẽ theo con đến hiện trường, gồm có 4 kiến trúc sư, 4 kỹ sư xây dựng, 4 bác sĩ và y tá, 5 vơ sĩ bảo vệ, 5 đốc công điều hành, 7 người đảm trách thủ quỹ và vận động tài chánh, 8 người lo hậu cần. Khi nào con sẵn sàng, họ sẽ cùng con lên đường. Phần thầy, sẽ nhập thất dài hạn cho đến khi con hoàn tất công tŕnh trở về.”
Đệ tử vẫn c̣n phân vân, rụt rè hỏi:
“80 ngh́n lượng vàng, quá lớn, làm sao mà có?”
“Đừng lo con à. Con không biết là 9 kỷ lục trước đây, kỷ lục nào cũng phải tốn vài chục ngh́n lượng vàng hay sao! Thầy làm việc nào cũng đều có các đại thí chủ ở khắp các tỉnh cúng dường, ủng hộ cả. Sau thành công của mỗi kỷ lục, họ đều mong muốn được tiếp tục đóng góp. C̣n có những phú thương đến t́m thầy, xin được cúng dường hàng trăm, hàng ngh́n lượng vàng để dành sẵn trong quỹ để dùng đến khi hữu sự. Những người này đă tỏ ư hối tiếc v́ không biết trước công tŕnh thầy làm, và dặn khi nào thực hiện công tŕnh mới, hăy cho họ cơ hội đóng góp, kinh phí lớn bao nhiêu họ cũng không ngại. Nói để con yên ḷng, trong quỹ của hội hiện nay không đủ con số 80 ngh́n lượng vàng, nhưng cũng xấp xỉ gần bằng con số ấy. Thầy chỉ cần thông báo với các đại thí chủ ở các tỉnh là họ cấp tốc chuyển vàng cúng dường ngay; không chừng tịnh tài đóng góp c̣n vượt khỏi số kinh phí cần đến nữa ḱa!”
*
Thiền sư xuống núi. Một túi vải đơn sơ với y áo và dăm cuốn kinh đă lật nhăn cả giấy. Từ đỉnh đồi cao, quay nh́n ngôi chùa đồ sộ nguy nga lồng lộng dưới ánh triêu dương; ngước nh́n tượng Phật kỳ vĩ vàng chóa, vươn lên giữa bầu trời mây trắng; rồi nh́n về dăy núi xa, xanh thẫm, nổi bật ở phương tây.
Nhóm người của hội đang trên xe, chờ đợi dưới chân đồi.
Thiền sư nh́n hai bàn tay trắng của ḿnh, tự hỏi: đâu là chỗ diệu dụng của bồ tát hạnh? Rồi nh́n xuống hai chân với đôi giầy mới sư phụ vừa trao đêm trước: đâu là khởi điểm của bồ-tát đạo?
Rời khỏi ngôi đại tự, từ cao xuống thấp, lững thững bước từng bậc cấp đi vào cuộc đời.
Những người hành khất ăn mặc rách nát, ngồi dọc hai bên đường, ngửa tay xin. Những người tàn tật nằm lết trên đất. Những đứa trẻ mặt mày nhem nhuốc, tay chân dơ bẩn, níu lấy vạt áo thiền sư:
“Thầy ơi, chúng con đói lắm, thầy cho chúng con tiền mua cơm…”
“Ơ… thầy không có tiền,” thiền sư lúng túng, “các con vô trong chùa, nhà bếp sẽ cho cơm ăn nhé!”
“Không có đâu thầy ơi,” lũ trẻ nhao nhao lên, “chúng con chưa bao giờ vào được cổng th́ làm sao đến được nhà bếp!”
Thiền sư đứng lại, sững sờ, nh́n bầy trẻ, nh́n những hành khất cha mẹ chúng, rồi quay nh́n về cổng tam quan đồ sộ kiên cố. Thực vậy sao? Những người đói khổ này chưa bao giờ bước vào được cánh cổng kia, chưa bao giờ đặt chân lên thềm ngôi chánh điện nổi tiếng rộng lớn nhất nước? Phải rồi, ăn mặc rách rưới, đầu tóc rối bù, chân không giầy giép… th́ làm sao mấy người gác cổng cho phép họ vào bên trong ngôi chùa lộng lẫy nguy nga, vườn hoa muôn sắc đẹp đẽ, sân trước sân sau lát đá hoa bóng loáng…
“Đi, mọi người đi theo thầy, thầy dắt vào trong bếp kiếm cơm,” thiền sư vừa nói, vừa đưa tay mời gọi.
“Không dám thầy ơi, chúng con không vào đâu, đến cổng cũng bị chặn lại, mà thầy có dẫn vô được bên trong chúng con cũng bị mấy bác ở bếp đuổi ra thôi… chúng con sợ lắm, không dám đâu,” đứa trẻ lớn nhất nói; rồi một đứa khác tiếp lời, “nhà bếp đă dặn không được vào đó, nếu không nghe lời sẽ vĩnh viễn không cho ăn nữa.”
Đưa họ vào bếp xin cơm không xong, mà cho họ tiền th́ không có. Thiền sư bao năm ẩn tích trong thiền pḥng, mọi việc trong chùa đều có sư phụ và các tín chủ lo, nên không có nhu cầu mua sắm vật dụng, chưa bao giờ giữ tiền trong túi. Thiền sư biết ở trong các xe đậu dưới chân núi, những người trong hội đang giữ một số vàng kếch xù, để thực hiện một dự án rất lớn, nhưng một ít đồng bạc lẻ để chia sẻ cho những người đói khổ th́ không có.
Thiền sư chẳng biết nói ǵ, làm ǵ, cứ đứng sững nơi đó. Đoàn tùy tùng dưới chân đồi ngóng cổ chờ đợi. Những kẻ đói nghèo ngước mắt trông mong. Mặt trời lên cao, trồi khỏi mái chùa và nằm ngay sau tâm điểm của h́nh tượng pháp luân trên nóc chánh điện, khiến biểu tượng này như tự tỏa chiếu vầng hào quang sáng ngời. Nắng mai cũng rực rỡ trải ánh vàng trên khắp ngọn đồi và làng mạc gần xa; lấp lánh trên mặt sông tĩnh lặng, và soi rọi những nét mặt sầu năo của những người hành khất nằm ngồi la liệt hai bên đường.
Con người dễ khiếp sợ và trở nên nhỏ nhoi, co rúm trước những h́nh tượng vĩ đại. Sự hân thưởng cái vĩ đại có khi chỉ là mặt trái của ḷng tự ti, yếu đuối và tùng phục, chưa hẳn là niềm tin hay ngưỡng vọng đối với điều toàn thiện, toàn mỹ.
Những kiến trúc hoành tráng cao sang, thường khi không dính nhập ǵ đến nỗi thống khổ của con người, mà c̣n là sự trêu ngươi, d́m đẩy những kẻ khốn cùng xuống tận đáy vực của niềm tuyệt vọng.
Kẻ giàu có thường thích làm những ǵ to lớn, để lại danh thơm, không quan tâm những điều nhỏ nhặt; trong khi những điều nhỏ nhặt ấy, lại thường là ước vọng to lớn một đời của những người nghèo thiếu.
Một kẻ đói khổ thiếu thốn th́ chỉ nghĩ đến miếng cơm, manh áo, không dám vọng cầu những điều xa hoa, cao viễn; trong khi những đền đài tráng lệ nguy nga th́ không thích hợp cho những đôi chân lấm bụi chạm đến.
Cái vô tận th́ không có h́nh tướng; cái có h́nh tướng th́ không thể vô biên.
Cái vô hạn th́ không đếm được bằng năm tháng; c̣n tính đếm được bằng dấu mốc thời gian—dù là hàng ngh́n năm—vẫn chỉ là những chớp mắt của cơn đại mộng phù hư.
*
Mười năm sau, sư phụ ra thất; ngày ngày ngồi lặng nơi Không Phong Các, dơi mắt nh́n về dăy núi xa. Mắt đă mờ thêm hay sương mù phủ kín không thấy dáng người nằm? Đệ tử xuống núi mười năm chưa thấy quay đầu. Chung trà lạnh hơi chờ người đối ẩm, kể chuyện đội đá vá trời giữa ngh́n trùng gió bụi…
Rồi một ngày, đang trưa đứng bóng, ve sầu râm ran đầu hạ, hiu hắt gió lùa cửa không, người đâu từ xa về tới. Sư phụ nhướng mắt, cố nh́n, cố nhớ; không biết là vui hay buồn.
“Con đó sao, Tuệ Không?”
“Thưa không phải, con là kiến trúc sư Tuệ Minh năm xưa, thầy c̣n nhớ không?”
“Ồ, Tuệ Minh, con thí phát xuất gia rồi sao? Thế c̣n Tuệ Không, đệ tử của ta đâu rồi? Thế c̣n kỷ lục Phật Nhập Diệt… đă tiến hành đến đâu, hoàn tất chưa?”
Tuệ Minh lạy sư phụ, dâng một tấm bản đồ thật lớn, trải ra chiếm hết mặt bàn. Bản đồ địa lư của một nước mang h́nh dáng người nằm; chi chít dọc theo địa danh các tỉnh, huyện, xă… là tên và địa điểm của những ngôi chùa, nối nhau từ cực nam đến cực bắc, từ đông qua tây, tạo nên h́nh dáng Phật nhập niết-bàn. Tuệ Minh nói, đó là một ngh́n ngôi chùa nhỏ được thầy Tuệ Không xây dựng suốt mười năm qua. Thay v́ 80 ngh́n lượng vàng để thực hiện công tŕnh Phật nằm vĩ đại nhất thế giới, một ngh́n ngôi chùa nhỏ đă được dựng lên khắp nước. Từ những vùng quê nghèo khó, cho đến những thôn ấp, buôn làng hẻo lánh, xa xôi; từ thành thị lên non cao, từ ven sông ra vùng biển, nơi nào cần chùa, cần tiếng chuông hôm sớm, đều đă được xây một cảnh chùa nho nhỏ, nhưng ấm cúng, gần gũi với dân t́nh địa phương.
Đoàn tùy tùng 37 người năm ấy theo thiền sư thực hiện công tŕnh, sau mười năm vừa tu học vừa cất một ngh́n ngôi chùa, đều đă thí phát xuất gia, phân bố đi hoằng pháp khắp nước.
Sư phụ im lặng, trầm ngâm, nh́n chăm chăm vào tấm bản đồ. Từ bức vẽ vô tri, từ dáng Phật nằm mơ hồ với những tên chùa chằng chịt đan xen, sư phụ có thể mường tượng ra những đạo tràng trang nghiêm, tiếp nhận tất cả mọi người không phân biệt thành phần xă hội, kẻ trí thức hay người b́nh dân, kẻ giàu sang hay người nghèo khó… Một ngh́n ngôi chùa nhỏ, trung b́nh mỗi ngôi chùa phí tổn tám mươi lượng vàng, hẳn không thể nào là những ngôi danh lam hay thắng cảnh ǵ đặc biệt; cũng không ngôi chùa nào trong số đó lập được kỷ lục Phật giáo hay thành tích văn hóa ǵ của quốc gia. Nhưng nơi đó, nơi thềm hiên và nền chánh điện, những bàn chân lấm lem śnh lầy bụi đất, đều có thể hồn nhiên, không ngần ngại dẫm lên…
“Vậy bây giờ Tuệ Không ở đâu, sao không về thăm thầy?” sư phụ hỏi.
“Thưa, từ ngày xây ngôi chùa cuối cùng, đặt tên là Vô Tướng, chúng con không thấy thầy Tuệ Không đâu nữa. Bặt vô tung tích.”
Sư phụ gật gù, nh́n xa xăm. Tuệ Minh đă cáo biệt từ lâu mà sư phụ hầu như không biết. Nơi Không Phong Các, sư phụ châm trà dưới trăng, uống một ḿnh. Cạn cữ trà th́ trăng đă chếch qua hướng tây, vằng vặc một phương trời. Dăy núi Người Nằm ngời lên dưới ánh trăng vàng sáng. Sư phụ bỗng bật cười lên sảng khoái, rồi buột miệng nói:
“Tuyệt vời thay học tṛ của ta! Kỷ lục vô danh vô tướng của con mới đúng thực là vô tiền khoáng hậu!”
California, ngày 01 tháng 8 năm 2015
Vĩnh Hảo