CHƯƠNG MƯỜI
MỘT
Xe chúng
tôi đi không phải chỉ có mười hai chú tiểu mà c̣n có thầy Thiện Đức (giữ
chức Giám luật) thay mặt Phật học viện Linh Sơn, đưa chúng tôi đi nhập học
Phật học viện Trung đẳng. Ngoài ra c̣n có chú Tâm Hạnh (ở Phan Rang ra), chú
Tâm (ở viện Hải Đức) theo xe để ra Đà Nẵng nhập học Phật học viện Trung Đẳng
Phổ Đà.
Tôi được
biết chú Tâm Hạnh vào thời gian này. Chú ấy là đệ tử lớn nhất trong số các
đệ tử xuất gia của thầy tôi. Chú đă mười tám tuổi và đă thọ Sa-di thập giới
(kể theo giới pháp, Sa-di có hai bậc: Sa-di ngũ giới và Sa-di thập giới),
trên chúng tôi một bậc, nghĩa là chú ấy giữ mười giới chứ không phải năm
giới như bọn tiểu chúng tôi. Chú ấy c̣n là bạn học cùng lớp của một người
anh ruột tôi, đă có đôi lần ghé nhà tôi lúc tôi chưa xuất gia, cho nên
chuyện kết thân giữa tôi và chú cũng khá nhanh chóng. Rất tiếc là chỉ trong
một thời gian ngắn trên chuyến xe.
V́ xe đă
được viện thuê bao nguyên chuyến từ Nha Trang ra Đà Nẵng nên tài xế không
dừng lại rước khách giữa đường. Xe chạy khá nhanh, đến khoảng bốn giờ chiều
đă đến Phật học viện Phổ Đà. Chú Tâm Hạnh và chú Tâm nhập học ở đây, nhưng
thầy Thiện Đức và toàn bộ bọn tiểu chúng tôi cũng phải xuống xe–v́ theo hợp
đồng th́ tài xế không có bổn phận đưa chúng tôi đi Hội An. Loay hoay buổi
chiều không thuê được xe đi Hội An, thầy Thiện Đức xin phép ban giám đốc
Phật học viện Phổ Đà cho chúng tôi nghỉ lại một đêm tại đây trước khi đi Hội
An vào buổi sáng kế tiếp.
Đường dẫn
vào Phật học viện Quảng Nam, hai bên là đồng ruộng mênh mông. Khúc đường
ngang ruộng trở thành như con đê, hay có thể nói chính con đê của ruộng đă
trở thành con lộ chính của vùng này th́ đúng hơn. Tre trồng dày đặc ở những
khoảng có nhà cửa. Chỉ có những khoảng ấy là có bóng mát dễ chịu. Qua khỏi
khu nghĩa trang Tin Lành, chúng tôi đă có thể nh́n thấy Phật học viện từ xa.
Phật học
viện Quảng Nam được thành lập tại chùa Long Tuyền do Thượng tọa Thích Chơn
Phát trụ tŕ. Với ư nguyện giáo dục học tăng trẻ, Thượng tọa biến ngôi chùa
Long Tuyền thành Phật học viện để góp phần chung lo việc đào tạo tăng tài
cho Giáo hội. Như vậy, đối vói chùa Long Tuyền, Thượng tọa là trụ tŕ; đối
với Phật học viện, Thượng tọa là giám viện. Chùa Long Tuyền có nhiều cây
cao, đem lại màu sắc tươi xanh và bóng rợp an lành cho cả khu đất rộng lớn.
Có điều, gần hai dặm vuông vây hết mặt phải và chính diện của ngôi chùa là
mộ địa. Như vậy, có thể nói, Phật học viện Quảng Nam như một hải đảo xanh um
nổi lên giữa một đại dương mồ mả và cát trắng. Những ngôi mộ cái lớn cái
nhỏ, cái cũ cái mới, chen chằng chịt, san sát nhau, có vẻ như vô trật tự.
Nghe đâu quá nửa dân Hội An và các xă lân cận đều đem chôn người thân của họ
ở khu nghĩa địa vô danh không có tường rào này. C̣n phía sau lưng chùa là
một trại lính đồn trú trên băi cát rộng. Trước kia đồn này do một tiểu đoàn
lính Bạch Mă của quân đội Đại Hàn đóng quân, nay giao lại cho quân đội Việt
Nam Cộng Ḥa. Chùa và trại lính này cách nhau một con đường nhựa; con đường
này dẫn đến Ngũ Hành Sơn Non Nước và có thể thông đến Đà Nẵng. Tuy nhiên,
lâu lâu mới có một đoàn công-voa sử dụng con đường ấy. Tuyến đường ngắn và
tiện lợi nhất cho Hội An – Non Nước là con đường nhựa này, vậy mà người ta
đă phải chọn con đường dài gấp ba lần hơn bằng cách chạy ṿng đến ĐÀ Nẵng
qua ngă Vĩnh Điện (Điện Bàn) rồi từ Đà Nẵng mới chạy về Non Nước qua ngă cầu
Đà Lách. Lư do là tuy con đường hăy c̣n sờ sờ ra đó, nhưng đă bị cắt từ lâu
v́ mất an ninh–xe cộ chạy trên đường ấy thường bị chận lại bởi các du kích
quân cộng sản. Bên trái của chùa, từ ngoài nh́n vào, là đất của xă Cẩm Hà.
Xă này đất rộng người thưa. Đất đai ở đây là loại đất pha cát, thứ cát trắng
y hệt như cát ở băi biển, nên có trồng trọt ǵ người ta cũng phải bón phân
đầy đủ th́ cây mới mọc nổi. Nếu diễn tả theo kiểu người đời th́ đây là vùng
đất mà chó ăn đá, gà ăn muối. Chùa Long Tuyền tọa lạc trên vùng giáp
ranh giữa xă Cẩm Hà và thị xă Hội An. Buổi tối, từ sân chùa nh́n về hướng
đông nam, tôi có thể nh́n thấy điện đèn phố Hội ánh lên từng luồng sáng sau
những rặng cây cao rậm của trường Trần Quư Cáp.
Chùa Long
Tuyền được khai sơn gần bảy mươi năm trước bởi Ḥa thượng Phổ Thoại, bổn sư
của Thượng tọa Chơn Phát. Cứ nh́n mái ngói tường vôi phủ đầy rêu mốc cũng đủ
thấy vết tích của thời gian lướt qua nơi đây. Có những đám rêu ở mé tường
phía tây chính điện c̣n nở những cành hoa nhỏ xinh xắn màu vàng nhạt như màu
lá úa. Mé tường phía bắc tức là phía hậu tổ, sau chính điện, có những đường
nứt có thể lọt ánh sáng bên ngoài vào. Từ chỗ nứt này, người ta biết tường
vách không xây bằng xi măng mà là thứ hồ trộn thế nào đó theo cách thức hồi
xưa, bấm vào chỉ thấy vôi trắng rớt từng nhúm bột nhỏ trên tay. Chính điện
của chùa và dăy hậu tổ nối liền với nhau, nằm độc lập trên nền cao ở khoảnh
đất trung tâm của chùa. Một dăy nhà gồm ba pḥng lớn mới xây ở phía trái của
chính điện; trong ba pḥng ấy, chỉ có một pḥng được sử dụng làm tăng pḥng,
hai pḥng c̣n lại là pḥng học. Như vậy, từ cổng tam quan bước vào, dăy
pḥng học xuất hiện trước nhất ở phía trái rồi mới đến chính điện, cũng phía
trái. Đối diện chính điện là tháp Đa Bảo, một ngôi tháp cổ bám đầy rêu. Ngôi
tháp xây thật đẹp, có tam cấp bước lên từ hai phía. Tầng dưới thiết trí tôn
tượng đức Địa Tàng Bồ Tát và bàn thờ cô hồn, tầng trên thờ đức Phật Đa Bảo.
Ngôi tháp Đa Bảo này làm tăng vẻ đẹp cổ kính của toàn thể cảnh chùa. Qua
khỏi chính điện và bảo tháp là dăy Tổ đường và trai đường nằm theo chiều
ngang. Tổ đường thờ đức Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma và Tổ Phổ Thoại khai sơn chùa.
Phía sau Tổ đường là dăy tăng pḥng gồm hai, ba pḥng nhỏ, dành cho các thầy
trong ban giám đốc của Phật học viện. Bên trái Tổ đường là pḥng khác và
pḥng riêng của Thượng tọa giám viện. Bên phải Tổ đường là văn pḥng của
Phật học viện. Nối đuôi văn pḥng là một dăy tăng pḥng khác. Dăy này gồm
một pḥng lớn, một pḥng nhỏ. Pḥng lớn dành cho học tăng, pḥng nhỏ dành
cho các chú sa-di thường trú của chùa (tức là các chú đệ tử của Thượng tọa
giám viện mà không tham dự chương tŕnh của Phật học viện). Dăy tăng pḥng
này được nối với dăy Tổ đường bằng một gian nhà tôn, trước kia làm kho chứa,
nay được trưng dụng làm pḥng ngủ tạm thời cho những học tăng đến sau. Bên
trái, nối đuôi với pḥng Thượng tọa giám viện và dăy Tổ đường là khu bếp.
Khu bếp khá rộng lớn, nhiều pḥng. Có hai d́ vải già lụm khụm lo việc nấu
nướng. Ở khu bếp, ngoài pḥng ăn nhỏ dành cho Phật tử và một dăy bếp ḷ biệt
lập, c̣n có pḥng ngủ dành riêng cho các d́ vải và một pḥng lớn là nơi sản
xuất đèn cầy và nhang để vừa có nhang đèn cúng Phật vừa bán ra ngoài mà giúp
thêm phần tài chánh cho chùa. Giếng nước và dăy nhà tắm th́ ở sau lưng Tổ
đường. Dăy nhà vệ sinh nằm xa ở phía góc trái của khu bếp. C̣n lại là đất
vườn hơn năm mẫu tây bao bọc các dăy nhà. Nghe nói chùa c̣n có hơn mười mẫu
ruộng và hai mẫu đất vườn khác nằm ngoài khuôn viên chùa; nhưng số ruộng đất
ấy, Thượng tọa giám viện đă cho người khác canh tác, sau mỗi vụ gặt, người
ta mang lúa vào cúng chùa, bao nhiêu cũng được, tùy hỷ, không có số lượng
nhất định. Thượng tọa chủ trương học tăng cần th́ giờ tu học, khỏi phải làm
lụng vất vả hàng ngày, phần tài chánh sẽ do chùa đài thọ, giáo hội địa
phương cũng như trung ương tiếp trợ thêm.
Khi chúng
tôi mang hành lư vào sân chùa, các chú ở các tỉnh đến sớm hơn, túa ra nh́n.
Có chú la to: “Mô Phật, có thêm tân binh nữa ḱa!” rồi cười ồ ồ. Nụ cười có
vẻ chế giễu chúng tôi sao lại chui đầu vào Phật học viện nghèo khổ này.
Chúng tôi chỉ biết im lặng theo thầy Thiện Đức vào đảnh lễ Thượng tọa giám
viện. Thượng tọa tuổi trạc năm mươi, vóc người cao lớn, dáng đi hiên ngang
như sư tử. Mũi cao, miệng rộng, giọng nói mạnh và ấm. Có điều Thượng tọa
phải đeo cặp kính thật dày v́ cận quá nặng, h́nh như khoảng bảy, tám độ. Mỗi
lần đọc sách, Thượng tọa phải đưa chữ sát vào mắt mới đọc được. Vậy mà nghe
nói, với cặp mắt yếu đó, mỗi năm Thượng tọa đều tụng đọc trọn bộ kinh Đại
Bát Nhă bằng chữ Hán vào ba tháng an cư (kinh này gồm sáu trăm quyển,
mỗi quyển từ 5 đến 6 trang, in thành 3 tập trong Đại Tạng Kinh, mỗi tập trên
một ngàn trang, mỗi trang khoảng 1500 chữ Hán nhỏ chi chít).
Thượng tọa
bảo thầy quản chúng của Phật học viện sắp xếp chỗ ngủ cho chúng tôi. Thầy
Thiện Đức giao chúng tôi cho Phật học viện rồi th́ hết trách nhiệm, liền đón
xe ra Đà Nẵng để về lại Nha Trang. Nguyên buổi chiều đó, thầy quản chúng cố
gắng lắm mà vẫn không sao sắp đặt nổi chỗ ăn ở cho bọn tôi. Chúng tôi đành
phải nằm tạm trong pḥng học một đêm. Nhưng qua những ngày kế tiếp, những
chú tiểu từ các tỉnh, các quận lân cận hăy c̣n tiếp tục tựu về, chỗ ăn ở
không sao giải quyết thỏa đáng được. Vậy là phải ráng chờ đến sau ngày thi
khảo hạch. Thầy quản chúng cho biết số lượng học tăng tựu về đây đă tới số
trăm, nhưng sau kỳ thi có lẽ chỉ c̣n lại phân nửa. Mặt khác, nhờ nguồn thông
tin trao đổi mau chóng giữa các chú tiểu từ nhiều tỉnh mang đến, một số tăng
hơi lớn tuổi dự tính xin nhập học tại đây, đă đổi ư, tức tốc đón xe vào các
Phật học viện khác như Phật học viện Vĩnh B́nh, Phật học viện Nguyên Hương
(Phan Thiết), Phật học viện Phổ Đà (Đă Nẵng) v.v... để xin thi vào các nơi
ấy. Chẳng biết chuyện thay đổi của các chú có thành công hay không, chỉ nghe
thầy quản chúng vừa cười vừa nói rằng:
“Chỉ tại
các chú ăn cơm nước tương lại thiếu chỗ ngủ mấy ngày nên thất kinh mà bỏ đi
đấy thôi.”
Có lẽ thầy
quản chúng cũng nói đúng phần nào. Ở đây có mấy lu nước tương thật lớn do
các d́ vải tự làm lấy, lu nào cũng quậy muối mặn chát để tránh bị mốc và
cũng để bớt “hao”. Học tăng ồ ạt từ các tỉnh kéo đến, đông ngoài sức
trù liệu của viện, khiến Thượng tọa giám viện xoay trở không kịp. Thương tọa
cứ cho tiền đi chợ liên tu hai, ba tuần để nấu những món ăn rất đạm bạc cho
những người vốn chấp nhận chuyện đạm bạc, vậy mà vẫn không sao chịu thấu.
Hết tiền chợ! Gạo thóc th́ hăy c̣n đây, nhưng tiền quỹ phải cạn thôi. Không
lẽ tất cả tiền quỹ phải dồn vào tiền chợ? Cho nên, đành cho ăn nước tương
tạm thời cho đến ngày khai giảng. Nhưng nói ăn cơm với nước tương th́ cũng
hơi quá đáng. Thực ra, các d́ vải cũng cố gắng lượm lặt đâu đó trái bầu,
trái bí trong vườn, hoặc mua rất rẻ ở vườn nhà người ta, để đem nấu canh cho
cả viện ăn. Mỗi ngày ba bữa ăn th́ có một bữa canh, thường là bữa trưa. Bữa
điểm tâm có cháo trắng, cũng ăn với nước tương. Bữa ăn chiều th́ có cơm
trắng, cũng là chan tương. Món canh chỉ đặc biệt cho bữa ăn trưa thôi, v́
vậy cứ nói gọn là ăn cơm nước tương. Món canh nấu kể cũng khá đơn giản: bí
cắt hơi dày, dày bằng ngón tay cái, thồn hết vào nồi nước đang sôi, rồi bỏ
muối vào, quậy vài cái. Vậy là xong, đă có nồi canh cho mấy chục miệng ăn
rồi đó. Trên bàn ăn, cứ bốn chú tiểu th́ được dọn một thau cơm, một thau
canh, hai chén nước tương (thứ nước tương được d́ vải cố t́nh bỏ thêm muối
này th́ dọn nhiều cũng không sợ hao hụt ǵ; chú nào xớn xa xớn xác không
chịu nếm trước mà chan đại một muỗng vô chén cơm th́ thế nào cũng trầy lưỡi!
Có chú đă than: “Sao tương ǵ mà mặn vô hậu vậy ḱa!” Chú khác nói:
“Có hậu đó chứ sao lại vô hậu! Cái hậu mặn của nó kéo dài đến bữa ăn
kế tiếp kia mà!”). Cơm nước như vậy ăn chừng ba ngày th́ dù có anh hùng cách
mấy cũng thấy ngán ngẩm, nói chi hai ba tuần hay phải chịu luôn hết bốn năm
học! Vậy là các chú rút lui bớt. Thầy quản chúng tinh ư lắm mới đưa ra nhận
xét rất thực tế đó. Cũng may là bọn chú tiểu thuộc Phật học viện Linh Sơn
Nha Trang chuyển ra không chú nào bỏ đi. Nhưng tiếng than thở cũng vang lên
không ngớt từ đám chú tiểu Nha Trang này. Có chú c̣n không ăn cơm của viện,
cứ mua ḿ gói về nấu ăn riêng. Sẵn tiền gia đ́nh cho để đi học xa, các chú
xin phép xuống phố Hội An mua sách vở, luôn tiện mua ḿ gói, bột ngọt (để
thêm vào thau canh bí và chén nước tương cho đỡ gắt), đường, cùng đủ thứ
thực phẩm xa xỉ khác như bánh, kẹo, bánh tráng, v.v... Trước khi khởi hành
rời Nha Trang, tiền bạc của chúng tôi đă bị gom lại giao cho thầy Thiện Đức,
ghi một giấy kê khai mỗi người có bao nhiêu. Đến đây, thầy Thiện Đức đă giao
trọn số tiền và giấy kê khai ấy cho thầy quản chúng ở đây rồi. Làm vậy để
các chú bớt tiêu xài phung phí, v́ mỗi lần muồn mua ǵ phải đến gặp thầy
quản chúng, đưa ra lư do hợp lư, chính đáng để xin rút một khoản tiền vừa đủ
với nhu cầu kê khải. Nhưng thấy quản chúng ở đây lại là một nhà sư dễ dăi,
vui tính, có máu nghệ sĩ, thấy các chú thưa tŕnh tội nghiệp quá, nên xin
rút bao nhiêu là thầy đưa bấy nhiêu. Rút càng nhanh càng tốt, thầy khỏi phải
bận tâm chuyện tiền bạc nữa. Cho nên, trong ṿng vài tuần lễ đầu là số tiền
gởi nơi thầy quản chúng đă không c̣n. Đó là chưa kể các chú xin riêng cha mẹ
lúc xe sắp chạy. Các bà mẹ này thương con c̣n bé bỏng mà phải đi học xa, sợ
tiền bị kiểm soát khó rút được, con ḿnh phải chịu thiếu thốn nên cứ dúi
thêm cho các chú. Vậy là tiền nổi tiền ch́m ǵ cũng sạch trong ṿng chưa đầy
tháng. Vào tuần thứ tư th́ các chú đă viết thư ào ào về Nha Trang xin tiếp
viện. Viết thẳng về nhà chứ đâu cần viết về chùa làm ǵ! Không biết chú Sáng
thế nào chứ tôi th́ không viết thư xin tiền. Tôi chỉ viết thư về thăm và kể
sơ sinh hoạt ở đây cho thầy và gia đ́nh tôi biết. Tôi cũng không tả oán cảnh
nghèo khổ của Phật học viện v́ trong luật có dạy một phần, phần khác v́ tự
tâm tôi không muốn gia đ́nh phải vướng bận bất cứ điều ǵ về tôi nữa. Tuy
nhiên, dù đă tỏ ra cứng rắn, sẵn sàng chịu đựng hoàn cảnh mới, tôi vẫn không
sao kềm được ước muốn có chủ quyền với món tiền nhỏ trên một ngàn đồng của
thầy bổn sư và ba mẹ tôi cho. Cũng phải mua sắm tập vở, giấy bút để học chứ,
huống chi, ở phố cũng có nhiều thứ đồ ngọt hấp dẫn có thể bù đắp vào lượng
ca-lô-ri cần thiết hàng ngày. Ăn cơm nước tương măi tôi cũng thèm ngọt như
ai thôi. V́ vậy, khi thầy quản chúng thắc mắc gọi tôi lên pḥng thầy, hỏi
tại sao không thấy đá động ǵ đến số tiền gởi gắm như các chú kia, tôi liền
xin rút một ít. Thầy nói:
“Sao không
rút hết luôn đi?”
“Dạ... thầy
có cho phép rút hết không?”
“Sao không!
Với ai chứ với chú th́ tôi cho rút hết một lần cũng được. Đây, coi nào, sổ
nợ của chú đâu rồi, nè, chú Vĩnh Khang phải không, pháp danh Tâm Quang, phải
không? Ừ, một ngàn hai trăm đồng. Chú cầm luôn đi. Sao mà thiệt thà quá. Mấy
chú kia xài hết tiền từ lâu rồi. Bộ chú không thèm ḿ gói hả?”
Tôi cầm
tiền, rủ chú Sáng cùng đi phố, có chú Tường là dân địa phương dẫn đường.
Trong cái
nh́n của tôi lúc đó, phố Hội An là một thành phố cổ, nhỏ hẹp, không có ǵ
đặc biệt, đi quanh vài con đường chính Nguyễn Thái Học, Cường Để và đường Bờ
Sông là muốn hết phố rồi. Lúc trở về, chú Tường đưa chúng tôi ngang Chùa
Cầu, một thắng cảnh nổi tiếng của Hội An mà ai đến phố này cũng muốn t́m
thăm cho biết. Hai đầu cầu có hai con khỉ và hai con chó bằng đá ngồi hai
bên như giữ cửa. Cầu bằng ván hơi cong, có lợp mái ngói bên trên, chiều dài
của cầu chừng hai mươi thước, bề ngang chừng ba thước, chưa kể hai lối đi
dành riêng cho người đi bộ cặp hai bên. Bước đến hai đầu cầu, nếu không để ư
có thể bị giật ḿnh khi thấy hai con khỉ và hai con chó giương đôi mắt thao
láo như nh́n cḥng chọc vào người đi đường. Chùa nằm phía bên phải cây cầu
trên đường về của chúng tôi. Chùa có ba gian, cửa đóng im ỉm, bên trong âm
u, chẳng thấy được ǵ ngoài cảm giác rờn rợn nổi trên thịt da. Gọi là chùa
v́ kiến trúc giống như một ngôi chùa Nhật Bổn, chứ thực ra không phải chùa
thờ Phật mà chỉ là một cái miếu, một cái đền, hay thần xă của Nhật Bổn th́
đúng hơn. Nghe nói hồi xưa một thầy địa lư người Nhật qua xem địa h́nh địa
vật sao đó mà vận động chính phủ Nhật cho trấn gươm và yểm bùa nơi đây để
chận đứng long mạch, không cho khởi phát tại đất Việt – cũng có người nói
thực ra để chận cho con giao long khỏi cựa quậy sanh ra động đất triền miên
ở Nhật Bổn. Chùa được xây lên để thờ gươm thần và bùa yểm từ đó.
Nhà cửa ở
đây có nhiều kiểu kiến trúc khác nhau, nhiều căn rất mới chen vào những ngôi
nhà thật xưa phủ đầy rêu. Cái th́ cao, cái th́ thấp, cái thụt vào, cái nhô
ra, nh́n qua thấy có vẻ lộn xộn, chẳng thứ lớp ǵ cả. Nhưng có lẽ đó cũng là
nét đặc trưng của thành phố cổ này. Hầu hết phố Hội An là những căn nhà lợp
ngói rất xưa–những mái ngói đă mất đi màu đỏ cố hữu, chỉ giữ lại một màu rêu
thật sẫm hoặc đen–nên vẻ duyên dáng một cách cổ kính của Hội An vẫn như c̣n
đó với thời gian.
Chuyến đi
phố đó, tôi chẳng mua sắm ǵ nhiều, một ít tập vở, bút mực, một cái ca nhựa,
một chiếc đèn dầu bóng hột vịt (Phật học viện nằm xa thành phố nên không có
điện, mỗi học tăng chỉ được phép thắp một đèn dầu nhỏ cho đỡ tốn) và một gói
kẹo đậu phụng thật lớn. Gói kẹo đem về, đăi bạn bè chưa đầy năm phút đă hết
sạch, nhưng vui. Có được chút chất ngọt vào người, tôi thấy tinh thần cũng
tỉnh táo lên. Làm tiểu ở một Phật học viện nghèo th́ lâu lâu cũng phải tự
thưởng ḿnh một chút quà vặt như vậy mới có sức mà tu học được.
a
Đáng lư bọn
tiểu Nha Trang chúng tôi khỏi phải qua kỳ thi khảo hạch, v́ đă có chứng chỉ
tốt nghiệp và thư giới thiệu của Phật học viện Sơ đẳng Linh Sơn gởi đến.
Nhưng Thượng tọa giám viện sợ các chú khác phân b́, đă đề nghị chúng tôi
tham dự kỳ thi cho được công b́nh. Vậy là thi. Đề thi không khó lắm, đều là
những bài học kinh luật và giáo lư căn bản mà chúng tôi đă học qua ở Nha
Trang. Mười hai chú Nha Trang (ở viện gọi chúng tôi là các chú Nha Trang
cho gọn và dễ phân biệt trong thời gian đầu) đều qua được kỳ thi khảo hạch
dễ dàng. Một số chú ở các tỉnh không đủ điểm phải ra về; có chú v́ hoàn cảnh
sao đó, sau khi năn nỉ hết lời, đă được phép ở lại học. Đến ngày khai giảng,
tổng số tăng sinh của Phật học viện là bốn mươi sáu người. Mọi người đều đă
được ổn định chỗ ăn ở. Mỗi pḥng tăng lớn chứa từ mười lăm đến hai chục cái
giường, đặt san sát nhau y như ở một bệnh viện nghèo. Nhưng chẳng sao, chúng
tôi không quan tâm chuyện đó lắm. Tuổi trẻ ăn th́ kén chọn chứ ngủ th́ khó
khăn ǵ, nằm đâu cũng ngon giấc được cả–nhất là ở chùa Long Tuyền này, đặc
biệt không có muỗi; có lẽ v́ khoảng khoát, có gió thổi lồng lộng suốt ngày
đêm như ở băi biển. Tăng sinh được chia làm hai chúng: chúng Ca Diếp và
chúng A Nan. Chữ chúng là một thuật ngữ của Phật giáo dành để chỉ một
tập thể tỳ kheo gồm bốn vị trở lên. Ở đây, chữ chúng được dùng cho
các chú tiểu, hiểu như là nhóm, tổ, đoàn. Ca Diếp và A Nan là tên của hai vị
Sơ và Nhị Tổ của Thiền tông theo truyền thuyết Trung Hoa. Ca Diếp là vị đại
đệ tử của Phật, nổi tiếng với danh xưng đầu đà (khổ hạnh) đệ nhất; A Nan là
em họ của Phật, nổi tiếng đa văn (học rộng, nghe nhiều) đệ nhất. Lấy tên các
vị này để đặt cho hai chúng là ư muốn nêu gương cho học tăng. Mỗi chúng bầu
một vị sa-di lớn tuổi làm chúng trưởng, một vị làm chúng phó (đặc biệt trong
khóa học của chúng tôi có bốn vị có tuổi trên hai mươi). Theo sự đề nghị của
Thượng tọa giám viện, thầy quản chúng đă chia nhóm tiểu Nha Trang chúng tôi
làm hai: một nửa lọt vào chúng Ca Diếp, một nửa c̣n lại thuộc chúng A Nan.
Tôi và Sáng cùng ở chúng Ca Diếp.
Chương
tŕnh học ở viện không nặng nề ǵ lắm nhưng chiếm mất hết th́ giờ trong ngày
của chúng tôi. Buổi khuya, giống như hầu hết các chùa khác tại Việt Nam, ba
giờ rưỡi là kẻng báo thức, toàn bộ tăng chúng cùng thức dậy ngồi niệm Phật
hay tọa thiền ngay trên giường ngủ của ḿnh nửa giờ đồng hồ. Bốn giờ th́ một
chúng tụng kinh (công phu khuya), một chúng ở dưới lo học, thay phiên mỗi
chúng một ngày. Chúng nào tụng kinh th́ đảm trách bốn khỏa lễ từ sáng đến
tối (bao gồm hai thời thỉnh đại hồng chung và các thời kinh công phu khuya,
cúng ngọ, công phu chiều và tịnh độ); chúng nào trị nhật (tức là ban
trực trong ngày) th́ đảm trách mọi công tác trong ngày đó (bao gồm quét dọn
chính điện, sân, các dăy nhà và pḥng học, chùi rửa và làm vệ sinh nhà cầu,
tưới cây kiểng và vườn rau, đổ nước vào bồn nước của ban giám đốc, nhà tiêu
và nhà bếp, dọn cơm cho đại chúng v.v...). Sự phân chia rất công b́nh, cứ
ngày hôm nay tụng kinh th́ ngày sau lo làm công tác vệ sinh. Khi chúng kia
tụng kinh hay làm công tác th́ chúng này có giờ học bài và ngược lại. Năm
giờ sáng th́ khóa lễ công phu khuya chấm dứt. Từ năm giờ đến sáu giờ sáng có
được một giờ trống để học bài. Sáu giờ là giờ chấp tác (tức là làm công tác
trong chùa, giờ này chỉ dành cho chúng nào nằm trong ban trị nhật, riêng
chúng nào tụng kinh th́ lại được thêm một giờ để ôn bài). Sáu giờ rưỡi là
giờ điểm tâm với cháo sáng. Sáu giờ bốn lăm là giờ tập trung trước sân để
cùng đi bộ đến trường Bồ Đề (ở phố Hội An, cách viện khoảng ba cây số).
Thượng tọa giám viện không cho phép chúng tôi mạnh ai nấy đi, mà bắt phải
xếp thành một hàng dọc đi từ viện đến thẳng trường. Có các chúng trưởng kiểm
soát kỷ luật. Không ai được đi riêng, không ai được đùa giỡn trên đường đi,
cũng không ai trốn học được v́ trước khi đi và khi về đến viện, đều có điểm
danh và báo cáo của các chúng trưởng lên thầy quản chúng. Bảy giờ rưỡi sáng
chúng tôi bắt đầu vào lớp ở trưởng Bồ Đề, học cho tới mười một giờ rưỡi tan
học, cùng xếp hàng để trở về viện. Về tới viện, chúng tôi chỉ kịp nghỉ ngơi
đâu chừng mười lăm phút là đến giờ cúng ngọ và thọ trai. Sau giờ cơm, được
ngủ từ một giờ đến hai giờ th́ được báo thức với ba hồi kẻng. Hai giờ rưỡi
có lớp học của viện kéo dài đến bốn giờ hoặc bốn giờ rưỡi, tùy môn học. Tan
học là khóa lễ công phu chiều. Sau công phu chiều là giờ tiểu thực (tức bữa
ăn chiều–gọi là “tiểu thực” v́ đúng theo sinh hoạt truyền thống nguyên thủy,
tăng sĩ chỉ ăn ngày một bữa vào buổi trưa; theo truyền thống Bắc tông ở
Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bổn v.v.... tăng sĩ không đi khất thực mà tự túc
canh tác, làm ruộng vườn hoặc các ngành sản xuất thủ công nghiệp khác nên
uyển chuyển cho phép ăn thêm buổi sáng và buổi chiều để đủ sức làm việc;
nhưng hai buổi ăn thêm đó đều là phụ nên gọi là điểm tâm và tiểu
thực, tức là chỉ ăn qua loa, ăn nhẹ). Sau giờ tiểu thực là một giờ đồng
hồ phóng tham, thời gian rảnh rỗi thực sự, không phải làm ǵ hết. Đến tám
giờ tối là khóa lễ Tịnh Độ. Chín giờ rưỡi là giờ tọa thiền niệm Phật và mười
giờ, toàn bộ tăng chúng đều phải tắt đèn mà ngủ. Như vậy, giờ giấc ở viện
rất sít sao, khó ḷng có th́ giờ dư để chúng tôi làm việc ǵ khác. Ngoài hai
ngày cuối tuần không có lớp (nhưng vẫn có công tác trị nhật và tụng kinh),
chúng tôi phải vận dụng tất cả thời gian trống trong ngày để lo thanh toán
bài vở của cả hai chương tŕnh (ngoại điển, chương tŕnh văn hóa phổ
thông ngoài đời, và nội điển, chương tŕnh chuyên khoa Phật học của
viện).
Tháng đầu
chưa quen, việc học việc làm chạy chưa đều, thấy cũng hơi vất vả. Bài học
dồn dập, tôi chỉ biết lo cắm cúi mà học. Tôi cũng quên để ư rằng trong tôi
đă không c̣n những ư tưởng giang hồ phiêu lưu, chán ngán với việc học như
hồi chưa xuất gia nữa. Trước mắt tôi là bài vở, là những cuốn sách hay để
đọc thêm, tôi ngấu nghiến, nghiền ngẫm, siêng năng như con mọt gặm gỗ. Kết
quả là ngay tháng đầu tôi đứng hạng nhất ở lớp ngoại điển lẫn lớp nội điển.
Cứ theo đà đó, dù vào những tháng kế tiếp tôi có hơi lơ là việc học, bảng
xếp hạng của tôi ở cả hai trường vẫn giữ nguyên một mực hạng nhất, chẳng
thay đổi suốt cả năm. Chú Sáng cũng theo tôi sát nút ở lớp nội điển của
viện. Tháng đầu Sáng xếp hạng sáu hay bảy ǵ đó. Đến tháng thứ hai, Sáng lên
hạng năm. Qua tháng thứ ba th́ Sáng xếp hạng nh́. Cứ thế, tôi hạng nhất,
Sáng hạng nh́, hai huynh đệ dẫn đầu lớp dài dài.
Tôi nói tôi
hơi lơ là việc học ở những tháng kế tiếp chẳng phải tôi biếng học ham chơi
ǵ. Chẳng qua tôi có những đam mê khác mà thôi. Thứ nhất là đam mê đọc sách.
Thứ hai là đam mê tọa thiền.
Vào những
tháng sau, có thể một phần do ỷ lại sức học của ḿnh, tôi đă dành nhiều th́
giờ cho việc đọc sách thay v́ học bài. Đă có lúc tôi bị chấm zéro ở một môn
học thuộc ḷng nào đó (như Sử-địa, Sinh vật...) v́ không thuộc bài hoặc
không làm bài tập, nhưng điểm cao tối đa ở các môn khác vẫn cứ vớt được tôi,
khiến tôi vẫn giữ được hạng nhất. Các môn như Đại số, H́nh học, Lư-hóa, cột
điểm của tôi lúc nào cũng nhiều hơn bạn cùng lớp. Những điểm ấy có khi là
điểm từ toán chạy, có khi là điểm của một cái giong tay trả lời đúng
trong khi cả lớp ngồi im thin thít. Những điểm kiếm thêm ấy, lúc nào cũng là
hai mươi, trăm phần trăm. Điểm luận văn của tôi cũng dẫn đầu lớp với số điểm
khá cao. Các bài luận của tôi thường được đọc lên cho cả lớp nghe. Giáo sư
Luận văn có khi c̣n trích câu hay đoạn văn hay trong bài của tôi, bắt cả lớp
phải ghi vào tập. Thành công dễ dàng trong nhiều tháng như vậy, tôi đâm nh́n
việc học như tṛ chơi. Trong khi các chú khác học bài, làm bài của trường
lớp, tôi lấy sách đọc. Số sách của tôi càng lúc càng tăng. Đó là những sách
bàn về văn chương, các loại sách Học làm người, và đặc biệt là một số
sách về Thiền học, tư tưởng Phật giáo. Thỉnh thoảng tôi cũng mua vài cuốn
tiểu thuyết hay truyện ngắn nổi tiếng của Việt Nam hay ngoại quốc thích hợp
cho lứa tuổi của tôi, cũng như thích hợp cho người ở chùa. Tôi thích nhóm Tự
Lực Văn Đoàn, Tô Hoài, Nguyễn Tuân, Lê Tất Điều, Vơ Hồng, Doăn Quốc Sỹ, Léon
Tolstoi và Victor Hugo từ dạo ấy. Dần dần, tŕnh độ khá hơn, tôi mạo hiểm
lén mua các loại sách của những nhà văn nhà thơ Việt Nam như Xuân Diệu, Huy
Cận, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Trần Tuấn Kiệt, Nguyễn Đức Sơn, Nguyễn Thị
Hoàng... và các nhà văn ngoại quốc như Remarque, Maupassant, Maugham,
Steinbeck, Mishima, Pasternak, Kawabata, Kanzantzakis, Dostoievski... (dĩ
nhiên là chỉ đọc từ các bản dịch Việt ngữ). Trong số các tác phẩm của các
nhà văn trên, rất nhiều chỗ hoặc nhiều cuốn tôi đọc không hiểu, hoặc cứ tự
suy diễn và hiểu theo tầm hiểu biết cạn cợt của ḿnh lúc đó, nhưng tôi vẫn
cứ đọc hết từng cuốn một cách say sưa, không chịu bỏ ngang cuốn nào. Đọc
không hiểu, không nhớ, mà tôi vẫn cứ đọc, đọc xong rồi quên. Chẳng biết đọc
sách như thế có lợi ǵ chăng, nhưng tôi cứ đọc. Có bao nhiêu tiền, tôi đổ
hết vào sách. Ở Hội An chỉ có một tiệm sách, nhưng tôi ít t́m thấy loại sách
tôi cần. Tôi thường mua sách ở Đà Nẵng mỗi khi có dịp, hoặc nhờ thầy Thông
Chánh mua từ Nha Trang rồi gởi ra. Chú Tâm Hạnh, sư huynh tôi, lâu lâu cũng
từ Đà Nẵng ghé Hội An thăm chúng tôi, tặng tôi vài cuốn sách. Đọc sách trở
thành một thứ nghiện ngập của tôi. Tôi không biết là những thứ sách trên có
bồi bổ ǵ thêm hoặc có ảnh hưởng xấu hay tốt ǵ cho cái đầu óc non nớt của
tôi không. Chỉ đến khi bước vào loại sách Thiền, tôi mới thấy được rơ rệt
tầm ảnh hưởng của sự đọc sách. Sách Thiền vào đầu thập niên bảy mươi được in
ra khá nhiều. Mà đó là loại sách không phải chỉ đọc chơi, nó c̣n thúc bách
người đọc đi vào thực hành nữa. Tôi đọc Thiền c̣n say mê hơn bất cứ loại
sách hay truyện nào khác, đọc quên ăn quên ngủ. Càng đọc, càng nhớ lời thầy
từng chỉ dạy trong thời gian tôi c̣n hầu hạ thầy. Chẳng hạn, có lúc thầy tôi
nói rằng “xuất gia là để thành Phật chứ không là thứ chi khác.” Câu ấy lúc
mới nghe qua, ḷng tôi đă thấy chấn động. Bây giờ đọc sách Thiền, tâm địa
tôi càng sáng ra, và vẫn cứ thấy chấn động từng hồi mỗi khi nghe nhắc về
Phật tánh sẵn có nơi tự tâm ḿnh.
Suốt thời
gian từ khi mới xuất gia cho đến khi ham mê đọc sách Thiền, công phu tu tập
hàng ngày của tôi là ngồi niệm Phật, hoặc tŕ chú Chuẩn Đề, hoặc chỉ thực
tập sổ tức quán (đếm hơi thở). Chỉ một thời gian ngắn ở Nha Trang là tôi đă
nhuần nhuyễn, thuần thục sổ tức quán, thấy môn này hết cần thiết. Từ đó, cứ
niệm Phật, tŕ chú, tụng kinh, có khi chỉ ngồi lặng lẽ, không niệm ǵ cả,
không cố gắng ǵ cả, cũng không thắc mắc là những nỗ lực tu tập của ḿnh là
để trở thành cái ǵ nữa. Thời gian đầu t́m hiểu thêm về Thiền học, say mê Tổ
sư Thiền đến Như Lai Tối Thượng Thiền, tôi vẫn không thay đổi pháp môn tu
tập của ḿnh. Tôi không thấy sự khác biệt nào trong sự tọa thiền, chỉ và
quán, với sự tĩnh tâm niệm Phật, tŕ chú. Ư tôi muốn nói, tôi không thấy sự
cần thiết phải có thay đổi nào trong công phu hàng ngày của ḿnh. Thực ra
cũng chẳng có cái gọi là công phu nữa. Ở lứa tuổi thiếu niên ấy, tâm
tôi băng sạch như tuyết. Những sinh hoạt hàng ngày của tôi hầu như không cần
cố gắng mà vẫn cứ khế hợp với Thiền. Tôi không có những giây phút nỗ lực để
được định tâm. Mở mắt là định, nhắm mắt là định. Cái tâm trong suốt ấy có vẻ
như chưa hề tán loạn. Vậy th́ cần ǵ phải nỗ lực công phu hay bỏ niệm Phật,
bỏ niệm chú để ngồi thiền! Nhưng rồi, chỉ một thời gian sau, trùng hợp với
thời gian Thượng tọa giám viện dạy về Tọa thiền tam muội, tôi đâm ra ham
thích tọa thiền (tức là theo đúng phương pháp tọa thiền của Thiền tông với
các pháp chỉ-quán).
Đă nói tôi
có trái tim và khối óc rất cực đoan: khi tôi nhắm vào một cái ǵ, tôi dốc
hết tâm lực vào đó. Tôi không niệm Phật hay tŕ chú nữa, mà chỉ tọa thiền
thôi. Lục diệu pháp môn, tôi cứ theo sách mà thực hành. Thượng tọa giám viện
có giảng dạy về Thiền nhưng chú trọng về phần lư thuyết theo chương tŕnh
của Phật học viện chứ không chú trọng phần thực hành. Cho nên, học lư thuyết
xong, h́nh như các chú cùng khóa với tôi chắng thấy ai theo Thiền mà bỏ niệm
Phật, tŕ chú cả. Có lẽ các chú ấy cũng như nhiều người khác, có quan niệm
sai lầm rằng Thiền th́ cao hơn các pháp môn khác, nên chỉ dành cho những kẻ
thượng căn thượng trí. Tôi không nghĩ vậy. Tôi thấy các pháp môn đều như
nhau cả. Cũng chỉ là những phương tiện để định tâm mà kiến tánh, chứng
nghiệm Phật tánh. Tôi tọa thiền không phải v́ thấy Thiền cao hơn các pháp
môn niệm Phật, tŕ chú, mà chỉ đơn giản là v́ trước mắt tôi, sách viết về
Thiền, hướng dẫn Thiền khá nhiều, khá công phu, đầy đủ hơn bất cứ pháp môn
tu nào khác. Tôi đọc thật kỹ các sách dạy về Thiền học, từ thực hành đến lư
thuyết, chi tiết nào cũng lưu ư. Tôi c̣n học kỹ những phương pháp dối trị
qua kinh nghiệm của các vị Thiền sư các nước để có thể tự ḿnh biết cách đối
phó với mọi trường hợp. Và để có thể thực hành phương pháp tọa thiền hàng
ngày, tôi phải bỏ pḥng tăng, t́m đến những chỗ vắng, thường thường là ở các
ngôi mộ hay tháp lớn có nền xi măng tráng láng vốn chẳng hiếm hoi ǵ ở quanh
chùa. Đi t́m chỗ vắng vẻ không phải chỉ v́ đó là nhu cầu của phương pháp tọa
thiền mà c̣n v́ ở các chùa viện Việt Nam, sự tu tập của mỗi người là chuyện
riêng, cá nhân, không phải là chuyện có thể phô trương, tŕnh bày cho kẻ
khác biết–tức là không biểu diễn chuyện tu tập của ḿnh trước đại chúng,
trước tập thể. Trong những chùa viện Việt Nam, tăng chúng hay bạn đồng môn
không bao giờ hỏi nhau: “Thầy tu pháp môn ǵ?” Người hỏi câu đó có vẻ buồn
cười, nhà quê. C̣n người được hỏi sẽ không bao giờ trả lời: tôi tu pháp môn
này, pháp môn nọ... Mà có trả lời th́ cũng quê mùa, ngờ nghệch chung một
cách. Công phu tu tập của mỗi người chỉ có thể tŕnh bày với vị hướng đạo
của ḿnh chứ không phải là chuyện bạ đâu nói đó. Thực ra, cũng chẳng có sự
phân chia pháp môn rơ rệt nào trong chùa chiền Việt Nam nữa. Vào giờ tọa
thiền buổi tối, buổi khuya, theo thời khóa chung của chùa hay của tu viện,
mỗi người ngồi ngay trên giường ngủ của ḿnh, thực hành phương pháp quen
thuộc ḿnh đă chọn. Như vậy, trong giờ tọa thiền ấy, kẻ th́ niệm Phật, kẻ
tŕ chú, người th́ tọa thiền, người th́ tham công án, người th́ quán thoại
đầu, hoặc các pháp quán nhân duyên v.v... Ngoài ra, trong suốt ngày, sự tu
tập của những người ở chùa cũng không gián đoạn. Bởi v́, “Đi cũng thiền,
ngồi cũng thiền; nói, im, động, tịnh, thảy an nhiên” (Huyền Giác,
Chứng Đạo Ca). Cho đến bửa củi, gánh nước, quét dọn... cũng đều là Thiền
hết. Không cần phải hỏi: “Thầy tu pháp môn ǵ?” V́ vậy, khi mọi người chung
quanh đang ngồi học bài mà ḿnh xếp bằng tọa thiền hay lim dim niệm Phật th́
đó cũng là hành vi lố bịch, trơ trẽn, có vẻ như phô trương (trong luật Sa-di
gọi các hành vi đó là “giả trang Thiền tưởng cầu bỉ cung kính”, tức
là làm bộ ta đây là người tu Thiền gắt gao để mong được sự cung kính ngưỡng
mộ của kẻ khác). Tụng kinh trên điện Phật hay ngồi trên giường vào giờ tọa
thiền mỗi sáng tối là sinh hoạt chung của mọi người trong chùa, c̣n chuyện
tu tập thêm ngoài thời khóa của ḿnh là chuyện riêng, phải tự t́m lấy thời
gian và nơi chốn thích hợp mà áp dụng. Thời gian và nơi chốn đó không làm
trở ngại cho sinh hoạt của đại chúng. Không thể ngồi một đống giữa đám đông
mà lim dim hít thở khi đám đông đó đang ḥa hợp trong sinh hoạt khác của tập
thể. Cung cách tu tập trái thời, trái cảnh ấy, dù là thật tâm hay vở vĩnh,
cũng đều có vẻ phô trương, làm gai mắt người chung quanh chứ không làm cho
ai thông cảm nổi, dù rằng tu tập là việc tốt đáng khích lệ.
Cho nên,
tôi phải t́m đến các ngôi mộ vào giờ phóng tham để ngồi thiền. Tôi tham công
án trên từng bước chân đến trường hay từ trường trở về viện. Tôi quán thoại
đầu khi đang làm công tác trị nhật. Có khi gần như suốt đêm, tôi nằm im trên
giường mà tham công án hay suy nghiệm một tắc nào đó của Vô môn quan. Từ chỉ
đến quán, từ công án đến thoại đầu, từ Tổ sư đến Như Lai Thiền... tôi lao cả
thân tâm ḿnh vào tṛ chơi thiền định ấy mà không một vị đạo sư nào hướng
dẫn. Thượng tọa giám viện có thể là vị hướng đạo tốt cho tôi, nhưng trong
môi trường và thời điểm đó của một Phật học viện, chuyện học là chuyện chính;
không ai nghĩ là một chú tiểu lại cần thiết hạ thủ công phu, chết sống với
công án hay thoại đầu và cần một sự hướng dẫn đặc biệt cho việc tu tập như
vậy. Có thể thượng tọa sẽ nói: “Xưa nay các chú tu tập thế nào th́ cứ theo
đó mà thực hành, đừng làm cái ǵ khác thường là được rồi, đâu cần ai hướng
đạo.” Chú tiểu trong chùa giống như cây cỏ mọc trong rừng, cứ tha hồ mọc,
tha hồ vươn lên mà sống, đâu cần phải được dẫn dắt, chăm sóc... mà vẫn cứ là
cây cỏ, là đại thụ như thường. Cho nên, tôi không tŕnh bày việc tu tập của
tôi lên thượng tọa để cầu hướng đạo, mà tâm tư tôi lúc ấy cũng không hề nẩy
sinh một chút nhu cầu cần được hướng đạo nào. Tất cả những ǵ tôi thực hành
trong giai đoạn học thiền ấy, xem ra th́ có vẻ như là một giai đoạn nỗ lực
ghê gớm nếu so với thời gian b́nh thường trước của tôi, hoặc so với bạn học
cùng viện. Nhưng thực ra, tôi thấy ḿnh cũng chẳng có cố gắng ǵ cả. Tôi chỉ
học và hành thiền như thể đang chạy theo một thứ đam mê, nghiện ngập nào đó,
như đam mê đọc sách chẳng hạn. Đam mê không có nghĩa là nỗ lực, cố gắng. Đam
mê cũng không có nghĩa là đang mong cầu đạt được cái ǵ. Chính nỗi đam mê đó
là mục đích, là cái mà kẻ đam mê đạt đến. Đam mê là thả ḿnh vào thực tại.
Tu là đam mê. Tu là lên đường trở về thực tại.
Vậy rồi tôi
được cái ǵ trong tṛ chơi thiền định ấy? Không được cái ǵ cả. Tôi vẫn cứ
là tôi, một tu sĩ thiếu niên đang cùng các bạn đồng lứa tham dự chương tŕnh
trung đẳng Phật học của Phật học viện. Tu theo chương tŕnh, học theo chương
tŕnh. Cũng học bài, cũng đọc sách, cũng ăn cơm uống nước, cũng đi mua thêm
bánh ḿ hay kẹo đậu để dặm vào cái bao tử lưng lửng mỗi ngày. Không ǵ lạ.
Không ǵ thay đổi tâm thức và cuộc sống lặng lẽ yên b́nh ấy. Nhưng tôi biết
rất rơ, rằng dù thế nào đi nữa, trong tôi vẫn sẵn có một ông Phật. Tôi có
thể chạy thật nhanh, nhảy thật xa, hay đi lơ thơ lững thững qua từng chặng
luân hồi, đều được. Không sao cả. Ông Phật trong tôi không bao giờ mất.