CHƯƠNG
BỐN
Chúng
tôi cùng ra vườn rau ở phía phải của chánh điện. Khoảnh vườn này
rộng hơn hai mẫu tây. Trước năm 1975, chùa cho một gia đ́nh
nghèo canh tác, nay người canh tác đă bỏ đi, chùa lấy lại để
trồng rau lang và đậu phụng. Đất vườn rất xấu, loại đất cát y
như cát dưới biển, chẳng có màu mỡ ǵ. Mỗi giống rau hay đậu
gieo tỉa xuống đều phải có phân chuồng hay phân u-rê thúc vào
mới chịu phát triển. Tôi và chú Tửu được đặc trách tưới vườn rau
hai mẫu này hàng ngày trong thời gian mới xuống giống. Nay rau,
đậu đă lên cao, có củ, có trái, chúng tôi không phải tưới mỗi
ngày nữa.
Ở góc
vườn có một cái ao sâu do người trong chùa tự đào lấy. Bằng con
đường nhỏ lài lài dẫn xuống ao, chúng tôi gánh nước lên để tưới
cho cả vườn rau rộng. Đất này cũng lạ, cứ đào đại xuống chừng
ba, bốn thước là có nước mạch tuôn ra, tạo thành ao. Ao không
rộng lắm, đường kính chỉ độ chừng năm, sáu thước, nhưng có chỗ
sâu lút đầu người. V́ ao sâu, nước sạch, lại nằm biệt lập trong
khuôn viên chùa, nên có những buổi trưa trời nắng gắt, tôi và
chú Tửu không ngăn được ư thích ngâm ḿnh dưới ḷng nước mát
rượi ấy, và cũng bơi được ṿng ṿng trong ao như những đứa trẻ
chăn trâu vậy. Chỗ đó vắng vẻ, không người qua lại. Thỉnh thoảng
quên chuyện oai nghi tế hạnh, làm những ông Phật con tắm ao kể
cũng thú vị.
Chúng
tôi ngồi xuống trên bờ ao. Nước ao trong vắt. Lâu lâu mới thấy
một con chuồn chuồn tinh nghịch làm gợn lên những ṿng sóng nhỏ,
lan nhanh trên mặt nước.
“Chú
hết bệnh, tôi thực là mừng,” chú Tửu nói. Thấy tôi không nói ǵ,
chú tiếp:
“Ngày
đầu tiên, thấy chú ngồi măi trong mùng… tôi thực e ngại. Sợ là
đủ thứ bệnh khác lại nổi lên. Có khi tôi nghĩ bậy bạ là chú sẽ
ngồi thiền rồi… tịch luôn. Mà sao lại có điều thần diệu như vậy
nhỉ? Mấy thứ bệnh, không thuốc trị, tự dưng kéo đi hết. Có phải
nhờ chú tŕ tụng thần chú không? Thần chú nào mà linh quá vậy?”
Tôi chỉ
mỉm cười, không trả lời chú Tửu. Mặc dù tôi đă tŕ tụng thần chú
Chuẩn Đề - một trong năm bộ chú thông dụng và nổi tiếng của Mật
tông - trong suốt ba ngày ba đêm vừa qua, nhưng tôi biết rằng,
chỉ có sự định tâm, không tạp niệm, mới đem lại hiệu quả bất ngờ
(mà người ta quen gọi là sự linh nghiệm). Có nghĩa rằng nếu tôi
tŕ tụng một câu thần chú khác, hay một câu niệm Phật khác một
cách chú tâm trong ba ngày ấy, kết quả cũng y hệt. Điều quan
trọng vẫn là sự định tâm, bất loạn. Có điều, câu thần chú Chuẩn
Đề tôi đă quen niệm từ nhiều năm, hẳn là dễ đưa tôi đến trạng
thái nhất tâm hơn.
“Có một
lá thư và một cái điện tín trên bàn, chú đă đọc chưa? Của thầy
Thông Chánh, từ Phật viện Hải Đức Nha Trang. Lá thư đến trước,
điện tín đến sau. Điện tín nói thầy Thông Chánh sẽ đến đây trong
ṿng một, hai ngày nữa.”
“Thiệt
sao? Thầy ấy ra chơi hay có việc ǵ không? À, chắc đọc thư th́
biết.”
“Ra
thăm xem chú bệnh hoạn làm sao đó mà.”
“Sao
chú biết?”
“Th́...
th́ tại tôi nóng ruột nên gửi thư về Phật học viện Hải Đức báo
cho thầy Thông Chánh...”
“Mô
Phật, chuyện đó có ǵ đâu mà phải báo. Chú làm vậy lỡ đến tai
gia đ́nh tôi, ba me tôi lo lắng, đâu có ích ǵ.”
“Thôi
lỡ rồi, sau này tôi không làm như vậy nữa. Nhưng phải nói thực
rằng lúc thấy chú bệnh mà không thuốc chữa, tôi nóng ruột nóng
gan lắm. Chẳng c̣n cách nào khác hơn là báo về Nha Trang để thầy
Thông Chánh hay gia đ́nh t́m cách…”
“Cám ơn
chú. Chỉ sợ là mất công thầy Thông Chánh phải ra đến đây chỉ để
thăm khi ḿnh đă hết bệnh, và bệnh cũng đâu có nặng nề ǵ lắm
đâu!”
“Nặng
chứ sao không. Xương hàm tê cứng, ê răng không nhai được, miệng
không thể há, cả tuần phải nhịn ăn… c̣n chờ nặng đến cỡ nào mới
báo!”
Trở về
pḥng, bóc lá thư của thầy Thông Chánh ra xem, tôi mới biết rằng
thầy ấy dự định đi Hội An đưa tôi về Nha Trang để trị bệnh chứ
không phải chỉ ra thăm. Thư cũng cho biết bổn sư của thầy Thông
Chánh là Ḥa thượng Thích Trí Hữu, vị trụ tŕ khai sơn chùa Ấn
Quang, đă viên tịch. Linh cốt của Ḥa thượng đă được đưa ra chùa
Linh Ứng ở Ngũ Hành Sơn Non Nước để xây tháp thờ tại đó. Thầy
Thông Chánh nhân dịp tháp tùng phái đoàn đưa linh cốt ra Non
Nước, ghé chùa Long Tuyền để đưa tôi về Nha Trang.
Nhiều
tháng nay, từ khi phải bỏ trường lớp, lao động ruộng vườn, tôi
không có th́ giờ để bận tâm nghĩ đến Nha Trang và những người
thân thuộc của tôi nơi thành phố đẹp và hiền ḥa ấy. Tôi không
nhớ và cũng không hiểu rơ do đâu mà tôi quyết định ở lại, không
về Nha Trang, khi Phật học viện nơi đây đă giải tán. H́nh như
quyết định ở lại chỉ là để chứng tỏ tâm chí của ḿnh không bị
lung lay bởi hoàn cảnh, thời thế - không phải những người cộng
sản kéo vào miền Nam th́ cái thằng tôi này kinh hoảng, tất tả bỏ
trường, chạy về quê để nương bóng thầy bổn sư, gần gũi gia đ́nh
thân thuộc; không phải hoàn cảnh lao động cực nhọc lam lũ, ăn
uống cực khổ thiếu thốn ở ngôi chùa Long Tuyền này khiến cho
thằng tôi này phải chán ngán bỏ đi… Tóm lại, chuyện tôi không về
Nha Trang thực ra đâu có cái ǵ cao thượng, ư nghĩa, như những
bức thư từ Nha Trang gửi ra, khen ngợi.
Đă có
một thời tôi được thầy bổn sư gởi đến chùa Linh Phong để học làm
việc, học gian khổ. Lúc đó tôi đă học việc một cách miễn cưỡng.
Nay tôi tự ư ở lại chùa Long Tuyền, cũng là một cách học việc,
mà cũng là để chứng tỏ ḿnh đă trưởng thành, sẵn sàng phóng ḿnh
vào những ḷ trui luyện khả năng chịu đựng khổ nhọc. Cái tâm chí
ngạo nghễ của đứa con trai mới lớn thường như vậy. Thích gian
nan, thích khổ nhọc, để chứng tỏ mức độ trưởng thành của ḿnh.
Nay tôi ôn lại những điều đó với một nụ cười nhạt. Tôi thấy
không cần phải chứng tỏ với mọi người bất cứ điều ǵ về thằng
tôi này nữa.
Tất cả
các chú từ Nha Trang ra Hội An học cùng một khóa với tôi, đều đă
trở về từ những ngày đầu của chính phủ Cách Mạng Lâm Thời. Chú
Sáng về Nha Trang trễ hơn các chú khác, nhưng cũng từ hôm tháng
sáu, hai tháng sau biến cố ba mươi tháng tư. Bây giờ là tháng
mười hai âm lịch, tức là đă qua tháng giêng năm một chín bảy
sáu. Có nghĩa là tôi đă sống chín tháng dưới chế độ mới mà chưa
nh́n lại được bộ mặt của Nha Trang, chưa thăm lại chùa xưa, thầy
bạn cũ và nhất là gia đ́nh ruột thịt của ḿnh trong hoàn cảnh
mới của đất nước. Ngay cả chuyện viết thư về Nha Trang tôi c̣n
không giữ được mức độ thường xuyên mỗi tuần một lần như xưa. Có
khi hai tháng tôi mới viết về cho gia đ́nh một lần; và ba, bốn
tháng mới viết thư cho thầy bổn sư của tôi – thầy Hải Tuệ, và
người anh tinh thần hướng dẫn tôi du học từ lúc mới xuất gia –
thầy Thông Chánh.
Bây giờ
đọc là thư của thầy Thông Chánh viết từ Nha Trang, trong trí tôi
bỗng hiện lên rơ ràng ngôi chùa Hải Đức trên núi cao, cây cối
xanh um, đẹp đẽ… Và bỗng thấy một nỗi niềm ǵ đó rộn ră, bâng
khuâng, dâng nhè nhẹ trong ḷng. Tôi tưởng tôi đă như một tượng
đồng, tượng gỗ, bất động trước hoàn cảnh. Nhưng không phải vậy.
Sau ba ngày im lặng chú tâm thiền định và tŕ tụng kinh chú, tôi
như một kẻ mông muội vừa bước ra khỏi cơn mê dài với một tâm hồn
và một thể xác dường như là mới mẻ, tinh anh, vui không tả được.
Chẳng phải tôi thành Phật thành Thánh ǵ đâu. Chỉ đơn giàn là
một con người mới, với tâm tư sảng khoái, nhẹ nhàng và yêu đời
hơn. Cho nên, đọc bức thư của thầy Thông Chánh gợi ư là nên trở
về Nha Trang, tự dưng tôi thấy là tôi muốn trở về thật. Tôi vẫn
thường thích đi đây đi đó, xa cách quê hương chừng nào tốt chừng
đó. Nhưng đă xa Nha Trang một thời gian khá lâu rồi, bây giờ tôi
nh́n về xứ ấy như nh́n về một thế giới mới lạ, đầy quyến rũ, mời
mọc. Một thế giới mới lạ trong cái nh́n mới, của một con người
mới trong tôi. Tôi biết tôi không c̣n thuộc về ngôi chùa Long
Tuyền này nữa.
Ô
Thầy Thông Chánh đến
chùa Long Tuyền vào buổi sáng, khi những người trong chùa đều đă
ra ruộng. Tôi vẫn c̣n được dưỡng bệnh trong chùa với vài công
tác nhẹ nên đă có nhiều th́ giờ để ngồi nói chuyện với thầy ấy.
Thầy Thông Chánh có mang theo thư của thầy bổn sư gởi tôi, trong
đó kèm một ít tiền xe. Mẹ tôi cũng gởi một lá thư ngắn, hẹn tôi
về sẽ nói chuyện nhiều hơn. Cả thầy bổn sư lẫn phía bên gia đ́nh
tôi, đều mong tôi. Thầy Thông Chánh cũng khuyên tôi nên về lại
Nha Trang. Dĩ nhiên là tôi không từ chối.
Tôi bỏ lại tất cả
sách vở, đồ đạc của ḿnh, biếu chú Tửu. Hành lư mang theo của
tôi chỉ là tấm y và bộ đồ vạt ḥ để thay đổi. Vỏn vẹn chỉ có
vậy. Có cái ǵ thật vui thú, sảng khoái trong hành động xách
hành lư ra đi, và nhất là hành động bỏ lại tất cả “tài sản”
của ḿnh. Có lẽ đây là lần thứ hai trong đời, tôi nh́n rơ được
nỗi vui của sự ra đi và buông bỏ. Lần thứ nhất, cách đây cũng
chỉ gần sáu năm, lúc tôi trốn nhà đi tu với hai bàn tay không,
vứt sách vở vào thùng rác của bến xe đ̣.
Tuy nhiên, lần này,
trong những kinh sách tôi để lại, có bộ kinh Pháp Hoa bằng chữ
Hán tôi chép tay đă hơn hai phần ba, c̣n dang dở. Chú Tửu nói để
chú chép tiếp cho trọn và sẽ mang bản kinh gốc trả lại cho chùa
Phước Lâm. Đó là công việc nửa chừng duy nhất mà tôi đành phải
gác qua, bỏ lại, tại ngôi chùa Long Tuyền này. Điều đó làm cho
nỗi vui ra đi của tôi bị giảm khá nhiều. Và không hiểu sao,
trong nhiều năm, tôi vẫn không quên được rằng có một bộ kinh
Pháp Hoa bằng chữ Hán do tôi chép tay chưa trọn, đă để lại nơi
ngôi chùa ấy. Có lẽ trên thực tế cuộc đời cũng vậy, hễ có một
nguyện ước không thành th́ con người sẽ ngậm ngùi ôm măi nỗi bất
an, buồn lắng, không nói được với ai, không giũ bỏ được, đành
chôn sâu ở đáy ḷng bằng sự chồng chất của thời gian. Một nguyện
ước nhỏ, hay một lời hứa nhỏ mà không giữ được, có thể sẽ khiến
tâm chí ḿnh buông lơi, dễ dăi, để rồi không giữ được nguyện ước
và lời hứa lớn.
Buổi chiều cùng
ngày, tôi theo thầy Thông Chánh ra bến xe Hội An, đi Non Nước.
Thầy Thông Chánh vẫn c̣n chút việc phải làm ở đó trước khi đưa
tôi về lại Nha Trang. Nghe nói đi Ngũ Hành Sơn Non Nước, tôi
càng thích thú. Sau một thời gian làm nông, bây giờ mới có dịp
thưởng ngoạn phong cảnh đẹp nhất của xứ Quảng.
Chúng tôi đến Non
Nước vào lúc chập choạng tối. Leo tam cấp đến chùa Linh Ứng th́
màn đêm cũng vừa buông. Muôn sao rực rỡ giữa tấm màn nhung đen
huyền ảo ấy. Lên đến sân chùa rồi, tôi vẫn c̣n nghe được tiếng
sóng biển vỗ lên bờ cát dưới chân núi. Âm thanh có khi như những
tiếng gầm thịnh nộ của một hung thần, nhưng cũng thực hùng
tráng, ngạo nghễ, và cao thượng đến nỗi tôi có thể cảm được
trong đó vẻ diễm lệ, huy hoàng của bộ mặt, của dáng dấp thiên
nhiên, hay của một khúc anh hùng ca bất tận mà chỉ thiên nhiên
mới là chàng nhạc sĩ duy nhất có thể tấu lên nổi.
Trên chùa đang có ba
vị thầy khác từ Sài G̣n ra, cùng ở lại với chúng tôi. Họ đều là
đệ tử của Ḥa thượng Trí Hữu, tức là huynh đệ đồng môn của thầy
Thông Chánh. Quư thầy họp mặt, tṛ chuyện vui vẻ, luôn tiện bàn
việc xây tháp thờ cố Ḥa thượng bên hông chùa.
Chùa không đủ chỗ
ngủ cho nhiều khách, chúng tôi phải nằm chung trên một bộ ván
rộng bằng gỗ lim. Gió từ biển thổi vào cửa sổ khiến cho cái mùng
cứ bị thụng vào phía trong, có khi chân mùng hổng lên khỏi
chiếu. Chúng tôi phải lấy sách chằn lại. Dù sao, gió mát cũng dễ
chịu. Trước khi ngủ, tôi vẫn c̣n nghe được tiếng sóng biển đập
mạnh lên bờ. Hùng tráng, kiêu sa, bất tận. Chưa có đêm không ngủ
nào lại thú vị đối với tôi như đêm nay.
Sáng hôm sau, quư
thầy đă bắt tay vào việc xây móng cho ngôi tháp. Tôi là một bệnh
nhân “con nít” trong mắt quư thầy nên được ở không. Tôi
dạo ra phía tam cấp, ngồi trên hàng lan can xây bằng đá, nh́n về
hướng biển. Nơi đây quả là lư tưởng để ngồi ngắm trời, ngắm
biển. Gió từ hướng khơi lùa vào không ngừng. Tôi có thể nếm được
vị mặn và thấy được màu xanh của đại dương qua những làn gió
lồng lộng ấy. Địa thế chùa Linh Ứng trên ngọn núi nhỏ này quả là
đặc biệt so với các chùa khác mà tôi biết. Khoảng cách giữa chân
núi và mặt biển chẳng bao xa. Ngồi ở đầu núi mà tôi c̣n có thể
thấy được những con c̣ng vội vă dấu ḿnh dưới cát hoặc chạy lơn
tơn t́m thức ăn mỗi khi sóng rút khỏi bờ. Sương mai h́nh như vẫn
chưa tan hết trên mặt biển rộng. Có lẽ v́ mặt trời dù đă lên cao
nhưng bị các đám mây dày cộm che khuất đi.
Tôi ngồi chơi một
ḿnh như thế khá lâu. Bỗng thầy có hai người tiến đến gần, lên
tiếng chào:
“Chào anh.”
Tôi quay lại nh́n.
Một anh bộ đội mặc quân phục, và một thiếu nữ mặc đồ bà ba. Tôi
chỉ thấy thoáng như vậy chứ không nh́n rơ mặt mũi và tuổi tác họ
thế nào. Tôi bỡ ngỡ đáp lại:
“Chào anh chị.”
Tưởng vậy là xong,
chuyện ai nấy làm, đường ai nấy đi. Nhưng không phải. Họ muốn
bắt chuyện làm quen với tôi.
Họ x́ xầm nói nhỏ
với nhau điều ǵ đó rồi anh bộ đội hướng về tôi, hỏi tiếp:
“Anh đi tu ở chùa
này, phải không ạ?”
“Không. Tôi là
khách. Tôi ở Nha Trang,” tôi miễn cưỡng trả lời.
“Tôi ngạc nhiên là
sao tuổi trẻ như anh lại đi tu nhỉ!”
Tôi nh́n về hướng
biển. Cảm thấy câu hỏi của anh bộ đội không dính nhập ǵ đến vẻ
thanh cao, lộng lẫy của một ngày mới đang ảnh hiện trên mặt nước
xanh thẫm bao la trước mắt. Chuyện đi tu có ǵ lạ mà phải thắc
mắc ḱa! Sáu năm xuất gia rồi, chưa có ai gặng hỏi tôi câu đó
với vẻ vừa thương hại, vừa mỉa mai như anh bộ đội này. Không,
h́nh như có một lần. Lần ấy, người ta không gặng hỏi nhưng trêu
ghẹo với ư mỉa mai như thế. Chuyện đó xảy ra vào một buổi sáng
sau ngày bộ đội cộng sản chiếm thành phố Đà Nẵng. Lúc đó, tôi và
mấy chú tiểu cùng quê Nha Trang phải đi bộ từ Đà Nẵng về Hội An.
Trên đường phố, một đoàn công-voa chở bộ đội cộng sản
chạy qua, bị nghẽn lối đâu đó phía trước nên phải chậm lại. Các
anh bộ đội trên xe nh́n chúng tôi, chỉ chỏ rồi la lối đủ điều:
“Ê, ăn mặc ǵ mà
luộm thuộm thế!”
“Thầy tu miền Nam
đấy, các đồng chí không biết à!”
“Sao lại đi tu hở
mấy bác, thất t́nh hay mồ côi mồ cút đây?”
Chúng tôi im lặng
bước đi, nhưng chú Cửu kéo tay tôi, sợ hăi:
“Coi chừng, họ bắn
ḿnh ḱa!”
Tôi quay đầu nh́n
lên phía mấy anh bộ đội, thấy một anh cầm súng hùng hổ như định
bắn chúng tôi. Không biết anh hăm dọa đùa hay thật mà những anh
bộ đứng kế bên chận lại, níu tay níu chân, ngăn cản dữ lắm. Bọn
tiểu chúng tôi không làm ǵ sai trái nên chẳng sợ ai bắn ḿnh.
Nhưng trong ḷng cũng không khỏi buồn đôi chút v́ bị nh́n như
những đối tượng “phải bắn bỏ”. Có lẽ trong mắt người cộng
sản, tu sĩ chúng tôi là những kẻ vô dụng, trốn chạy nghĩa vụ
công dân…
Bây giờ, anh bộ đội
và thiếu nữ kia cũng nêu câu hỏi tương tự. Tuy lời lẽ và cách
hỏi lịch sự hơn, nhưng ư nghĩa vẫn là thế. Họ không chấp nhận
được sự kiện xuất gia của những người trẻ tuổi. Tuổi trẻ đối với
họ, là phải xăn tay đóng góp cho đất nước những công tác “cụ
thể, thực tiễn”. Những cái cụ thể và thực tiễn ấy không thể
được t́m thấy trong lời kinh tiếng kệ, trong lời cầu nguyện, hay
trong sự quán tưởng, định tâm, sám hối, tu sửa thân tâm, hoàn
thiện nhân cách, dẹp trừ bản ngă… Ít nhất, những điều cụ thể
phải được người khác nh́n thấy, sờ mó, hoặc có thể nhai nuốt,
hay nhét được vào túi áo, túi quần…
Tôi im lặng không
đối đáp ǵ với anh bộ đội. Một phần v́ câu nói của anh không hẳn
là một câu hỏi yêu cầu trả lời; phần khác, tôi thấy tôi không có
bổn phận phải giải thích chuyện xuất gia của ḿnh cho những
người lạ, những người luôn nghĩ rằng ḿnh cao thượng, đúng hết,
biết hết…
Tôi nh́n ra biển
khơi. Nước bây giờ đă mất màu xanh thẫm, đang chóa lên ánh nắng
ban mai như một tấm lụa hoàng kim rực rỡ. Có con hải âu từ cao
đâm ḿnh xuống nước bắt mồi rồi bay vút lên không, liệng một
ṿng trước khi bay vào băi, đáp xuống mô cát vắng. Băi biển Non
Nước không phải là băi biển có nhiều người tắm và dạo chơi như
băi biển Nha Trang. Dọc suốt chiều dài của băi chỉ là cát và
cát. Xa xa mới có vài người đang kéo lưới. Một chiếc thuyền chài
nhỏ tấp vào gần đó. Biển buổi sớm đầy nắng mà lại vắng người như
vậy.
Thiếu nữ kia thúc
đẩy ǵ đó khiển anh bộ đội lại lên tiếng:
“Anh trẻ thế mà đi
tu, ắt là có vấn đề ǵ với cuộc đời đấy nhỉ!”
Tôi quay lại nh́n họ
một thoáng, đáp họ bằng một nụ cười. Rồi tôi cáo từ họ bằng một
tay đưa lên, tỏ ư không muốn nói chuyện vừa là để xin lỗi. Tôi
rời chỗ, rảo bước vào trong chùa. Không phải là tôi có thành
kiến ǵ với họ. Tôi chỉ cảm thấy rằng khoảng cách giữa họ và tôi
không thể nào làm cho xích gần lại với nhau được bằng vài câu
trao đổi. Và, vài câu trao đổi như thế phỏng có ích ǵ cho đôi
bên! Chỉ đưa đến ngộ nhân, hiểu lầm thêm th́ có. Thôi th́ im
lặng, cười. Ai hiểu sao cũng được. Tôi nghĩ lúc đó tôi có cố
gắng giải thích ǵ th́ cũng chỉ đưa đến tranh luận, mà tôi vốn
là loại người không bao giờ ham thích chuyện tranh luận cả.
Vào trong sân chùa,
tôi đi ṿng ra phía hông chánh điện để xem quư thầy lo việc xây
tháp. Thầy Thông Chánh bảo tôi vào trong nghỉ ngơi cho khỏe. Tôi
quay trở vào sân chùa th́ anh bộ đội và thiếu nữ khi năy cũng
vào đến. Họ đứng ở sân như chờ đợi tôi. Tôi vào ngồi ở dăy trai
đường (nhà ăn) phía sau chánh điện. Anh bộ đội và thiếu nữ cũng
theo tới, tự động ngồi vào hàng ghế đối diện chỗ tôi. Cái chuyện
tự động ngồi chẳng ai mời này tôi mới chứng kiến lần đầu tiên.
Anh bộ đội lại tiếp tục hỏi tôi với vẻ mặt đầy mỉa mai, khiêu
khích, trong khi thiếu nữ kia th́ cứ nhoẻn miệng cười như muốn
tán trợ một cuộc tranh biện kỳ thú mà cô nghĩ rằng người yêu bộ
đội của cô với biện chứng duy vật, với chủ thuyết Mác–Lê vô địch
và bao bài học chính trị thuộc ḷng không thiếu một chữ, hẳn là
sẽ nắm phần thắng.
“Thôi th́ anh không
muốn trả lời chuyện riêng tư của anh. Nhưng anh có thể cho tôi
biết rằng có phải anh tin có ông Phật thực sự nằm ở trong bức
tranh kia chăng?” vừa nói, anh bộ đội vừa trỏ vào bức tranh Phật
nơi bàn thờ nhỏ ở giữa trai đường.
Tôi chỉ thấy buồn
cười, muốn đứng dậy bỏ đi, vào trong mà nằm nghỉ. Nhưng rồi tôi
lại nghĩ, nếu từ chối nói chuyện th́ hóa ra sẽ không có cơ hội
nào để giải thích cho họ hiểu, làm giảm đi thành kiến của họ đối
với các tu sĩ Phật giáo; cho nên tôi có ư định mở miệng trả lời.
Vừa lúc đó, thầy Thông Chánh bước vào, cắt ngang ngay:
“Ǵ vậy chú Khang?
Sao không vào nghỉ ngơi mà c̣n ngồi đây?”
Anh bộ đội khẽ gật
đầu chào thầy Thông Chánh rồi với vẻ tự măn có thừa, anh chuyển
đối tượng, tấn công thầy Thông Chánh ngay:
“A, tôi có thắc mắc
muốn hỏi anh nầy rằng có phải các anh tin tưởng một ông Phật nằm
ở trong bức tranh kia không. Hẳn là phải tin, đúng không? V́ tin
nên mới thiết lập bàn thờ như thế.”
Thầy Thông Chánh mỉm
cười nói, giọng rất vui vẻ:
“Vậy chứ quư vị có
tin có ông Hồ Chí Minh trong bức ảnh mà quư vị thường lộng kiếng
treo trong nhà hay trong các cơ quan nhà nước không nhỉ?”
“Ô, ảnh Bác Hồ đấy
à. Chuyện khác nhau chứ. Treo ảnh Bác là để tưởng nhớ công ơn,
sự nghiệp của Bác chứ không phải là chúng tôi tin có Bác ngự ở
trong ảnh ấy.”
“Chúng tôi cũng vậy.
Thờ Phật là để tưởng niệm công ơn của Phật, và để hàng ngày nh́n
thấy mà tự nhắc nhở ḿnh noi gương tốt của Phật, chứ không phải
là mê tín có một đức Phật ngồi trong ảnh. Cũng là một h́nh thức
của sự tưởng nhớ thôi, thưa quư vị.”
“Nếu cũng là sự
tưởng nhớ thôi th́ sao chúng ta lại không treo ảnh Bác Hồ nhỉ?
Bác Hồ yêu nước, đóng góp rất nhiều cho đất nước, nêu gương tốt
cho nhân dân mọi tầng lớp, thế th́ tại sao chúng ta không tôn
thờ Bác Hồ Việt Nam của chúng ta lại đi thờ ông Phật của một
nước khác. Bác Hồ cũng giống ông Phật chứ có khác ǵ đâu mà phải
cất công rước ông Phật từ ngoại bang đem về để thờ!”
“Tại quư vị mới đọc
được sách của “Bác” và sách do nhà nước in thôi, chứ chưa
đọc được sách nào khác nên không thấy được sự sai khác giữa một
nhà cách mạng dân tộc với một giáo chủ sáng lập một tôn giáo của
nhân loại. Nếu quư vị có cơ hội đọc nhiều sách của các nước, các
dân tộc, các tôn giáo, các chủ thuyết, triết học khác… hẳn là
quư vị sẽ c̣n muốn tưởng nhớ và tôn thờ nhiều vị khác nữa chỉ
không phải chỉ riêng ông Hồ Việt Nam của quư vị đâu. Trên thế
giới c̣n có biết bao nhiêu người vĩ đại, đáng tôn quí. Những bậc
vĩ nhân, hiền triết đó là của nhân loại chứ không phải của riêng
nước nào. Nếu ông Hồ Chí Minh của quư vị xứng đáng cho các nước
khác tôn thờ, chắc quư vị cũng hănh diện, cũng mừng, chứ đâu
muốn ngăn cản người ta tôn thờ, phải không? Như vậy, Phật dù là
người Ấn Độ, nhưng quá siêu tuyệt th́ nhân dân các nước làm sao
khỏi tôn sùng, ngưỡng mộ. Mà trên thực tế, ông Hồ Chí Minh trong
mắt quư vị là một người có công với đất nước, nên quư vị nhớ ơn
và cho rằng đất nước này phải nhớ ơn; nhưng có dân nào, nước nào
khác biết đến Hồ Chí Minh là ai đâu. Trong khi đó, Phật là một
người Ấn Độ nhưng cả thế giới đều biết, và trải qua hai mươi lăm
thế kỷ rồi, và sẽ c̣n nhiều thiên niên kỷ nữa, nhiều người trong
nhiều nước vẫn c̣n xưng tụng, tôn thờ Phật. Đó là chỗ khác nhau,
quư vị phải thấy chứ. Ở những đất nước không có chiến tranh,
người ta đâu có tôn thờ chiến sĩ cách mạng. Nhân dân Việt Nam
chúng ta v́ phải bị ch́m ngập trong chiến tranh liên tục cả ngàn
năm nên chỉ biết tôn thờ và hănh diện với những chiến công,
những chiến sĩ anh dũng, những con số thương vong tử nạn của phe
địch… Thực ra, chiến sĩ cách mạng thường chỉ có mỗi một đức tính
anh hùng để được ca tụng thôi. Mà tính anh hùng, chỉ là một hạt
cát trong sa mạc đức hạnh của một vị Phật, một con người đă hoàn
toàn giác ngộ, không c̣n say đắm bất cứ thứ dục lạc nào của thế
gian. Đó là chưa kể đến tính anh hùng cũng có rất nhiều mức độ,
nhiều loại khác nhau, tùy theo trường hợp và quan niệm riêng của
mỗi dân tộc, mỗi thời đại, chứ không phải cứ xông ra trận địa
th́ mới là anh hùng. Chẳng hạn, đức Phật của chúng tôi có nói:
“Thắng một vạn quân không bằng tự thắng. Tự thắng mới là
chiến công oanh liệt nhất.” Bao nhiêu đó cũng đủ thấy khác
xa lắm rồi. Cho nên, nói ông Hồ Chí Minh y hệt Phật th́ chẳng
khác ǵ đem đom đóm mà so với mặt trời. Đom đóm cũng phát ánh
sáng, mặt trời cũng phát ánh sáng, nhưng khác nhau đấy chứ!”
Anh bộ đội tím cả
mặt mày. Ngồi cười gượng gạo một lúc, chẳng biết nói ǵ thêm.
Thấy không khí có vẻ căng thẳng, thầy Thông Chánh cười nói:
“Quư vị đă viếng
cảnh chưa? Ở đây có nhiều hang động thiên nhiên đẹp lắm. Cứ dạo
chơi, khi nào khát nước th́ ghé vào đây, chúng tôi có nước mưa,
uống mát và ngọt lắm.”
Anh bộ đội gật gù
rồi đứng dậy, kéo thiếu nữ kia đi. Tôi nh́n theo thấy anh đi lảo
đảo nhưng người bị thương. Cũng may là thầy Thông Chánh nói
chuyện với họ bằng giọng nói và điệu bộ vui vẻ, cởi mở, nên đă
không có ǵ đáng tiếc xảy ra. Tính về tuổi tác th́ thầy Thông
Chánh và anh bộ đội kia có lẽ là xấp xỉ nhau. Đâu chừng hai mươi
bảy, hai mươi tám tuổi là cao. Nhưng giữa hai chàng thanh niên
Việt Nam đó, quả là có một khoảng cách ghê gớm ở nhân sinh quan,
ở lư tưởng và sứ mệnh riêng của mỗi người. Họ sinh cùng thế hệ
mà c̣n vậy, nói chi giữa thế hệ của họ đối với thế hệ của tôi,
hay giữa một người bộ đội miền Bắc đối với bản thân tôi–một chú
tiểu mới lớn, làm người dân thuần túy chưa tham gia trực tiếp
vào cuộc chơi chiến tranh ư thức hệ của hai miền Nam Bắc.
Nếu không có thầy
Thông Chánh đến nói chuyện với họ, tôi không biết lối giải thích
của tôi sẽ dẫn cuộc nói chuyện đến đâu. Dù rằng những câu hỏi ấu
trĩ chứng tỏ tŕnh độ nông cạn của anh bộ đội kia chẳng có ǵ
hóc búa, đ̣i hỏi tŕnh độ lư luận cao, nhưng tôi vốn không phải
là người có khoa ăn nói, có thể tôi sẽ khiến cho câu chuyện dây
dưa, kéo dài. Những ǵ tôi có thể nói được, thường là để làm vui
ḷng kẻ khác, giải thích thỏa đáng cho kẻ khác hơn là để đánh
bại họ. Nói theo cách đó cần phải có thời gian. Tôi thầm cám ơn
thầy Thông Chánh đă kết thúc được cuộc nói chuyện ấy một cách
ngắn gọn. Nhưng chỉ một lúc sau đó, tôi bỗng dưng cảm thấy
thương cảm cho anh bộ đội ấy. Không ai trên đời đáng thương cho
bằng một kẻ vô minh mà lúc nào cũng tưởng ḿnh sáng suốt. Tôi
buột miệng thốt lên:
“Cũng tội nghiệp cho
họ.”
Thầy Thông Chánh nối
lời tôi:
“Ừ, tội nghiệp. Họ
sinh ra và lớn lên trong môi trường như vậy nên họ phải trở
thành những người như vậy. Họ không được may mắn như ḿnh mà họ
tưởng họ may mắn hơn. Họ chỉ biết một chuyện mà họ nghĩ họ biết
hết…”
Ô
Tôi vẫn thường có
thói quen từ nhỏ đến giờ là hay buồn vào lúc ngủ trưa mới thức
dậy; nhất là những lúc thức dậy mà rảnh rỗi không có việc ǵ để
làm. Chẳng hiểu v́ sao. Tôi chưa t́m được giải đáp cho cái thói
quen ấy. Chỉ cảm thấy buồn lặng trong ḷng mỗi trưa thức dậy
thấy nắng vàng hanh ngoài ngơ, hay nghe tiếng mưa rơi lộp độp
trên mái nhà. Bất cứ tiếng động nào, cảnh vật nào, cũng đều gợi
lên nỗi buồn mênh mang trong tôi vào cái giấc ngủ trưa mới thức
dậy ấy. Giống như người bị bỏ lại sân ga v́ đi trễ một chuyến
tàu, mà chuyến tàu ấy là chuyến tàu quan trọng đưa hắn đến một
nơi nào đó rất vui thú, để gặp một người nào đó rất thân thương.
Không, chắc không phải chỉ có vậy. Nỗi buồn c̣n to lớn hơn. H́nh
như đó là cảm giác lo âu và thất vọng v́ đă không làm được ǵ ư
nghĩa, không làm được ǵ đáng làm, khi thời gian chảy trôi từng
giây từng phút ở bên ngoài. Và h́nh như đó cũng là nỗi buồn nhớ
da diết của một kẻ mồ côi lang bạt kỳ hồ từ thưở nhỏ, chẳng biết
quê hương, cḥm xóm của ḿnh thực sự ở đâu, chẳng tưởng được mặt
mũi cha mẹ và người thân như thế nào, chỉ thấy nhớ, nhớ, và nhớ…
Buổi trưa thức dậy ở
ngôi chùa trên núi. Tôi nằm im một lúc thật lâu trên bộ ván gỗ
sục t́m cái ǵ đă mất, đă quên… khiến cho tâm hồn phải quặn lên
từng hồi như vậy. Tôi không t́m thấy ǵ cả. Chỉ nghe thật rơ
tiếng ồn ào của nhiều người ngoài sân chùa. Tiếng cười nói càng
rộn ràng bao nhiêu, ḷng tôi càng chùng xuống bấy nhiêu. Tôi
bước ra xem, thấy một tốp rất đông các đoàn sinh Gia Đ́nh Phật
Tử đến sinh hoạt ngoài trời. Các em thanh thiếu niên nam nữ đang
vây quanh một anh huynh trưởng ở giữa ṿng. Anh thổi c̣i bày
nhiều tṛ chơi rất sôi nổi, thú vị. Tôi đứng nh́n một lúc th́
bao nỗi buồn khi năy tan biến. Tôi vui lây theo nụ cười của
những người trẻ tuổi thế tục. Thế giới tươi vui ấy tôi đă không
có được từ lúc vào chùa xuất gia. Lâu nay tôi không thèm để ư
đến, cho đó là những tṛ chơi trẻ nít, vô nghĩa đối với con
đường xuất gia. Bây giờ, đă trưởng thành hơn một chút, tự dưng
tôi lại thấy có chút nuối tiếc ân hận nào đó. Tôi không ân hận
chuyện xuất gia, nhưng lại tiếc đă không được vui chơi trọn vẹn
với tuổi xanh của ḿnh. Tôi tự hỏi: “Tại sao hồi nhỏ ḿnh không
xin ba mẹ cho vào Gia Đ́nh Phật Tử ḱa? Tại sao ḿnh phải đi tu
từ lúc nhỏ, sao không chờ lớn lên rồi hăy đi tu, chẳng hạn đi tu
lúc mười bảy tuổi như bây giờ?”
“Sao, thức dậy rồi
hả? Ngủ ngon không?” thầy Thông Chánh từ phía hông chùa bước vào
hỏi.
Tôi giật ḿnh quay
lại, lúng búng nói:
“Dạ, ngủ cũng được
một giấc thi nghe ồn…”
Nh́n vẻ mặt của tôi
lúc đó, có lẽ thầy Thông Chánh đă đoán được phần nào tâm sự của
tôi. Thầy nói:
“Họ chơi vui quá
hả?”
“Dạ, thấy vui.”
“Hồi nhỏ chú Khang
có vào Gia Đ́nh Phật Tử không?”
“Dạ không.”
“Cho nên bây giờ
thấy tiếc phải không?”
“Đâu có, đâu có
tiếc.”
Chúng tôi im lặng
quan sát những tṛ chơi. Có khoảng hơn ba chục thanh thiếu niên
nam nữ tuổi từ bảy, tám đến hai mươi. Huynh trưởng cao tuổi nhất
đâu chừng hai mươi bảy, hai mươi tám, ngang với thầy Thông
Chánh. Anh ấy điều khiển tṛ chơi thật linh động, hào hứng. Tôi
đang mê say quan sát th́ thầy Thông Chánh tiếp, giọng thầy có vẻ
nửa đùa nửa thật:
“Ở những tiệc vui
của cuộc đời, chúng ta chỉ thấy những nụ cười, chỉ thấy vẻ thanh
lịch đẹp đẽ nhất mà những người dự tiệc mang đến. Chúng ta không
thấy được cuộc sống riêng lẻ của từng người ở ngoài bữa tiệc ấy.
Khi những người này rời sinh hoạt Gia Đ́nh Phật Tử trở về nhà,
họ cũng có những nỗi khổ, hoặc những ǵ rất buồn tẻ, rất chán,
chờ đón họ… À, chú thấy anh huynh trưởng đứng giữa ṿng không?
Nh́n mặt có thấy quen không? Nhớ lại thử xem? Không nhớ à. Ḱa,
nh́n bức tranh treo nơi cột.”
Tôi nh́n về hướng
thầy Thông Chánh trỏ, thấy bức h́nh trắng đen, lộng kiếng mà hôm
qua, tôi đă được xem, được giải thích rồi. Trong h́nh là một tu
sĩ Phật giáo đang ngồi xếp bằng giữa đường lộ, đem thân ḿnh để
ngăn chặn mấy chiếc xe tăng đang chạy tới. Thầy Thông Chánh nói
bức tranh đó do một kư giả ngoại quốc chụp, đăng trên báo
Time của Mỹ. Chuyện xảy ra năm một chín sáu sáu, khi ông
Nguyễn Cao Kỳ ra lệnh quân đội tấn công, bắn vào một số chùa
chiền ở Đà Nẵng. Vị tu sĩ ngồi thiền cản đường xe tăng ấy, pháp
danh là Chánh Trí, chính là anh huynh trưởng đang hướng dẫn Gia
Đ́nh Phật Tử ngoài sân kia. Tôi vừa ngạc nhiên, vừa bùi ngùi
nh́n vị huynh trưởng ấy. Thầy Thông Chánh nói tiếp:
“Anh ấy hoàn tục
trước năm 1975. Lăn lộn với đời để t́m những ư nghĩa, những mục
tiêu khám phá khác mà anh cho là đẹp hơn, thiết thực hơn những
ǵ anh đă làm trong chùa. Nhưng cuối cùng anh cũng chán chường,
thất vọng, biết việc hoàn tục của ḿnh là sai lầm, muốn quay trở
về với chùa mà v́ hoàn cảnh gia đ́nh níu kéo, không thực hiện
được. Đành vào Gia Đ́nh Phật Tử làm người anh cả hướng dẫn các
thế hệ sau học đạo. Đời anh ấy từ lúc hoàn tục, phải trải nhiều
hệ lụy đau khổ lắm. Bây giờ gắng gượng t́m vui trong việc hướng
dẫn đàn em sinh hoạt…”
Tôi nghe chuyện đó
bỗng đổ mồ hôi khắp người. Phải, thầy Thông Chánh nói phải. Thế
gian giống như một tiệc vui mà ai cũng muồn tham dự. Nhưng không
có tiệc vui nào kéo dài.
Dù thầy Thông Chánh
không cho, tôi cũng đ̣i theo thầy xuống núi vác đá lên chùa để
xây tháp. Tôi chưa hoàn toàn lại sức nên chỉ vác được vài ba
tảng đá nhỏ mỗi tảng nặng chừng mười kí-lô cũng đă mệt lử. Cũng
có thể v́ dốc núi cao quá, đi lên đi xuống với hai tay không
cũng thấy mệt, nói chi vác đá trên vai.
Buổi tối vào mùng,
tôi không c̣n nghe được tiếng sóng biển ́ ầm đập vào băi. Tôi
mệt và ngủ rất sớm. Trong mộng, tôi thấy có nhiều thiếu nữ rượt
đuổi tôi trên băi biển dậy sóng.