Đêm ấy, không có giờ tọa thiền. Và sau giờ đó, h́nh như chẳng ai chợp mắt
được. V́ là đêm cuối cùng, kỷ luật và nội quy của việc ngủ nghỉ không c̣n
cần thiết nữa. Ai ngủ được th́ ngủ. Những người c̣n thức, muốn làm ǵ th́
làm. Sau khi tuyên bố giải tán Phật học viện, Thượng tọa giám viện buồn bă
ngồi im lặng trên chiếc ghế bố nhiều giờ liên tục. Các thầy trong ban giám
đốc cũng ḥa ḿnh, xuống ngồi tṛ chuyện với học tăng, chia sẻ nỗi buồn phân
ly này. Kể từ ngày mai, những học tăng nào không thuộc về chúng thường trụ (tức
là những chú xin xuất gia ở đây làm đệ tử Thượng tọa giám viện) có thể rời
viện được rồi. Dù rằng ban giám đốc không lên tiếng yêu cầu học tăng chúng
tôi rời viện, chúng tôi cũng phải ra đi. Thứ nhất, trong lúc loạn lạc, ai
cũng muốn quay về chùa gốc với thầy tổ, với gia đ́nh; thứ hai, Phật học viện
là trường học, nay đă tuyên bố giải tán, không c̣n là trường nữa th́ học
tăng không c̣n có lư do nào để nấn ná ở lại.
Tôi bước lang thang quanh vườn chùa, rồi đi quanh những hàng hiên, nh́n vào
các pḥng tập thể. Đêm ấy trăng mờ. Các chú tụm năm tụm ba ngồi nói chuyện
to nhỏ với nhau. Có nhóm đun lửa nấu một nồi chè đậu. Có nhóm đang uống trà
với nhau. Các chú lớn thường hút thuốc lén lút th́ nay cũng đem ra hút công
khai. Mấy chú trong nhóm Nha Trang cũng chộn rộn lắm, đang lo thu xếp hành
lư. Các chú này có hành lư bề bộn nhất trong viện, bây giờ phải đem cho bớt
những chú ở lại. Mà đồ đem cho cũng có ǵ quư giá đâu: áo quần, kinh sách,
tập vở, mùng màn... Ngày mai trở về nguyên quán rồi, chẳng c̣n ǵ quư giá
đáng giữ nữa. Chúng tôi chia tay nhau không chuẩn bị trước nên chẳng có một
buổi liên hoan gặp mặt để nói lời từ giă nhau, v́ vậy, những phút cuối này,
gặp nhau là ngó sững nhau, như muốn nói cái ǵ đó mà không nói được. Phải
chi chia tay ngày tốt nghiệp th́ hẳn có thể cười nói huyên thuyên được! Đàng
này, cuộc chia tay đột ngột quá, giống như chia tay với một người chết bất
ngờ v́ tai nạn. Không kịp nói tiếng nào. Chỉ thấy cái ǵ nghẹn cứng trong cổ
họng. Cũng không hẳn vậy nữa, v́ chia tay với người chết th́ chỉ ân hận
không nói được lời yêu thương cuối cùng; c̣n bây giờ, hăy c̣n sống đây mà
chẳng biết phải nói ǵ với nhau. Có cái ǵ đang trờ tới, đuổi tới sau lưng,
phải chạy. Tṛ chơi chiến tranh của những người lớn đă tiến tới màn nào
trong bi kịch tử biệt đây!
Chẳng ai đoán trước được cái ǵ.
Những người lính đồn trú trong trại sau lưng chùa chắc cũng đang vội vàng từ
giă đơn vị của họ. Một đoàn công-voa, nối đuôi nhau thành một hàng trên con
đường nhựa dẫn đến hướng Non Nước – Đà Nẵng. Họ chưa khởi hành. Chẳng nghe
la hét hô hoán ǵ. Chỉ nghe tiếng máy xe nổ rần rần. Đâu chừng nửa giờ đồng
hồ sau, đoàn xe bật đèn sáng trưng, rồi lăn bánh. Từng chiếc, từng chiếc
chạy đi. Bên trong trại, xe hăy c̣n tuôn ra tưởng chừng không bao giờ ngớt.
Họ rút đi trong im lặng. Lâu nay họ đóng gần chùa mà chúng tôi hầu như không
để ư đến. Có lẽ họ cũng không biết đến sự hiện diện của chúng tôi nơi Phật
học viện này. Hội An tương đối yên ổn, trại lính, trường tăng nằm kế bên
nhau, chung sống trong ḥa b́nh, im lặng. Cái im lặng tắc nghẽn của những
người chưa làm hết, chưa đi hết con đường của ḿnh.
Đâu đó ở xa xa, có tiếng đại bác nổ rền. Vài tiếng súng lẻ tẻ nối theo.
Thỉnh thoảng có một góc trời vùng sáng lên. Ai đi trong đêm giữa xóm làng
gần chùa mà có tiếng chó sủa dai dẳng. Trăng hạ tuần lặng lẽ chếch về hướng
tây. Những ánh sao mờ nhạt sau những cụm mây dày vần vũ. Trời đêm u ám. Có
chú bỏ đi ngủ trước, thực ra là để khóc rưng rức trên giường
a
Hôm sau, trong giờ điểm tâm, học tăng chúng tôi cùng quỳ lạy ban giám đốc để
trở về nguyên quán. Thượng tọa giám viện chỉ nói vắn tắt đôi lời, khuyên
chúng tôi dù trong hoàn cảnh nào cũng nỗ lực tu học để mai sau có thể gánh
vác được trọng trách hoằng pháp lợi sinh mà tiền nhân giao phó. Thượng tọa
c̣n nói thêm:
“Nếu t́nh h́nh yên ổn trở lại, viện sẽ thông báo ngày nhập học cho các chú.”
Chúng tôi lục tục lên đường. Các chú ở các quận lỵ thuộc tỉnh Quảng Nam th́
chỉ cần xuống bến xe Hội An là có xe về. C̣n lại bao nhiêu chú đều phải đón
xe đi Đà Nẵng rồi từ đó mới mua vé xe về nguyên quán. Ở bến xe Hội An bây
giờ thực vắng khách. Người ta đă tuôn chạy gần hết từ nguyên buổi chiều và
tối hôm qua. Chúng tôi có vẻ như là những người cuối cùng muốn rời bỏ thị xă.
Người tài xế thấy chúng tôi lên chật cứng một xe th́ mừng rỡ, cho nổ máy
chạy đi ngay. Đặc biệt trong chuyến đi này có thầy quản chúng đi theo để lo
xe về cho mười hai chú nhóm Nha Trang. Trong mắt ban giám đốc, chúng tôi hăy
c̣n là những đứa con nít. Tốp Nha Trang là tốp tăng sinh ở xa nhất mà lại là
tốp tăng sinh do Phật học viện Sơ đẳng Linh Sơn gởi gắm. Năm kia thầy Thiện
Đức thay mặt ban giám đốc Phật học viện Linh Sơn đem chúng tôi đến đây th́
bây giờ, thầy quản chúng cũng phải mang chúng tôi giao trả lại. Không giao
trả tận nơi được th́ ít nhất cũng mang ra bến xe, nh́n tận mắt chúng tôi
ngồi an toàn trên xe về Nha Trang mới thôi. Chúng tôi đă gia nhập Phật học
viện với tư cách một tập thể thuộc Phật học viện khác chuyển đến nên bây giờ
không được đi lẻ tẻ cá nhân. Đi th́ cùng đi, về th́ cùng về một lượt với
nhau. Thầy quản chúng dặn ḍ chúng tôi đủ thứ, bảo không được phân tán, phải
đùm bọc che chở nhau cho đến khi về đến Nha Trang. Ngoài mấy chú tốp Nha
Trang, lực lượng hùng hậu nhất của viện, c̣n có vài chú ở Phú Yên, B́nh Định,
Quảng Ngăi, Quảng Tín, cùng dự định sẽ đi chung một chuyến từ Đà Nẵng.
Bến xe Đà Nẵng là chặng cuối cùng cho cuộc phân ly giữa chúng tôi và một vài
chú ở Quảng Trị, Huế, trong đó có chú Tửu. Chú Tửu cùng các chú ở các tỉnh
khác đều phải tự túc xuống bến xe liên tỉnh lo mua vé đi. Riêng tốp Nha
Trang chúng tôi th́ thầy quản chúng không cho đi đâu lộn xộn, sợ lạc mất.
Thầy đem gởi chúng tôi ở chùa Tỉnh hội Đà Nẵng, bảo ở yên không được đi đâu,
chờ thầy đi mua vé. Thượng tọa trụ tŕ chùa Tỉnh hội cho chúng tôi một pḥng
trống để cất hành lư và nghỉ ngơi. Thầy quản chúng đi xuống bến xe bằng xe
thồ gắn máy. Vậy mà gần hai giờ đồng hồ chờ đợi, chẳng thấy thấy quay về.
Chúng tôi vô cùng sốt ruột. Có chú lầu bầu:
“Chắc pḥng vé không chịu bán mười mấy vé cho một ḿnh thầy quản chúng. Tụi
ḿnh tự đi mua th́ phải hơn.”
“Hay v́ thầy quản chúng hiền lành đâu có chen lấn với người ta được!”
Chúng tôi cứ thấp thỏm, đứng lên ngồi xuống, mong ngóng thầy quản chúng quay
về. Có hai chú lớn không chờ được, lẻn đi ra ngoài. Chỉ một lát sau đó th́
thầy quản chúng bước vào, nh́n chúng tôi, lắc đầu:
“Chịu thua. Việt cộng đă chiếm hẳn tỉnh Quảng Ngăi, chiếm luôn Tam Kỳ, Quảng
Tín. Có đường đâu mà t́m vào Nha Trang. Không có xe vào trong nữa, chỉ c̣n
xe ra Huế, Quảng Trị thôi.”
Nhưng thầy vừa nói xong, đă có người Phật tử nào đi ngang, nói chen vào:
“Đường bộ đi Huế, Quảng Trị cũng bị cắt luôn rồi. Đà Nẵng đang bị cô lập. Vô
không được, ra cũng chẳng xong. Chỉ c̣n đi được mấy quận gần gần thuộc Quảng
Nam-Đà Nẵng thôi.”
Thầy quản chúng thở dài, đứng im một lúc ra dáng suy nghĩ. Một lúc sau, thầy
buồn bă nói:
“Chừ tính sao đây các chú?”
Các chú tốp Nha Trang nhao nhao lên, bàn tán đủ thứ. Chỉ c̣n đường hàng
không và đường thủy nữa thôi. Nhưng ai biết đằng nào mà mua vé máy bay hay
tàu thủy. Thầy quản chúng cũng mù tịt như chúng tôi thôi chứ có hơn ǵ.
Nhưng lỡ gánh trách nhiệm của Thượng tọa giám viện giao phó, thầy phải ráng
ngồi đây mà nặn óc suy nghĩ cái chuyện không thể làm được. Chú Lăm và chú
Thiệt là hai chú lớn nhất tỏ ư mất măn, không muốn bị kiểm soát bởi thầy
quản chúng nữa. Lúc năy, khi thầy quản chúng đi mua vé chưa về, hai chú ấy
đă nói: “Phật học viện giải tán rồi mà thầy ấy c̣n đi theo kèm tụi ḿnh chi
nữa!” Bây giờ, thấy thầy quản chúng bất lực chuyện lo vé đi, các chú càng
mạnh miệng hơn:
“Tính không được th́ thôi, thầy về lại viện đi. Để tụi này tự lo được mà.
Lớn hết rồi chứ c̣n nhỏ nhít ǵ nữa mà thầy theo hoài.”
Thầy quản chúng cũng muốn để chúng tôi tự lo vào phút này nhưng chưa biết ư
kiến chung thế nào, nên hăy c̣n ngại ngùng áy náy, sợ bỏ đi là thiếu trách
nhiệm. Thầy ngó tôi như ḍ ư. Tôi đến gần nói nhỏ với thầy:
“Các chú ấy nói đúng đó. Thầy trở về viện đi. Để tụi con tự t́m cách.”
Thầy quản chúng mới gật gù nói lớn:
“Thôi được, tôi về. Các chú ráng t́m cách đi nghe. Nhớ là đừng bỏ rơi nhau.
Phải đùm bọc nhau cho tới nơi tới chốn th́ tôi mới yên ḷng.”
Chúng tôi tiễn thầy ra khỏi cổng tam quan.
Ăn trưa xong, chúng tôi cùng kéo nhau cuốc bộ xuống bến phà Đà Nẵng để t́m
đường đi. Dưới bến đă đông nghẹt người và xe cộ. Chúng tôi chỉ đến được phía
bên này đường mà ngó qua. Vài chú chen lấn đến sát chỗ neo thuyền, nơi có
một chiếc tàu sắt lớn sắp sửa rời bến. Người ta bu lại, đeo bám, leo lên,
đông như kiến, dù rằng trên tàu đă chật ních người là người. Tiếng la hét,
tranh giành, căi cọ nhau om ṣm. Càng đứng lâu, người từ các nơi đổ xuống
bến càng nhiều hơn. Chúng tôi chẳng tiến xa hơn được về hướng chiếc tàu sắt,
nên cứ kéo nhau đi dọc theo bờ sông. Có tiếng súng nổ trên tàu. Nhiều chiếc
xe của ai bỏ không, nằm choáng cả con lộ mà chẳng ai buồn lái hay dẹp qua
một bên. Tôi nói với chú Hưng đứng bên cạnh rằng:
“Tụi ḿnh không thể đi được đâu.”
Hưng hỏi lại:
“Sao không được?”
“V́ tụi ḿnh không thể chen lấn với người ta. Tu mà chen lấn tranh giành với
người ta coi kỳ cục lắm. Nh́n ḱa, cái đám đông đó, nếu muốn tiến về phía
trước, chắc chắn ḿnh phải đẩy xô người khác qua một bên. Tu hành đâu có sợ
chết mà hoảng sợ chen lấn.”
Chú Thiệt nghe vậy th́ chêm vào, căi:
“Đâu phải sợ chết mà chen lấn. Ḿnh cũng phải về với gia đ́nh chứ bộ không
chen lấn rồi ở đây luôn sao?”
Chú này trước kia ở cùng chùa Hải Đức và Linh Phong với tôi. Lúc ấy chú dễ
thương lắm, mà tự dưng càng lớn, càng đổi tánh, chẳng có điều ǵ tôi nói hay
làm mà hợp ư chú. Tôi nói:
“Ừ th́ ḿnh cũng cần về, nhưng phải nhường thiên hạ trước. Chúng ta bỏ gia
đ́nh đi tu rồi th́ bây giờ về gặp được th́ tốt, không được th́ cũng đành
chấp nhận. Chúng ta đă chấp nhận chuyện xa nhà, lại không sợ chết, c̣n người
ta sợ chết mà chạy th́ ḿnh nhường người ta trước, lư đâu lại đi tranh giành
chỗ.”
Chú Thiệt đâm bực:
“Vậy th́ chú ở lại chứ đi xuống đây làm ǵ?”
“Không thể nói vậy được. Tôi xuống đây là để t́m đường về quê, y như mấy chú
chẳng khác. Nhưng không phải xuống đây để tranh giành với thiên hạ, mất tư
cách. Có đường th́ đi, không đường th́ thôi. Hơn nữa, có chen lấn tranh
giành th́ cũng được một chú, hai chú, chứ có được mười hai chú đâu. Vậy là
ră đám rồi, c̣n ǵ là đoàn kết, c̣n ǵ gọi là đùm bọc nhau!”
“Đến nước này mà c̣n nói chuyện đùm bọc với đoàn kết! Cái tập thể mười mấy
người này làm tôi cục cựa không được ǵ hết. Nếu không dính chùm với mấy
chú, tôi đă phóc lên tàu từ lâu rồi.”
Tôi sững sờ không ngờ chú ấy có thể nói ra được một câu như vậy. Tôi nghiêm
mặt nói:
“Vậy chú nào muốn đi riêng th́ cứ đi riêng. Đó là các chú bỏ tập thể mà đi
chứ đừng trách là tập thể bỏ rơi các chú là được rồi.”
Thế là tốp Nha Trang chia làm hai nhóm: một nhóm chủ trương mạnh ai nấy đi,
tự do, không ràng buộc nhau để rồi chết chùm không ai đi được, đem hết lanh
lợi của ḿnh ra để chen lấn mọi người mà lên tàu; nhóm thứ hai chủ trương
cùng sống chết với nhau, đi được th́ cùng đi, ở lại th́ cùng ở, sẵn sàng
chịu phần thiệt về ḿnh để giữ phong cách, bảo vệ màu áo của tập thể. Nh́n
qua cũng thấy rơ là nhóm thứ nhất dạn dĩ, khôn lanh, c̣n nhóm thứ hai th́
chậm lụt, khờ khạo. Hơn một nửa số nằm trong nhóm thứ hai đó, gồm có Quỳnh,
Tánh, Sáng, Hưng, Ḥa, Sướng, Cửu, Khôi và tôi. Số c̣n lại gồm mấy chú lớn
tuổi hơn, cứ đâm đầu vào đám đông để t́m ngơ thoát.
Khi chiếc tàu sắt lớn kia rời bến rồi, bến tàu mới thưa bớt người. Chẳng
thấy dấu hiệu ǵ khả quan, chúng tôi cùng kéo về lại chùa Tỉnh hội. Ở đây,
chúng tôi gặp lại chú Cung, trước là chúng phó của chúng Ca Diếp. Chú Cung
là người lớn tuổi nhất trong số học tăng của viện. Quê chú ở Quảng Ngăi.
Quăng Ngăi bị chiếm rồi, chú chẳng biết đi đâu, tấp vào chùa Tỉnh hội xin tá
túc. Chú Cung nhập bọn với chúng tôi, ở chung một pḥng tập thể của chùa
Tỉnh hội. Chúng tôi nhờ có chú Cung bên cạnh mà cảm thấy yên ḷng hơn một
chút. Có việc ǵ cũng hỏi ư chú như hỏi ư một người anh lớn.
Người ta nói, hiện tại, thành phố Đà Nẵng tập trung từ hai triệu rưỡi đến ba
triệu người từ Quảng Trị và Huế chạy vào, từ Quảng Ngăi, Quảng Tín, Quảng
Nam chạy ra. Các quận Đức Dục, Đại Lộc, Quế Sơn, Điện Bàn, và thị xă Hội An
đều đă rơi vào tay người cộng sản. Chúng tôi chỉ ngủ qua một đêm tại chùa
Tỉnh hội là t́nh h́nh đă khác thấy rơ. Buổi sáng bước ra cổng tam quan, thấy
ngoài đường không như ngày hôm qua nữa. Xe cộ qua lại nườm nượp hơn. Đồng
bào chạy tới chạy lui, kẻ đông người tây, tán loạn như một tổ kiến bị chọc
phá. Có chiếc máy bay bà già lượn ṿng trên bầu trời u ám của ngày ấy, dùng
loa phóng thanh lời của tỉnh trưởng, kêu gọi quân nhân, cảnh sát làm tṛn
trách nhiệm của ḿnh, không bỏ đơn vị, quyết tâm bảo vệ đồng bào và thành
phố đang bị cô lập này. Bài phóng thanh từ trời cao cũng cho biết vị tỉnh
trưởng thề sống chết với quê hương, không bỏ đi đâu, yêu cầu đồng bào b́nh
tâm trở về nhà, chờ quân đội và cảnh sát văn hồi trật tự. Nhưng người ta nói,
thực ra ông tỉnh trưởng Quảng Nam cũng như ông thị trưởng Đà Nẵng đă cao bay
xa chạy rồi. Chuyện văn hồi trật tự cũng coi như bất khả. Cướp bóc, hăm hiếp,
nổi lên khắp các đường phố, khắp các khu gia cư. Cướp giữa ban ngày. Có vài
toán quân nhân xách súng đi cướp. Họ lái một chiếc xe hơi lấy được từ đâu,
chạy ṿng ṿng trong phố. Quân cảnh, cảnh sát thấy họ cũng phải làm ngơ,
hoặc bỏ chạy. Sau, có vị thiếu tá Quân trấn đem xe tăng đi dẹp loạn. Nhưng
rồi toán quân kia cũng t́m ở đâu được một chiếc xe tăng, sẵn sàng nghinh
chiến. Xe tăng của loạn quân chạy xồng xộc, hùng hổ như con voi điên trên
đường phố đông nghịt người. Nó chẳng biết thương tiếc bất cứ thứ ǵ bị cán
bẹp dí trên đường đi. Đồng bào trên đường thấy xe tăng từ xa là bỏ chạy tán
loạn, kinh hăi. Cũng may không ai bị xe tăng nghiến trước mắt tôi. Chỉ có
mấy chiếc xe đạp, xe gắn máy là bị nát ngướu trên đường. Vị thiếu tá Quân
trấn cùng các thuộc cấp cũng phải đầu hàng. Vậy là sự náo loạn đi đến chỗ
không c̣n kiểm soát được nữa. Dù sao th́ đường xuống bến phà hăy c̣n đi được.
Chúng tôi lại kéo xuống đó. Chẳng có tàu bè ǵ nữa. Người ta bảo muốn đi,
phải đón ghe nhỏ chạy ra khơi, ngoài đó có tàu lớn chờ sẵn. Các tàu lớn
không vào bến được để tránh trường hợp quá đông người chen lên. Chúng tôi
chỉ lẩn quẩn ở dưới bến mất mấy tiếng đồng hồ, không kết quả. Có một tàu
đánh cá đâu ngoài Huế chạy vô, vừa cập vào. Người ta chen nhau nhảy lên
chiếc tàu đó trong khi những người trên tàu lại lo xuống bến. Một người lính
trên tàu đó gặp chúng tôi th́ lắc đầu nói:
“Tôi từ ngoài Huế thoát vào đây. Ngoài bờ biển Thuận An người ta chết như
rạ, nằm đầy ngoài băi. Chiếc tàu đó hư rồi, có chạy xa được nữa đâu mà lên.”
Rồi anh xin tiền chúng tôi để mua thức ăn. Anh đă nhịn đói mấy ngày trên
tàu. Tôi cho tiền anh ấy rồi kéo mấy chú nhỏ đi tiếp. Đến một khoảng trống
bỗng gặp thầy Phước Châu, vị quản chúng của Phật học viện Hải Đức Nha Trang.
Chúng tôi mừng quá, chạy theo thầy. Té ra thầy ấy từ Nha Trang về Quảng Trị
thăm gia đ́nh rồi bị kẹt. Thầy ấy thuê ghê nhỏ từ đảo Tiên Sa ở Sơn Trà về
đây để mua thêm thức ăn. Một người đệ tử tục gia đi theo thầy lo phần mua
thực phẩm ấy. Thầy đứng lại bến phà chờ đợi. Chúng tôi hỏi thầy xem chúng
tôi có thể đi theo thầy về Nha Trang được không. Thầy nói được, nhưng phải
mua thêm bánh trái để ăn dọc đường chứ kéo theo một đám như vậy thầy không
lo nổi thực phẩm. Thầy thúc chúng tôi lo mua thức ăn, thầy sẽ đứng chờ. Tôi
bảo các chú nhỏ là Cửu, Hưng, Sáng, Ḥa, đứng lại với thầy Phước Châu mà
chờ. Tôi và chú Sướng đi quanh cả một khu phố mà chẳng thấy một thứ thực
phẩm ǵ có thể mua được. Phải đánh một ṿng thật xa mới thấy một xe bán bánh
ḿ. Chúng tôi mua hết bánh ḿ mà họ có, rồi tức tốc quay lại chỗ cũ. Vậy mà
khi đến nơi, chỉ thấy c̣n có các chú Cửu, Sáng và Ḥa. Thầy Phước Châu và
chú Hưng đă lên ghe nhỏ đi mất. Sáng nói là thầy Phước Châu dặn khi nào tôi
trở lại th́ bảo tập trung chờ ở đây, chiếc ghe nhỏ đó sẽ quay trở lại để đưa
chúng tôi ra đảo Tiên Sa. Đêm nay có hạm đội Mỹ vào ngang khơi Đà Nẵng, các
ghe lớn nhỏ sẽ đưa người từ đảo Tiên Sa và Sơn Trà ra hạm đội. Nghe rằng có
hai chiếc xà-lan lớn sẽ được tàu kéo ra chỗ hạm đội nữa. Chúng tôi đứng chờ
măi, chẳng thấy ghe nào trở lại. Đành về lại chùa Tỉnh hội. Mấy chú nhỏ theo
tôi cũng có ư trách tôi và chú Sướng chậm chạp, mua thức ăn ǵ mà lâu quá để
cho thầy Phước Châu đi mất.
Bánh ḿ mua nhiều quá, tối đó chúng tôi ngồi ăn bánh thay v́ xuống bàn ăn
chùa Tỉnh hội xếp hàng chờ đợi đến lượt ḿnh. Ở chùa Tỉnh hội bấy giờ không
phải chỉ có tốp học tăng chúng tôi đến tá túc mà c̣n mấy chục tu sĩ trẻ khác
từ các tỉnh tụ về nữa. Cũng may là chúng tôi đến sớm, có được một pḥng
riêng rộng để trú thân qua đêm. Ngoài hành lang của các dăy tăng pḥng cũng
như hiên chánh điện, đồng bào đủ mọi thành phần kéo đến nằm ngồi la liệt. Họ
cũng là dân tỉnh khác kéo về, không có chỗ tá túc, lại khiếp sợ sự hoảng
loạn bên ngoài mà vào đây ăn nhờ ngủ đậu, khỏi cần xin phép ai. Đến giờ ăn,
họ xuống bếp chùa lấy cơm. Ăn rồi nằm ngủ luôn ở các hành lang của chùa cho
tiện. Nhà bếp nấu cơm và thức ăn liên tục để có kịp mà cung ứng cho cả ngàn
người. Một anh quân nhân nào đó có lẽ từng làm hỏa đầu vụ trong trại lính,
nay xung phong làm đầu bếp cho chùa, nấu cơm liên tục từ sáng đến tối, nghĩa
là không theo giờ giấc ba bữa ăn như thường lệ nữa. Thức ăn th́ có mấy d́
vải lo liệu. Một số phật tử theo xe riêng của chùa, đi mua gạo về chất đống
ở kho gần bếp. Nghe nói người ta xông vào kho gạo tranh nhau vác gạo mang về
nhà. Có người lấy nhiều quá, đem bán bớt, giá rất rẻ. Ở kho gạo ấy, người ta
giành giật nhau kéo rút gạo thế nào mà những bao gạo từ trên cao đổ xuống đè
chết mấy người. Mấy hôm trước, người ta chăm hăm chuyện thoát khỏi Đằ Nẵng;
bây giờ, chuyện thoát ra e không thực hiện được nữa, người ta đâm nghĩ đến
cái ǵ thực tế hơn. Vậy là, ngoài đường phố, không phải chỉ có người hớt ha
hớt hải t́m đường thoát, mà c̣n nhiều người khác lăng xăng đi kiếm gạo, kiếm
thức ăn, bằng cách mua rẻ hoặc đi hôi của từ những tư gia hay hàng quán mà
chủ nhân đă bỏ đi hoặc không đủ sức bảo vệ. Nhiều người vác gạo hoặc vác bao
thực phẩm lớn chạy nghinh ngang ngoài đường. Có những toán lính cầm súng bắn
nhau loạn xạ trên đường phố để tranh giành thực phẩm, tiền bạc hoặc những
ngôi nhà vô chủ. T́nh h́nh thật căng thẳng, tưởng chừng không c̣n cảnh rối
loạn nào đáng sợ hơn.
Chúng tôi đang ngồi ăn bánh ḿ với nhau bỗng nghe một tiếng nổ thật lớn,
vang rền cả thành phố. Tôi chẳng hiểu đó là loại bom đạn ǵ. Chỉ thấy ở góc
trời phía đông vụt sáng lên một màu đỏ rực giữa đêm đen. Sau đó, nhiều tiếng
nổ nhỏ khác nối theo, cũng ở phía ấy. Thượng tọa trú tŕ Tỉnh hội bước xuống
bảo chúng tôi tắt đèn v́ Việt cộng đang pháo kích. Tôi không hiểu tắt đèn
như vậy có kết quả ǵ không. Tiếng nổ cứ đ́ đùng vang lên, lúc gần lúc xa,
nghe rờn rợn trong da thịt. Mấy ngày nay chưa xảy ra trường hợp đó, người ta
la hét chen lấn lăng xăng với nhau ở mọi ngả đường. Bây giờ, đạn pháo kích
tới tấp nổ, tiếng người bỗng như ngưng bặt. Tiếng pháo kích nghe như tiếng
bước chân khổng lồ của tử thần. Tôi ngồi im trong pḥng tối một lúc, bỗng
thấy cần một thời kinh cho tâm hồn lắng xuống, đồng thời cũng cầu nguyện cho
sự b́nh an của ba triệu lương dân ở thành phố này. Không nhiều th́ ít, trước
cảnh hỗn loạn và đạn bom nổ rền, tâm tôi cũng sinh bất an, không định được.
Mấy ngày chạy loạn tá túc nơi đây, chúng tôi đă không tụng kinh ngồi thiền
như thường lệ mà cũng chẳng nghe ở chùa tụng kinh. Tôi nói chú Cung hăy xin
phép Thượng tọa trú tŕ cho tụng một thời kinh. Thượng tọa đồng ư ngay nhưng
dặn chúng tôi là chỉ thắp chút đèn cầy nhỏ thôi, đèn điện tắt hết. Vậy là
tốp Nha Trang chúng tôi kéo lên chánh điện làm lễ. Chỉ có chú Cung, tôi và
mấy chú nhỏ; c̣n các chú lớn muốn tách rời tập thể th́ đi đâu không thấy về
lúc này. Khi chúng tôi tụng kinh, một số đồng bào cũng kéo vào quỳ lạy phía
sau. Tiếng kinh cầu nguyện vang lên giữa tiếng pháo kích đ́ đùng quanh ven
thành phố.
Tụng kinh xong, chúng tôi trở về pḥng th́ được chú Thiệt (vừa đi đâu mới
về) cho biết chú Dương và chú Lăm đă lên được một chiếc tàu lớn vào Sài G̣n.
Tàu ấy không vào bến Đà Nẵng để bốc người mà cập bến ở đâu đó xa hơn. Vậy mà
các chú cũng lần ḍ t́m ra được, thật tài! Chú Thiệt nói với các chú khác,
cố t́nh cho tôi nghe:
“Thấy chưa, phải tách ra mà đi mới thoát được chứ kéo cả bầy đoàn th́ làm
sao mà thoát!”
Chú ấy nói ǵ th́ nói, bọn tiểu khờ khạo chúng tôi vẫn cứ bảo thủ, không rời
bỏ nhau.
Trận pháo kích ngưng rồi chúng tôi mới đặt lưng nằm xuống ngủ được một giấc
dật dờ. Sáng mai, chú Hưng từ đảo Tiên Sa ṃ về, hổn ha hổn hển nói:
“Hồi tối Việt cộng pháo kích bên đảo. Khủng khiếp thật. Tôi xém chết bên đó
rồi!”
Tôi vội hỏi:
“Vậy thầy Phước Châu đâu rồi?”
“Thầy ấy xuống xà-lan, ra hạm đội Mỹ rồi.”
“Sao chú không đi theo thầy Phước Châu?”
“Sợ quá không muốn đi nữa. Có một thầy ở Phật học viện Phổ Đà bị trúng mảnh
nơi bụng, người ta đưa vào bịnh viện rồi. Một thầy khác, chẳng biết ở chùa
nào, bị chết ngay tại chỗ. Tôi nằm kế bên thầy đó chứ đâu. Ớn thiệt! Nhiều
người chết lắm. Tôi không dám đi nữa, chạy về đây.”
Mấy chú nhỏ lúc đó mới le lưỡi. Một chú nói:
“Nếu chú Khang đi mua bánh ḿ mau hơn một chút, chắc tụi ḿnh có mặt trên
đảo hết, rồi chẳng biết chuyện ǵ xảy ra nữa há. Ghê thiệt!”
Suốt buổi sáng hôm ấy, chúng tôi lại cố gắng thử một lần nữa, theo chú Cung
đi xuống bến phà xem có tàu lớn nào cập bến không. Nhưng vô vọng. Một cái
bến không tàu. Cả những chiếc ghe nhỏ cũng không thấy. Nhưng người xuống
bến, đi quanh, đứng chờ, vẫn đông nghịt. Thảm!
Chúng tôi quay về lại chùa Tỉnh hội. Không biết làm ǵ nữa. Chẳng biết đi
đâu nữa. Buổi trưa ăn xong, chúng tôi ra đứng bên tường rào của chùa Tỉnh
hội, nh́n thiên hạ vội vàng qua lại. Chưa thấy dấu hiệu ǵ là trật tự sẽ
được văn hồi. Rối loạn hơn th́ có. Nhưng số lượng người qua lại trên đường
đă có vẻ thưa hơn. Người ta biết không c̣n hy vọng ǵ rời khỏi thành phố
kinh hoàng này nữa. Chỉ c̣n những chiếc xe của các toán loạn quân thỉnh
thoảng phóng vụt qua. Thành phố ba triệu người bây giờ đang ngoắc ngoải chờ
đợi một thế lực hay một đấng linh thiêng nào đó cứu vớt, hoặc chờ đợi một
thảm kịch mà không ai đoán trước được mức kinh hồn của nó. Ai, thế lực nào
có thể giải cứu thành phố này? Người ta chờ đợi, người ta lắng nghe. Chỉ
thấy cướp bóc, phá hoại và vài tiếng súng nổ lẻ tẻ thị uy đâu đó trên đường
phố. Nhà nào nhà nấy đóng cửa im ỉm. Tưởng chừng khung cảnh địa ngục cũng
không thê lương áo năo đến như vậy.
Bỗng có tin loan đi rất nhanh rằng quân cộng sản đă kéo đến ven ngoại ô
thành phố. Trong khi đó, lại có lời kêu gọi đâu đó, trên đường và trên đài
phát thanh, yêu cầu hai bên tham chiến hăy bỏ súng xuống để mưu cầu ḥa b́nh
thực sự cho đất nước. Lời kêu gọi nghe rất thiết tha, cảm động và có tác
dụng rơ rệt. Phải, mấy ngày sống trong kinh hoàng rồi cuối cùng chỉ c̣n là
tuyệt vọng, người ta muốn chấm dứt ngay t́nh trạng hỗn loạn vô chánh phủ của
thành phố trên ba triệu người này. Cướp bóc, hăm hiếp, giết người trắng trợn
giữa ban ngày th́ c̣n ǵ khác hơn để mong đợi ngoài sự buông súng hoàn toàn
của hai phe lâm chiến để toàn dân vui hưởng thái b́nh! Thế rồi người ta
buông súng. Nhưng buông ở đâu, không lư thả ngoài đường cho kẻ khác lại cầm
lên để tiếp tục bắn giết nhau? Cho nên người ta mang đến các nơi thờ tự tôn
giáo, chùa, nhà thờ, thánh thất v.v... Nghĩ rằng những nơi thờ tự ấy sẽ chan
rưới thương yêu cho mọi người, khiến cho mọi thù hận nếu có nẩy ra th́ cũng
bị trấn áp hay dịu đi. Người ta có thể hăng máu chạy đến kho vũ khí hay một
đồn lính để lấy súng chiến đấu chứ không ai chạy đến chùa và nhà thờ để lấy
súng bắn nhau cả. Ban đầu họ bỏ súng trước cổng, sau đó lại mang hẳn vào
trong sân. Ở chùa Tỉnh hội có khoảng sân rất rộng. Người ta tháo súng, gỡ
đạn rồi đem vào chất thành đống, các quân nhân vào chùa buông súng xong, cởi
áo lính, chỉ mặc áo may-ô hay sơ mi trắng mà bước ra. Tôi đứng nh́n cảnh
buông súng của “hai bên”, sung sướng ứa nước mắt. Thằng bé thiển cận
như tôi, lâu nay ở chùa có phân biệt được ai là lính Cộng ḥa, ai là lính
Cộng sản đâu. Súng nào cũng là súng, lính nào cũng là lính. Cán bộ xây dựng
nông thôn hay nhân dân tự vệ mặc đồ bà ba đen không khác ǵ anh chiến binh
và cán bộ cộng sản trong trí óc tôi cả. Và những người lính ấy, ai vào chùa
cũng cởi áo trận, vứt mũ nón, thảy súng ống xuống đất rồi quay ra, làm sao
tôi khỏi tin rằng “hai phe lâm chiến” cùng bỏ súng xuống v́ ḥa b́nh
cho toàn dân! Không ngờ “ước mơ ḥa b́nh” của ḿnh, của nhiều triệu người
khác trên đất nước khốn khổ này, nay đă thành sự thật. Ôi, cái sự thật đă
diễn ra trước mắt, dễ dàng, đơn giản như vậy chỉ sau những lời kêu gọi ôn
ḥa, t́nh cảm trên đài phát thanh. Mắt tôi cay từng giọt lệ nóng, tin tưởng
vào tương lai tươi đẹp của đất nước. Tôi quay qua hỏi chú Cung cho chắc, v́
chú ấy lớn tuổi hẳn phải biết nhiều:
“Hai bên cùng bỏ súng xuống, phải không chú? Vậy là có ḥa b́nh rồi hả?”
Chú Cung nh́n vào đống súng đạn, nh́n những chú lính đi vào đi ra một lúc,
rồi nói với giọng nghi ngại:
“H́nh như không phải vậy.”
Và đúng là không phải vậy. Chỉ có một bên buông súng. Không phải hai phe lâm
chiến cùng bỏ súng. Khoảng bốn giờ chiều, đoàn quân cộng sản lái chiến xa lù
lù vào thành phố. Trên chiến xa cắm một ngọn cờ nửa đỏ nửa xanh với ngôi sao
vàng ở giữa. Người ta gọi đó là cờ của quân giải phóng. Một số đồng bào có
liên hệ với mấy anh cộng sản nằm vùng đă có sẵn cờ giải phóng, hồ hỡi đưa
lên phất phất đón chào. Đa phần quần chúng c̣n lại th́ đứng nh́n với đôi mắt
lạc thần, sửng sốt. Tôi cũng sửng sốt nh́n những chiến binh cộng sản đi
ngang chùa với những bộ mặt lạnh lùng pha chút kiêu hănh. Tôi ngớ ngẩn quay
vào pḥng, ngồi lặng một ḿnh, hoang mang, buồn bă. Tự dưng tôi linh cảm
rằng, nước tôi không thể có ḥa b́nh theo cách đó.
a
Thành phố Đà Nẵng cũng bị chiếm, chúng tôi không c̣n lư do ǵ để nấn ná tại
chùa Tỉnh hội nữa, bèn kéo nhau trở về Phật học viện Quảng Nam. Lúc ấy, các
xe đ̣ đều bị trưng dụng cho bộ đội, cán bộ cộng sản để họ về quê hay đi công
tác chi đó, thường dân không sao có xe mà đi được. Chúng tôi cũng đón xe măi
không có, nên rủ nhau đi bộ từ Đà Nẵng vào Hội An. Hơn ba mươi cây số. Nhóm
Nha Trang chia thành hai, ba tốp từ đây, v́ các chú lớn không thích đi với
bọn chậm chạp và thích giữ kỷ luật như chúng tôi. Tôi, Sáng, Cửu, Sướng, Ḥa
và Hưng cùng đi với nhau. Cứ đi mấy cây số, thấy có chùa dọc đường th́ vào
nghỉ, xin nước uống rồi lại đi tiếp. Trên đường đi, nhiều xác chết nằm lăn
lóc bên vệ đường, ruồi nhặng bu đầy. Chúng tôi nhắm mắt, niệm Phật mà bước.
Đi từ sáng đến chiều tối th́ cũng về được tới viện.
Đâu chừng tuần sau th́ Phú Yên, Nha Trang cũng bị cộng sản chiếm nốt. Vậy là
các chú Nha Trang lại rủ nhau lên đường, đi bộ từ Hội An vào Nha Trang. Đoạn
đường dài khoảng từ bốn đến năm trăm cây số th́ phải. Các chú gom tiền mua
thức ăn đầy đủ lắm. Tất cả mười hai chú, hai chú đă lên tàu lớn trước khi
cộng sản vào Đà Nẵng, c̣n lại mười chú. Nhưng tôi ở lại không về nên Sáng
cũng ở lại theo. Vậy đoàn lữ hành về Nha Trang chỉ c̣n tám chú, chia làm hai
nhóm, theo sự hướng dẫn của dân địa phương, đi đường tắt ra quốc lộ số 1 rồi
nhắm hướng nam mà đi thẳng. Tôi và Sáng chỉ viết thư về thăm thầy và gia
đ́nh.
Nửa tháng sau, tôi nhận được thư của thầy tôi, của thầy Thông Chánh và cả
thư của gia đ́nh tôi gởi ra, cho biết các chú đi bộ vào Nha Trang đă đến nơi
b́nh an. Các chú vừa đi bộ vừa xin quá giang xe, phải hơn tuần lễ mới vượt
hết đoạn đường dài trên bốn trăm cây số. C̣n thầy Phước Châu cũng đă về tới
Nha Trang sau khi tấp vào Sài G̣n. Hai chú Dương và Lăm lên tàu lớn vào được
Sài G̣n, rồi đi ngược ra Nha Trang để rồi lại chịu thêm một màn hỗn loạn tại
thành phố này.
Bây giờ chỉ c̣n Sài G̣n và vài tỉnh phụ cận thủ đô là chưa bị chiếm. Nhưng
tuần sau, trên đài phát thanh Sài G̣n, chúng tôi nghe bài nói chuyện cuối
cùng của Tổng Thống Thiệu trước khi rời bỏ quê hương. Sau đó, lại nghe lời
hứa hẹn đem tấm thân tàn quyết chiến đấu cùng anh em quân dân đến giọt máu
cuối cùng của tân Tổng thống Trần Văn Hương. Rồi sau đó nữa, lại nghe lời
kêu gọi buông súng đầu hàng vô điều kiện của tân Tổng thống khác: Dương Văn
Minh. Những sự kiện dồn dập kéo đến có vẻ bất thường và bất ngờ, nhưng thực
ra, người ta cũng đoán trước được phần nào là nó phải như thế, và rồi nó sẽ
dẫn đến kết quả ra sao. Không có quân địch với sức tiến công thần tốc vũ băo
đánh đâu thắng đó khiến cho hàng ngũ quốc gia bại trận... Chỉ có sự hoảng
loạn, rút chạy, đầu hàng trước của một chính phủ ươn hèn, khiến cho đất nước
rơi tọt vào tay người cộng sản một cách dễ dàng. Một số đơn vị quân đội Cộng
ḥa bị quân cộng sản bao vây, đă anh dũng chiến đấu đến người cuối cùng.
Trong thế cùng, dĩ nhiên họ chết không phải để bảo vệ chính quyền quốc gia;
cũng không hy vọng là chết để bảo vệ được đồng bào miền Nam. Họ chỉ chết cho
danh dự và trách nhiệm chưa tṛn của họ mà thôi. Cái chết của họ rửa được
phần nào cái nhục của một quân đội tháo chạy và đầu hàng từ sự quyết định
ban đầu vô trách nhiệm của các nhà lănh đạo quốc gia.
Đài phát thanh Sài G̣n đổi giọng, không c̣n là tiếng nói của người quốc gia,
mà là tiếng nói của một chính phủ lâm thời do người cộng sản sắp đặt, điều
động. Sài G̣n đă mất. Cuộc chiến Nam-Bắc v́ mâu thuẫn ư thức hệ, tạm thời
coi như đă chấm dứt. Nhưng có người nói, có lẽ từ đây, cuộc chiến của toàn
dân hai miền Nam Bắc đối với chủ nghĩa cộng sản mới bắt đầu.
Thượng tọa giám viện nói sẽ thông báo cho học tăng chúng tôi biết ngày tựu
trường khi t́nh thế ổn định. Vậy mà khi người cộng sản chiếm hết miền Nam,
lập chính phủ mới, Thượng tọa đă không hề nghĩ đến chuyện tái khai giảng
Phật học viện. Các Phật học viện khác cũng như tất cả các trường trung tiểu
học Bồ Đề trực thuộc hệ thống giáo dục của giáo hội trên toàn quốc cũng vậy:
cộng sản vào th́ phải ngưng hoạt động hết. Cơ sở trường Bồ Đề khắp nơi đều
bị biến trở thành trường của nhà nước. Nh́n thực tế trước mắt đó th́ biết là
t́nh thế có ổn định hay chưa.
Các giáo sư ở trường Bồ Đề theo chỉ thị của các cán bộ giáo dục thuộc chính
quyền mới, dẫn học sinh đi mít-tinh cùng các trường khác, hoan hô quân đội
giải phóng và chính phủ lâm thời. Thầy Viêm chủ nhiệm lớp tôi, v́ là sĩ quan
quân đội Cộng ḥa nên khỏi phải đi mít-tinh hoan hô ai, nhưng lại đi học tập
cải tạo. Cũng thế, thư của mẹ tôi từ Nha Trang cho biết ba tôi cũng đi học
tập cải tạo như vậy. Tôi không hiểu nổi mấy chữ “học tập cải tạo” đó
nhưng cũng đoán được phần nào nhờ hai chữ “học tập”. Chắc là ba tôi,
thầy Viêm, và nhiều người khác làm việc cho chế độ cũ, đă được đi tu nghiệp
thêm để có thể phục vụ đất nước qua sự hợp tác làm việc cho nhà nước mới.
Thôi vậy cũng tạm yên tâm, học tập chứ có phải đi tù đầy hay đi xử bắn ǵ
đâu mà lo! Riêng phần tôi cũng như nhiều bạn bè học tăng khác, tự dưng không
c̣n nghĩ đến chuyện cắp sách đi học văn hóa ở ngoài nữa. Điều thật lạ! Chẳng
ai bảo ai, chẳng ai ngăn cản ai, mà cũng chẳng ai khích lệ ai, cùng chấp
nhận chấm dứt việc đến trường, bất kể con đường học vấn dở dang của ḿnh.
Thầy tôi, thầy Thông Chánh, gia đ́nh tôi, ban giám đốc Phật học viện Quảng
Nam, cũng chẳng ai màng đến chuyện tôi có đến trường hay không. Dường như
cộng sản nắm chính quyền rồi th́ chuyện đi học không c̣n cần thiết nữa, hoặc
chỉ cần thiết ngang mức tiểu học thôi, nên ai đă ở bậc trung học rồi th́
khỏi phải bận tâm tới trường nữa. Hầu như cả nước phải lăn xả vào công việc
lao động chân tay và xưng tụng cái vinh quang của lao động bằng những khẩu
hiệu to lớn giăng đầy những nơi công cộng.
Ở Phật học viện Quảng Nam, ban giám đốc chỉ c̣n Thượng tọa giám viện, thầy
giám sự và thầy Như Chấn (từ Sài G̣n mới về); số lượng học tăng c̣n lại
chừng tám người, kể cả tôi và Sáng. Chú Tửu cũng không về lại Huế mà xin ở
lại đây, bái Thượng tọa giám viện làm thầy y-chỉ. Ngoài ra, c̣n có hai chú
tiểu nhỏ mới tu được vài tháng trước khi cộng sản vào. Sáng và hai chú tiểu
nhỏ đó được cắt làm những việc nhẹ trong chùa (bây giờ không gọi là viện nữa,
v́ viện đă giải tán). C̣n lại bao nhiêu người trong chùa đều kéo nhau đi làm
ruộng, làm vườn mỗi ngày. Chúng tôi làm việc từ sáng đến tối. Công việc
ruộng vườn đ̣i hỏi nhiều th́ giờ. Tôi chẳng c̣n rảnh để đọc sách hay cầm tới
cây bút để nguệch ngoạc bậy bạ chút thơ văn ǵ nữa. Nhưng có thể nói, giai
đoạn làm việc cực nhọc đêm ngày ấy là giai đoạn nỗ lực nhất từ trước đến nay
của tôi trong việc tu tập. Từng nhát cuốc đưa xuống, từng bước chân gánh
nước, từng phút từng giây, từng cử động nhỏ, từng ư niệm khởi lên, tôi đều
quán sát tường tận với một tâm tư tỉnh thức. Chưa bao giờ tôi thấy tâm ḿnh
tĩnh lặng, trong vắt như vậy. Và cái tâm trong vắt như pha lê ấy ảnh hiện vẻ
cao rộng thênh thang của một vùng trời biển biêng biếc. Không phải biển trời
Nha Trang. Không phải biển trời Đại Lănh. Không phải biển trời Lăng Cô.
Không phải biển trời Non Nước... Nó, phương trời cao rộng ấy, ở ngay trong
chính tôi một cách lặng lẽ, hiển nhiên như chưa từng sinh diệt, c̣n mất.
a
Hai tháng sau, Sáng bỏ về Nha Trang. Vậy, nhóm Nha Trang c̣n lại duy nhất
ḿnh tôi. Hai tháng sau nữa, chú Phương từ Nha Trang viết thư ra nhờ tôi xin
phép Thượng tọa giám viện cho chú ấy trở lại viện vừa lao động, vừa tu tập
như tôi vậy. Tôi thưa với Thượng tọa, Thượng tọa đồng ư ngay, nhưng dặn tôi
cảnh cáo trước với chú Phương là nơi đây làm việc cực nhọc quanh năm suốt
tháng, ăn uống chẳng hơn ǵ ngày xưa. Nhận được hồi âm của tôi, chú Phương
khăn gói từ Nha Trang trở lại Hội An, tham gia vào đội quân “nhất nhựt
bất tác, nhất nhựt bất thực” (ngày nào không làm việc, ngày đó không ăn
– chủ trương của thiền sư Bách Trượng ở Trung Hoa).
Theo lời chú Phương kể, tôi biết viện Hải Đức gần hai trăm học tăng nay chỉ
c̣n khoảng trên hai chục vị. Các chú Dũng, Kính, Thông, Thỏa, Xuân và tất cả
những chú tiểu trước đây ở Hải Đức, đều đă hoàn tục. Chưa hết, viện Linh Sơn
trăm chú tiểu nay chỉ c̣n một phần ba. Và mười hai chú Nha Trang đi Hội An
học trước đây, cũng chỉ c̣n bốn người: chú Ḥa, chú Quỳnh, chú Phương và tôi.
Tám chú kia đều đă hoàn tục. Chú Thiệt làm cán bộ phường khóm ǵ đó tại Phú
Yên. Chú Sướng lấy vợ, làm nông. Chú Tánh làm cán bộ ban y tế xă. Chú Khôi
và chú Cửu đi buôn. Thành “mười ổ” lang thang đâu không biết. Hưng và Dương
thuộc gia đ́nh liệt sĩ, hoàn tục được nhà nước nuôi ăn học. Và chú Sáng, ông
Phật con học giỏi, hạnh kiểm tốt, thường lim dim niệm Phật trước đám đông,
hoặc khi có người chọc ghẹo, lại đi làm một anh công an huyện.
Tôi nghe tin chú Phương kể lại mà bàng hoàng. Thật là điều không thể tưởng.
Tôi buồn bă bước đi lang thang một ḿnh trong nghĩa địa. Ở giữa nghĩa địa có
con đường trải sỏi rộng năm thước, dài gần cây số, dẫn đến khu dân cư gần
trường học Trần Quư Cáp. Trước đây, khi Phật học viện c̣n sinh hoạt, học
tăng chúng tôi thường dạo chơi trên con đường này trong giờ phóng tham. Giờ
này một ḿnh rảo bước trên con đường ấy, tôi ngậm ngùi nhớ đến những khuôn
mặt thơ ngây trong sáng của từng chú tiểu, từng người bạn. Tôi nhớ cả hành
vi nghịch ngợm, phá phách của các chú. Tôi nhớ thành tích mười ổ của chú
Thành nơi quán bánh ḿ bà Viết và “t́nh sử” chú Sâm nơi quán bánh ḿ
bà Đạo. Nhớ chúng A Nan lăng xăng bắt rắn cạp nong. Nhớ chú Đồng chui xuống
giường để nhường chỗ cho tôi trong giờ niệm Phật. Nhớ chú Quân là chú tiểu
duy nhất chịu đứng ra làm “cảnh sát giao thông,” thổi tu-huưt đưa học
tăng qua đường mỗi ngày đi học. Nhớ chúng Ca Diếp với nồi chè lén lút nửa
đêm để lấp những cái bụng đói. Nhớ các chú Khôi, Ḥa, Sâm, Hưng quấn mền lên
chánh điện tụng kinh vào thời công phu khuya v́ trời quá lạnh. Nhớ chú Cửu
treo vơng tuốt trên ngọn cây ô-ma để ngủ trưa cho mát và khỏi bị ai quấy rầy.
Nhớ chú Sáng bị dính vạt áo dài vào dây sên, lom khom như con khỉ kẹt đuôi...
Rồi từ h́nh ảnh chú Sáng, tôi lại nhớ về
Phật học viện Hải Đức Nha Trang với chú Dũng ṛm
có cánh tay và bàn tay dài như vượn, ngồi đâu ngủ gục đó. Nhớ chú Sung vừa
chạy vừa khóc trên đường về nhà. Nhớ chú Minh vào chùa một ngày là nhớ nhà
đ̣i về. Nhớ chú Kính có cái chỏm bờm xờm như ổ quạ, nói tiếng Huế trọ trẹ mà
nhanh như gió.
Tất cả những h́nh ảnh, những con người trên, bây giờ đă nhạt nḥa đi rồi. Họ
đă bị cơn băo lửa thiêu sạch. Phải, chỉ có một cơn băo lửa cực kỳ kinh khiếp
mới đủ khả năng thiêu rụi và làm thay đổi bao nhiêu tâm hồn dễ thương của
cuộc sống. Chưa đầy một năm rời viện, các chú đă trở thành người lớn để chọn
lối đi cho ḿnh. Tôi không biết cơn băo ấy sẽ ảnh hưởng ǵ đến cuộc đời tôi
ngày mai. Nhưng tôi muốn nói với các chú ấy rằng: người lớn thường chọn lầm
lư tưởng; c̣n tuổi thơ, giống như những cánh chim non, không bao giờ chọn
lầm ṿm trời mênh mang xanh biếc của ḿnh cả.
Ṿm trời ấy, luôn hiện hữu trong từng giây phút quay đầu nh́n lại. Khi người
ta đă chọn nó, người ta không thể nào quên nó được, và khi người ta đă nh́n
thấy nó, không bao giờ người ta có thể đánh mất nó được nữa.