CHƯƠNG NĂM
Thầy tôi là một vị
tăng cao đức, có uy tín tại Nha Trang cũng như đối với giáo hội. Thầy sinh
trưởng tại quận Diên Khánh. Xuất gia lúc bé thơ ở chùa Khánh Long, cũng ở
Diên Khánh, một quận lỵ cách Nha Trang chín, mười cây số về phía nam. Thuở
c̣n thanh niên, thầy ra Huế học tại Phật học đường Báo Quốc, rồi vào Sài G̣n,
học tại Phật học đường Nam Việt. Sau khi tốt nghiệp đại học Phật giáo, thầy
trở về nguyên quán đảm trách công việc do giáo hội giao phó tại Phật học
viện Hải Đức này. Một phần do tính khí, một phần do ảnh hưởng tập quán địa
phương, thầy trở nên một vị tăng có đời sống đơn giản, hồn hậu và b́nh dị.
Tuy vậy, đối với vấn đề giới luật, thầy tuân thủ nghiêm minh nên đă có thời
thầy là vị thầy nghiêm khắc, cương nghị, phạt đ̣n thẳng tay, làm cho học
tăng trong viện phải sợ thầy một phép. Bây giờ, công việc càng lúc càng
nhiêu khê khiến thầy bận bịu, không c̣n th́ giờ để đi sát với sinh hoạt kỷ
luật của học tăng nữa. Chuyện ǵ quá đáng đến tai thầy, thầy mới đem ra phân
xử, c̣n ngoài ra đều do ban giám thị của Phật học viện giải quyết.
Quần chúng ngưỡng mộ
quy kính thầy mỗi lúc một đông, nhưng đệ tử xuất gia của thầy th́ hiếm lắm,
v́ thầy không có ư thu nhận nhiều. Trong một cuốn sổ ghi danh các đệ tử quy
y và thọ pháp thầy, tôi thấy giới xuất gia chỉ có sáu người. Theo thứ tự
thời gian th́ đầu tiên là chú Hiền (dân Nha Trang), rồi đến chú Phượng, chú
Quyết, chú Hải, chú Sung (dân Diên Khánh) và cuối cùng là tôi. Chú Hiền pháp
danh Tâm Hạnh, học ở Phật viện Liễu Quan Phan Rang. Chú Phượng pháp danh Tâm
Chơn và chú Quyết pháp danh Tâm Chí, đang tu học ở chùa Diên Thọ (cũng do
thầy tôi chủ tŕ, tại Diên Khánh). Chú Hải, pháp danh Tâm Hương, học tại
Phật học viện Bảo Tịnh, Phú Yên. Các chú ấy đă lớn và đă thọ giới Sa-di (giữ
mười giới cấm), cạo chỏm đi rồi. Chú Sung, pháp danh Tâm Dung, và tôi, th́
vẫn chưa thọ năm giới. Nhưng chú Sung đă có cái chỏm trên đầu, lại mặc đồ tu
nữa, nên đă ra vẻ “người xuất gia” lắm, c̣n tôi, vẫn chỉ là một đứa trẻ thế
tục trên h́nh thức.
Thầy không cho mặc đồ
đẹp, tôi đành mặc lại mấy bộ đồ tây, chờ đợi mẹ may đồ khác. Hai hôm sau mẹ
tôi mới mang hai bộ áo quần tu mới cho tôi. Mẹ phải nhờ sư cô Yến mua giúp
cho loại vải nào đừng sang trọng quá nhưng cũng đừng quá tệ mà tội nghiệp
tôi. Màu vải lam hơi sẫm trông cũng đẹp lắm. Mẹ tôi đem tŕnh thầy xem
trước. Thầy nói được. Vậy là tôi mặc vào. Lần này th́ chắc chắn là không bị
lột áo nữa rồi. Bộ đồ tu thực ra từ tiền vải đến tiền công so với bộ đồ tây
của người đời th́ hăy c̣n quá rẻ, có đáng giá ǵ. Nhưng giá trị của nó không
nằm nơi sự chiết tính bằng con số và thị hiếu của thế gian. Tôi sung sướng
mặc bộ đồ vạt ḥ mới và cảm thấy rằng ḿnh đă thực sự tham gia vào thế giới
những người xuất gia này. Cảm giác của tôi lúc đó thật lạ: giống như một
người công chức hay một anh lính quèn mới được lên chức. Nhưng trên thực tế,
các thầy ở Phật học viện vẫn gọi đùa tôi là “ông cư sĩ”, tức vẫn c̣n
là một người thế tục (có tâm tu), v́ tôi hăy c̣n tóc trên đầu. Ban đầu tôi
chưa hiểu chữ cư sĩ có nghĩa là ǵ, nên chỉ cười cười. Sau đó, biết
được rồi, tôi hơi buồn và thấy trong ḷng nôn nao muốn được trở thành chú
tiểu như chú Dũng, chú Sung–tức là phải cạo tóc chửa chỏm–để không c̣n lạc
lơng giữa hàng trăm người đầu tṛn áo vuông nơi đây nữa.
Dù sao, trong thời
gian làm thị giả cho thầy, tôi cũng được nhiều thầy trẻ cũng như các chú
tiểu thương mến và thích lắm. Nguyên do là như vầy: thầy tôi không dùng được
bất kỳ loại thức ăn, thức uống nào có chất hóa học, tức những sản phẩm kỹ
nghệ. Thầy tôi cũng không hút thuốc, không uống trà, cà phê; không dùng thức
ăn có dầu, bơ hoặc nêm bằng bột ngọt hay đường cát. Tóm lại là mọi thứ thầy
dùng đều là sản phẩm kiểu cây nhà lá vườn từ nhà quê đem lên. Cho
nên, bao nhiêu vật dụng, thực phẩm mà phật-tử đem dâng cúng riêng cho thầy,
thầy đều chất đống lên chiếc giường gỗ, bảo tôi đem phân phát cho các thầy
các chú nào cần. Có khi tôi phải nhờ một chú khác cùng vào pḥng thầy khiêng
cả một thúng đồ ra ngoài. Phật tử cúng dường thầy th́ thường cúng “sỉ” chứ
không cúng lẻ tẻ. Chẳng hạn cúng sữa hộp th́ cúng nguyên thùng. Cúng thuốc
hút th́ cúng nguyên cây (h́nh như ông phật-từ nào đó nghĩ rằng ḿnh thích
cái ǵ th́ cúng thầy cái đó nên mới đem món này lên dâng). Trái cây, đường,
cà phê, trà… đủ thứ, đủ loại, không thứ nào thầy tôi đụng đến. Tôi mang tất
cả đem chia. Các thầy trẻ th́ thích cà phê, thuốc lá; các chú tiểu th́ thích
ḿ gói và sữa hộp. Họ thích tôi v́ tôi không bao giờ mang đồ của thầy xuống
mà dùng một ḿnh. Tôi đă học được điều đó từ ngày thầy chia giỏ đồ của tôi
cho tất cả các chú tiểu trong chùa. Tôi biết niềm vui sẽ to lớn khi nào cơi
ḷng và đôi tay được mở rộng chứ không phải là lúc chúng khép lại.
Phật học viện Hải Đức
là một Phật học viện có nguồn tài trợ rất lớn và chính yếu từ xưởng nước
tương của giáo hội tỉnh, cũng như sự hỗ trợ tận t́nh của rất đông phật-tử
Nha Trang, nên vấn đề thực phẩm, thuốc men và vật dụng rất đầy đủ, không sợ
thiếu thốn. Một số học tăng cũng như các chú tiểu nhỏ (trừ những vị ở tỉnh
xa đến) lại thường có gia đ́nh tiếp tế thêm tiền bạc hoặc món này món nọ để
có sức mà tu học. Chính v́ vậy mà chuyện ăn uống lặt vặt ngoài ba bữa cơm
của viện không phải là chuyện thúc bách, hăm hở ǵ. Có điều, đó là dịp để
chung vui. Chúng tôi là những đứa bé trai xa gia đ́nh, rất cần những phút
vui với nhau. Mà có cái vui nào cho trẻ em bằng cái vui được ăn uống đâu!
Vui nhất là uống sữa
đá với nhau vào giấc trưa trời nắng gắt. Sau bữa cơm trưa là giờ chỉ tịnh
(tức giờ ngủ), quư thầy ai vào pḥng nấy, đóng cửa nghỉ trưa. Bọn tiểu chúng
tôi rủ nhau uống sữa đá. Một chú xuống xóm mua đá lạnh. Đá đập nhỏ bỏ vào
thau lớn. Sữa hộp hai ba lon khui ra trút hết vào thau, không pha nước sôi
hay nước lạnh ǵ. Sữa đặc quánh trong thau phải quậy một lúc lâu mới có thể
lấy vá múc vào chén mà uống được. Ngọt lịm! Sau có chú bày vắt chanh vào sữa
thành món sữa đá chanh, càng ngon tuyệt. Cứ hai ba bữa chúng tôi lại rủ nhau
“làm” một thau như vậy. Mà muốn có những tiệc vui nhỏ đó, ắt là phải tùy
thuộc vào tôi. Tôi cũng mang sữa, đường, cà phê, và trà cho quư thầy trẻ cần
thức khuya để học nữa. Tối tối mà thấy tôi xách một giỏ mon men lên các dăy
pḥng tăng là các thầy biết ngay có tiếp tế. Thỉnh thoảng mới có một cây
thuốc lá Mỹ, tôi phải thật thận trọng để đem dúi cho các thầy ghiền thuốc,
mỗi thầy một gói. Viện có lệnh cấm hút thuốc hay không th́ tôi không biết.
Chỉ thấy các thầy lấy thuốc mà có vẻ lén lén lút lút rất tội nghiệp. Thực ra
khi đưa cây thuốc lá cho tôi, thầy tôi cũng đă có dặn là đem cho mấy thầy
tên này tên kia. Điều đó chứng tỏ thầy biết có người hút thuốc chứ chẳng
phải không. Nhưng cái bệnh ghiền thuốc là cái bệnh vừa khó thương mà cũng
vừa tội nghiệp. Nó có hai mặt của nó. Kỷ luật cũng vậy, có khi phải xiết mà
có khi cũng phải nới ra một chút. Thầy nói: “Thầy đó hút thuốc dữ lắm, hứa
bỏ hoài mà bỏ không được. Đưa gói thuốc này nói ổng hút xong rồi cai luôn đi
nghen!”
Tôi mang thuốc đi mà
nghe như trong giọng thầy có cái vẻ trách yêu độ lượng của một người cha
hiền đối với đứa con hoang đàng nghịch ngợm.
Đó là chuyện chia sẻ
và chung vui. Nhưng ít ra cũng có lúc và có chút riêng tư nào đó dành cho
ḿnh. Nếu không có sự chung vui th́ sẽ không bao giờ có được cái vui riêng
một cách hể hả sung sướng. Vào hôm mà giỏ đồ mẹ tôi đem lên cho tôi bị chia
hết cho các chú tiểu chung vui, mẹ tôi đă xuống nhà bếp dặn ḍ rồi
dúi ǵ đó vào tay d́ Lệ, một trong những d́ vải thường trực tại nhà bếp của
viện. (Khu nhà bếp của viện lớn lắm. Các d́ vải lúc đó có khoảng bốn, năm
d́, mỗi d́ lo mỗi việc, vậy mà cũng phải cần nhiều phật-tử đến giúp làm công
quả thêm hàng ngày mới đủ sức và kịp th́ giờ để lo nấu nướng cho hơn hai
trăm miệng ăn của viện). Mẹ tôi chỉ nói chuyện riêng với d́ Lệ. Ngày hôm
sau, tôi xuống bưng cơm dọn cho thầy th́ d́ Lệ kêu tôi ra sau hiên bếp, đưa
tôi một bịch chè và một trái chuối già hương. D́ nói:
“Của mẹ chú gởi tôi
mua đó. Ăn đi nghen. Mẹ nói chú ốm xanh quá, phải ăn thêm thứ này thứ nọ mỗi
ngày cho có chất bổ.”
Tôi cầm bịch chè mà
thầm cảm nhận t́nh thương của mẹ gói ghém gởi đến. Từ ngày tôi vào chùa, mẹ
tôi đă không ôm hôn và biểu lộ t́nh cảm mẹ con đối với tôi như thuở trước
nữa. Bà chỉ c̣n cách gởi đến tôi những món ăn, thức uống nho nhỏ như vầy.
Ngày nào cũng vậy, d́ Lệ dặn tôi là cứ vào giớ quư thầy ngủ trưa th́ xuống
bếp để d́ đưa chè và chuối mẹ gởi. Có khi mẹ vắng nhiều ngày không lên chùa,
những ngày ấy, tôi vẫn cảm nhận được bàn tay chăm sóc của mẹ qua cái bịch
chè nhỏ đó. Tôi t́m một chỗ vắng–cả cái viện to lớn rộng răi như vầy thi
thiếu ǵ chỗ vắng–ngồi xuống hăm hở soạn cái bịch nhỏ mà tôi biết trước là
có bịch chè và trái chuối già hương trong đó, chỉ khác là lúc th́ chè khoai,
lúc th́ chè đậu mà thôi. Tôi không ăn vội. Tôi đâu có đói thiếu ǵ. Tôi ngồi
một lúc để nhớ đến mẹ, rồi dốc ngược cái bịch chè xuống, bóp bóp một chút
cho nước dừa được trộn đều; sau đó mới cắn một phát rồi rứt một góc đít của
bịch ni-lông ra. Mút. Ôi, chè sao mà ngon mà ngọt đến thế!
a
Buổi sáng hôm đó, nhằm
ngày mười bốn tháng năm, tức là lúc tôi vào chùa chỉ mới được mười bốn ngày,
thầy gọi tôi ra hiên pḥng thầy và cạo tóc chừa chỏm cho tôi. Tôi sung sướng
vô cùng. Từ nay th́ không ai chối căi được rằng tôi đă thành một chú tiểu
thực sự. Cái chỏm của tôi kéo dài từ giữa đỉnh đầu đến chân mày. Thầy tôi
không cho để dài hơn. Thầy dặn hễ thấy dài hơn lông mày là phải cắt, tỉa bớt
chứ để dài th́ trông giống các tiểu ni lắm. Đầu mới cạo tóc trông xanh như
có nhuộm mực. Bấy giờ tôi mới nghĩ rằng chữ đầu xanh phải áp dụng
cho mấy chú tiểu mới cạo tóc chứ không thể dành cho những người có tóc đen
thui được. Tôi hân hoan xuống bếp để khoe với d́ Lệ, nhờ d́ nhắn với mẹ tôi
là tôi đă trở thành chú tiểu. D́ Lệ và các d́ vải khác dưới bếp, ai cũng vui
và khen tôi có cái chỏm rất đẹp. Mấy thầy trẻ đi ngang cũng cười vui, xoa
đầu tôi. Chưa bao giờ, kể từ ngày vào chùa, tôi thấy ḿnh vui mừng đến độ
không kiểm soát được xúc cảm của ḿnh như vậy. D́ Lệ chưa có dịp thông báo
cho mẹ tôi th́ ngay trưa đó, mẹ tôi đă có mặt. Mẹ tôi chỉ thấy nhớ tôi, muốn
thăm tôi mà lên viện chứ chẳng biết ǵ. Thấy tôi cạo tóc rồi, mẹ cũng sung
sướng, kêu tôi ra trước sân chánh điện, chụp nguyên một cuộn phim để lưu
niệm.
Ngày đầu được cạo tóc,
tôi tưởng như vậy đă là thành tựu lớn cho ư nguyện xuất gia của ḿnh rồi.
Nhưng buổi tối, trước khi ngủ, thầy tôi dạy rằng, tôi chỉ mới bắt đầu bước
thứ nhất cho hành tŕnh vạn dặm tiến đến mục tiêu tối hậu của người xuất gia.
Không kiên cường dơng mănh th́ không sao đi trọn được con đường chông gai đó.
Dù nghe thầy nói trước sự gian nan khổ nhọc của người xuất gia như vậy, tôi
vẫn thấy tự tin trong ḷng. Tôi cứ đưa tay sờ lên cái đầu láng bóng của ḿnh.
Thấy ngồ ngộ mà thích thú làm sao. Từ nay tôi đă biến dạng rồi, đă thành một
con người khác rồi. Tôi mỉm cười nằm xuống ngủ. Trước khi vào giấc ngủ, tôi
nghĩ, có lẽ cuối con đường vạn dặm mà thầy nói đó, là phương trời cao rộng
mà tôi hằng mơ ước.
a
Hôm nay lại có một chú
mới vào xin xuất gia nữa. Chú ấy tên là Sáng cũng quê ở Diên Khánh. Ba chú
Sáng là một thầy tu hoàn tục. Có lẽ do ảnh hưởng của cha mà chú ấy đ̣i đi tu
sớm (chú ấy nhỏ hơn tôi hai tuổi). Chú Sáng có khuôn mặt lanh lợi, khôi ngô
với đôi mắt to và sáng. Phải cái là da chú quá đen mà lại mốc sần nên cũng
giảm bớt đi phần nào nét dễ thương của chú. Ba chú Sáng có quen biết với
thầy tôi từ trước nên chuyện xin thầy cho chú xuất gia cũng đơn giản. Chú
chẳng bị thử thách ǵ như tôi. Nhưng v́ gia đ́nh chú có tổ chức tụng kinh
hằng ngày như ở chùa, nên chú cũng thuộc khá nhiều những bài kinh sám ngắn.
Sáng thông minh, học thuộc ḷng rất giỏi nên chỉ thời gian ngắn là vượt qua
các chú Dũng, Sung và Kính. Ba chú Sáng cũng chuẩn bị cho chú đầy đủ nên vào
chùa chừng một ngày sau là chú đă có áo quần tu để mặc rồi. Vải may cũng là
loại trung b́nh, không sang mà cũng chẳng tệ lắm, nên chú cũng không bị thầy
tôi bắt đem cho hay đổi với ai. Vậy là kể từ hôm nay, tôi không c̣n là đệ tử
út của thầy nữa. Tôi đă được lên chức sư huynh rồi đó.
Chú Sáng cũng không có
chỗ ngủ nên tối nào cũng cùng với chú Kính giăng mùng tại Tổ đường mà ngủ.
Tôi vẫn ngủ trong pḥng thầy, nhưng lúc này tôi không ngủ trên ghế xếp nữa
v́ thấy mất công, lại thêm phiền là mỗi lúc cựa quậy th́ chiếc ghế lại kêu
lên cót két vài tiếng, có thể làm mất giấc ngủ của thầy. Tôi thưa thầy là
tôi ngủ ở khoảng trống ở giữa bàn viết và tủ thờ Phật trong pḥng thầy (tức
là chỗ ngủ của tôi và thầy cách nhau một cái tủ đứng lớn). Thầy đồng ư. Từ
đó, mỗi tối tôi lau quét rồi ngủ dưới nền xi-măng cho mát và thoải mái.
Chú Sáng siêng năng
học kinh luật, suốt ngày ngồi một chỗ mà học, chẳng biết đi chơi đâu. Khi
nào buồn ngủ, chú ngồi xếp bằng trên ghế hoặc ngồi dựa vách mà ngủ. Đôi lúc
chú ngồi nhắm mắt lim dim như một ông Phật con. Dũng, Kính và Sung có chọc
ghẹo hay đụng tới th́ Sáng chắp tay nói “mô Phật” khiến ba chú kia
càng ghét thêm, cho rằng Sáng đạo đức giả. Buổi tối, Sáng ngủ ở Tổ đường cứ
bị chú Kính chọc ghẹo, nào là thắt giây móc vào ngón chân cái rồi đem cột
vào chân bàn chân ghế, nào là chờ Sáng ngủ say rồi hè nhau khiêng đi chỗ
khác–có khi c̣n muốn tụt quần chú Sáng để đem giấu nữa. Nhưng Sáng đúng là
chú tiểu hiền lành dễ thương, bị chọc hoài mà không đem ḷng hờn oán ai,
cũng không đem chuyện đó lên thưa thầy hoặc mét thầy quản chúng.
Vài hôm sau, thầy gọi
Sáng vào pḥng, bảo Sáng cùng tôi lau quét dưới đất mà ngủ. Công việc hầu hạ
thầy từ đó có thêm Sáng phụ giúp nên tôi cũng vui và đỡ bận.
Mỗi tối trước giờ niệm
Phật, hai đứa chúng tôi được thầy dạy cho pháp Tỳ ni. Phương pháp này, trích
từ kinh Hoa Nghiêm, là một trong những pháp tu mà Thiện Tài đồng tử
học được trên đường tham vấn năm mươi ba vị Phật và Bồ tát. Phương pháp rất
đơn giản mà lúc đó chúng tôi chỉ học cách thực hành chứ không cần t́m hiểu
nghĩa lư. Phương pháp này cũng được trích dẫn một số câu thông dụng để tạo
thành cuốn Tỳ Ni Nhật Dụng, một trong bốn cuốn luật mà tôi đang học
phần âm Hán–Việt. Bây giờ, thầy dạy chúng tôi áp dụng bằng cách học phần
nghĩa. Phương pháp rất dễ áp dụng. Chỉ cần học thuộc ḷng một số bài thơ kệ
(thường có kèm theo một câu thần chú) để đọc trong những sinh hoạt hằng
ngày. Chẳng hạn khi rửa tay th́ đọc:
“Lấy nước rửa tay,
Cầu cho chúng sanh,
Được tay trong
sạch,
Giữ ǵn Phật pháp.
Án, phạ tất ba ra
ma ni sa ha.”
Phương pháp này phù
hợp với Chánh niệm trong Bát Chánh Đạo. Đó là cách để tập cho
ḿnh ư thức được ḿnh đang làm ǵ, giữ cho tâm hồn luôn chú mục vào giây
phút hiện tại để từ đó định lực phát sinh, định lực phát sinh th́ trí tuệ
mới tỏa chiếu. Thầy giảng cho chúng tôi nghe sơ qua như vậy. Mấy ngày đầu
chúng tôi chưa quen, thầy cố t́nh đọc lớn tiếng để nhắc chúng tôi đọc theo.
Thầy tṛ chúng tôi thường đọc chung các bài kệ chú áp dụng trong khoảng thời
gian trước khi ngồi niệm Phật hay tham thiền tại chỗ nằm ngủ và nhất là
khoảng ba giờ rưỡi khuya, lúc mới nghe tiếng báo chúng và đại hồng chung
ngân vang để đánh thức cả viện thức dậy. Giấc khuya này có nhiều câu kệ để
đọc lắm. Trước nhất là bài Tảo ngộ (thức dậy buổi sớm), thầy đọc
trước câu đầu, chúng tôi giật ḿnh, dụi mắt, cùng đọc theo các câu kế:
“Ngủ mới thức dậy,
Cầu cho chúng sanh,
Được trí siêu việt,
Thấy khắp mười
phương.”
Rồi đến bài Văn chung
(nghe chuông):
“Nghe tiếng chuông
phiền năo nhẹ
Trí tuệ lớn, bồ đề
sanh
Ĺa địa ngục, xa
hầm lửa
Nguyện thành Phật,
cứu chúng sanh.
Án, dà ra đế da sa
ha.”
Xong bài Văn chung,
ngồi niệm Phật nửa giờ mới bước xuống đất. Nhưng trước khi đặt chân xuống
đất th́ phải đọc bài Hạ đơn (xuống giường) – lúc đọc bài này, tôi
thấy tức cười mà chẳng dám nói ra điều ḿnh suy nghĩ với thầy, nhưng không
ngờ lúc vui, thầy nói: “Hai đứa con nằm ngủ dưới đất th́ đâu có cần phải đọc
bài Xuống giường, phải không? Nhưng kệ, cứ đọc cho quen. Đâu phải nằm
dưới đất hoài!”
Xỏ hai chân vào giép
để bắt đầu cất bước chân thứ nhất có bài Hành bộ bất thương trùng
(bước đi không tổn hại đến sinh vật dưới đất) – bài này tôi thấy tức cười
cho trường hợp chúng tôi, v́ pḥng thầy lúc nào cũng lau sạch, giép đều để ở
phía ngoài, có giép đâu mà xỏ và đọc bài kệ cho bước chân thứ nhất! Bước ra
khỏi nhà hay pḥng lớn có bài Xuất hộ (rời nhà); vào nhà tiêu có bài
Đăng xí; rửa tay có bài Tẩy thủ; rửa mặt có bài Tẩy diện;
súc miệng có bài Thấu khẩu; tắm rửa, thay quần áo, mắc áo tràng v.v…
nhất nhất mọi cử động, mọi hành vi đều có những bài thơ kệ, hoặc thần chú
thích hợp để đọc lên, nguyện cầu cho chúng sanh và cũng để tự lắng tâm ḿnh.
Tôi và Sáng tập áp dụng phương pháp này không mấy khó. Có thầy nhắc nhở luôn
như vậy nên chúng tôi ít quên. Ban ngày ra ngoài không ở trong pḥng thầy,
chúng tôi cũng tự nhớ những bài kệ chú khác để áp dụng cho các sinh hoạt
khác. Nhưng ở ngoài, chúng tôi đọc thầm chứ không đọc to như lúc ở trong
pḥng thầy. Mà thầy cũng chỉ đọc lớn tiếng để nhắc nhở chúng tôi trong thời
gian đầu thôi. Đâu được vài tuần lễ, biết chúng tôi đă thuần thục, thầy
không đọc lớn tiếng nữa. Bài học thầy dạy, phương pháp thầy nhắc, đơn giản
chỉ có thế. Nhưng tôi nhớ măi và đem áp dụng lâu dài về sau để trở thành một
trong những công phu tu tập thường xuyên của đời ḿnh.
Trong tháng đó, viện
có tăng thêm nhân số vế phía bọn tiểu chúng tôi. Một chú tên Sướng, một chú
tên Minh và một chú tên Thông. Sướng th́ ở Cam Ranh ra, Minh th́ ở xóm Bóng
vào, Thông th́ ở Diên Khánh lên. Chú Sướng và Thông th́ xin làm đệ tử thầy
quản chúng. Minh th́ xin làm đệ tử thầy tôi. Vậy là tôi lại có thêm một sư
đệ. Chú Minh này là chú nhỏ nhất trong đám tiểu chúng tôi. Không những nhỏ
tuổi mà c̣n nhỏ xác nữa. Bé tí xíu mà lại ốm tong teo như con nai con mới
lọt ḷng mẹ. Ví chú ấy như con nai con là chính xác nhất ví chú c̣n có đôi
mắt to, đen láy, hiền như mắt nai vậy. H́nh như nhà chú ấy khá giả, may cho
chú đồ sang lắm, may luôn một lúc bốn, năm bộ với loại vải đắt tiền. Chẳng
hiểu sao thầy tôi không la rầy, cấm đoán chi chuyện đó. Đôi khi tôi tự hỏi
không biết có phải thầy chỉ đặc biệt cấm đoán ḿnh tôi thôi? Phải chăng đối
với một đứa đệ tử nhạy cảm và dễ say đắm, thầy sẽ ngăn ngừa nó từ những bước
đầu?
Chiều, người thân của
các chú mới xuất gia ra về. Chẳng thấy chú nào bịn rịn quyến luyến ǵ. Buổi
tối, tất cả các chú tiểu phải tập trung tại Tổ đường để học và ôn lại kinh
trước khi đi trả kinh (ḍ kinh) nơi pḥng thầy quản chúng. Mạnh ai nấy đọc
lớn bài học của ḿnh. Người th́ học kinh, kẻ th́ học luật, làm rộn cả Tổ
đường. Nhưng chúng tôi đang đọc lớn như vậy bỗng nghe chen vào tiếng khóc
rất thảm. Cả bọn chúng tôi kẻ trước người sau, từ từ ngưng đọc kinh, hướng
về chỗ phát ra tiếng khóc. Tiếng đọc kinh nhỏ dần nhỏ dần rồi im, trong khi
tiếng khóc càng lúc càng lớn, nghe thống thiết lắm. Té ra người khóc là chú
Minh, con nai con của chúng điệu. Thấy bên ngoài im tiếng đọc kinh mà lại
có tiếng khóc rất lớn, thầy tôi từ trong pḥng bước ra, hỏi:
“ Cái ǵ vậy? Đứa nào
đánh?”
Chú Kính nhanh miệng
đáp liền:
“ Dạ con không có đánh
nó.”
“Vậy th́ ai?” thầy hỏi
tiếp rồi hướng về chú Minh, “ai đánh con mà khóc dữ vậy? Chú nào ăn hiếp th́
thưa với thầy.”
Minh không trả lời
thầy mà càng khóc to hơn. Thầy vừa tức cười vừa bực ḿnh, quay qua hỏi tôi:
“Ai làm ǵ chú ấy
vậy?”
Thực t́nh tôi cũng
không biết nguyên do nào nên chỉ đáp:
“Bạch thầy con không
biết. H́nh như chú ấy tự khóc chứ chẳng ai đánh đập ǵ.”
Vậy là thầy đoán được
nguyên do. Thầy hỏi chú Minh:
“Nhớ nhà phải không?”
Câu hỏi của thầy làm
tăng thêm nỗi nhớ của chú, chú khóc rống lên, nghe c̣n thảm thiết hơn. Bảo
chú im không được, thầy đưa địa chỉ, sai chú Đông (người làm công quả cho
chùa) đến nhà chú Minh thông báo cho cha mẹ chú lên viện đón chú về. Chú
Đông lo việc đó thế nào không biết mà đến sáu giờ sáng mới thấy cha mẹ của chú
Minh lên. Suốt đêm đó chú Minh cứ khóc thút thít. Thầy bảo cha mẹ chú Minh
đem chú về. Thầy không nhận chú xuất gia ở viện nữa, dù chú vẫn cứ là đệ tử
của thầy. Tháng sau tôi gặp chú Minh ở Phật học viện Linh Sơn, một Phật học
viện Sơ đẳng nổi tiếng trong nước dành cho các chú tiểu. Được biết, khi thầy
tôi bảo gia đ́nh chú Minh đem chú về không cho tu với thầy nữa, chú đă đ̣i
đi tu trở lại vài ngày sau đó. Gia đ́nh chiều ḷng, bèn đem chú lên Phật học
viện Linh Sơn để tiếp tục ư nguyện xuất gia của chú.
Tôi ở viện được nửa
tháng th́ mọi sinh hoạt trong ngày đă trở thành quen thuộc. Nếp sống thiền
môn với kỷ luật chặt chẽ, với nội quy khe khắt và bao nhiêu là điều cấm kỵ
phải tránh né, không làm tôi khổ sở, lúng túng nữa. Tôi đă có thể ngủ và
thức, học, làm việc và tu, theo thời khóa của viện mà không thấy trở ngại
ǵ. Tôi biết tôi có thể chịu đựng nổi. Có điều là càng lúc tôi càng ốm và
xanh. Chuyện ăn uống th́ nơi đây chẳng thiếu thốn ǵ, nhưng tuổi thơ như tôi
mà ngủ một ngày có năm, sáu giờ đồng hồ th́ phải công nhận là chưa đủ. Các
chú tiểu ngồi đâu gục đó. Tôi và Sáng v́ ở trong pḥng thầy nên khi kẻng
đánh báo thức là cùng dậy. Có thầy một bên đâu dám ngủ nướng. Nhưng các chú
tiểu khác ngủ ngoài Tổ đường hay trong pḥng điệu th́ có khi cũng muốn nằm
ráng được chút nào hay chút nấy, hoặc có khi ngủ mê không biết đă đến giờ
phải thức. Thức dậy sớm cho quen, chứ thực ra bọn tiểu chúng tôi có làm việc
ǵ vào giấc khuya ba giờ rưỡi, bốn giờ đâu. Để cho có chuyện làm mà tránh
buồn ngủ, thầy bảo chúng tôi lấy kinh luật ra học, nói rằng dậy sớm như vậy
học rất mau thuộc. Thầy cũng nói với chúng tôi rằng, bây giờ c̣n nhỏ không
tập dậy sớm, sau này trở thành thầy tăng lười biếng, ham ngủ nghỉ. Mặc dù
thầy khuyên nhắc và đưa ra bao nhiêu lợi ích của sự dậy sớm, chúng tôi cũng
phải thật khổ nhọc để thắng được những cơn buồn ngủ. Nhiều chú gục trên bàn
kinh mà ngủ. Có chú giả đ̣ để kinh trên bàn, xin phép đi đại tiện hay tiểu
tiện. Vậy rồi đi luôn chẳng thấy trở lại. Chắc là kiếm chỗ nào khuất để nằm
lăn ra mà ngủ, hay ngồi đại xuống ở góc tường nào gần cầu tiêu mà ngủ đỡ.
Giờ báo thức, có chú không hay biết ǵ. Thầy tôi hoặc thầy quản chúng phải
thường nhắc nhở, kêu dậy. Thầy tôi có khúc cây ngắn nhỏ, chú nào ngủ mê th́
lấy khúc cây đó gơ vào mắt cá mấy cái. Thầy quản chúng th́ có cái roi mây,
ai ngủ quên là bị thầy quất cho chạy mà tỉnh ngủ luôn. Cho nên tôi thường
lợi dụng lúc đi lấy nước sôi cho thầy, chạy xuống pḥng điệu để đánh thức
các chú trước. Bây giờ có thêm chú Sáng, tôi và chú thay nhau, đứa đi lấy
nước sôi, đứa đi đánh thức các chú dậy để các chú khỏi bị đ̣n tội nghiệp.
Thực ra tôi và Sáng có hơn ǵ các chú kia đâu. Chúng tôi cũng buồn ngủ, thèm
ngủ lắm, nhưng không dám và cũng không có cơ hội nào để ngủ thêm một chút.
Chúng tôi phải dùng đủ mọi phương pháp để vượt qua cơn buồn ngủ. Có nhiều
phương pháp lắm, nào ngắt véo vào đùi, nào búng tai búng mũi, nào đứng dậy
đi vài ṿng hay chạy ra ngoài rửa mặt, nào nhíu mạnh hậu môn vài giây mỗi
lúc… đó là các phương pháp thông dụng mà các chú tiểu bày nhau. C̣n tôi th́
áp dụng phương pháp tự kỷ ám thị mà thầy dạy từ những ngày đầu tiên. Tuy
vậy, có lúc con ma buồn ngủ cũng đă quyến rũ và chinh phục tôi. Những lúc
như vậy, tôi t́m được chỗ ngủ rất an toàn mà các chú tiểu khác không nghĩ
ra. Trước hết, tôi không ngủ vào giấc khuya khi cả bọn tiểu chúng tôi phải
tập trung tại Tổ đường để học kinh, có thầy kiểm soát, mà lựa khoảng thời
gian nào rảnh nhất trong ngày như lúc đi tắm giặt, lúc các thầy đều đi cúng
quá đường trong mùa an cư (cúng dường, thọ trai và tụng kinh, kéo dài
gần hai giờ đồng hồ), hay vào giờ phóng tham. Chẳng qua tôi cũng bắt chước
chú Sung thôi, nhưng cải tiến cách của chú ấy một chút để được an toàn hơn.
Chú Sung thường lên chánh điện, chui xuống bàn thờ Quan Âm mà ngủ. Nhưng
dưới bàn thờ trống trải, ai đi ngang cũng có thể nh́n thấy chú nằm chèo queo
dưới bàn. Ban đầu buồn ngủ quá mà không biết ngủ tạm ở đâu, tôi chợt nhớ đến
chỗ của chú Sung; nhưng khi nh́n lại thấy dưới bàn thờ trống quá dễ bị phát
giác, tôi bèn chui vào tủ thờ Phật Thích Ca. Tủ thờ của viện lớn lắm, hai ba
chú tiểu chui vào cũng được chứ ḿnh tôi th́ thấm ǵ. Cửa tủ thờ nằm ở phía
sau, tức từ tượng Phật nh́n ra mới thấy. Tôi kéo cánh cửa ra thấy bên trong
chia làm hai ngăn: ngăn trên chứa một số hương đèn và một cái khay đựng chén
cơm cúng Phật. Ngăn dưới là chổi quét bàn thờ và vài thứ linh tinh khác. Tôi
chọn ngăn trên, lùa hương đèn về phía trong cho gọn, rồi chui vào, kéo cánh
cửa tủ lại, vậy là có một giấc ngon.
Cũng nhờ ngủ lén ở đây
mà tôi được thầy hương đăng (phụ trách chưng hoa quả và lau quét chánh điện)
chiếu cố. Làm chú tiểu ở viện mà được thầy hương đăng chiếu cố th́
sướng lắm. Có điều, tôi đă không dám hưởng sự chiếu cố đó lâu dài. Trong ba
tháng hè, viện họp và cử một thầy rảnh rỗi (nghĩa là không nắm chức vụ trong
ban lănh đạo và cũng không phải là học tăng của viện) để đảm trách chức
hương đăng. Mùa hè này, thầy hương đăng được chọn là thầy Thiện Ngộ, vị trụ
tŕ của chùa Kỳ Viên, một ngôi chùa nhỏ trên ngọn núi nhỏ ở gần nhà tôi. Mỗi
năm thầy chỉ lên viện ba tháng hè để an cư tu tập theo chúng tăng
tụ tập
đông đảo tại đây. Buổi trưa sắp đến giờ cúng quá đường, thầy có trách nhiệm
lấy một chén cơm trắng để dâng cúng Phật. Chén cơm là một cái tiềm có nắp
đậy, bằng gỗ, sơn mài rất đẹp, đặt trên một cái khay nhỏ cũng sơn mài. Sau
khi cúng xong, khay cơm cúng Phật được thầy rửa rồi đem cất vào tủ thờ này.
Khi thầy mở ra, thấy tôi nằm bên trong th́ giật ḿnh. Nhưng rồi thầy cũng
nhanh ư, hiểu ngay được chuyện ǵ xảy ra. Các thầy đă từng là trụ tŕ th́
thường bén nhạy trước những mánh khóe và sự nghịch ngợm của các chú tiểu
lắm. Tôi thấy cửa tủ mở ra th́ cũng hết hồn, hết vía mà chẳng biết phải làm
sao, đành nằm im giả đ̣ nhắm mắt ngủ để thầy ấy muốn sao th́ muốn. Vậy mà
thầy không bẹo tai xách cổ tôi ra ngoài để la hay đưa tôi ra trước Tổ đường
cho thầy tôi trừng trị. Từ bóng tối trong tủ nh́n ra, tôi thấy thầy cố gắng
nín cười, hai vai thầy rung lên từng hồi, rồi thầy lấy khay cơm cúng ra để
trên bàn, một tay nhè nhẹ kéo cánh cửa lại, ư chừng thầy sợ làm động sẽ phá
giấc ngủ ngon lành của tôi. Nếu thầy tôi hay thầy quản chúng biết được, chắc
sẽ trách thầy hương đăng dung dưỡng những thói hư tật xấu của tôi. Nhưng cử
chỉ tế nhị dễ thương của thầy hương đăng, tôi nhớ suốt đời. Không phải sự dễ
duôi, rộng răi lúc nào cũng đem lại hậu quả xấu. Và không phải ai cũng có
thể nhảy ra ngoài ṿng rào của khuôn thước kỷ luật một cách tài t́nh và tinh
diệu như thầy Thiện Ngộ. Sự phá rào luôn luôn để lại những dấu ấu cho tâm
hồn con người bằng nhiều cách. Có khi là mặc cảm tội lỗi. Có khi là thái độ
tự măn đáng ghét. Cho nên, chỉ có ông trụ tŕ nhà quê, lặng lẽ sống một ḿnh
trên núi cao như thầy hương đăng mới có thể khép nhẹ cánh cửa tủ một cách từ
bi thượng thừa như vậy mà thôi.
Tôi không lạm dụng sự
dễ dăi của thầy hương đăng đề rồi mỗi ngày chui vào tủ thờ mà ngủ. Hơn nữa,
lâu lâu mới có cơ hội ngủ lén chứ không phải ngày nào cũng có. Và lâu lâu
tôi mới bị con ma ngủ xúi bậy. Đâu phải lúc nào tôi cũng bó tay qui hàng.
Sau này, có một lần tôi lại chui vào tủ để ngủ như vậy nữa. Lúc thức dậy,
tôi thấy trên tay tôi có một túi ni-lông hơi nặng. Trên miệng túi có một mẫu
giấy nhỏ ghi mấy chữ “Cho con đó,” ở dưới lại đề hai chữ “Phật Tổ.” Trong túi ni-lông là một trái xoài tượng và trái bơ. Tôi chui ra vái đức
Phật một cái rồi xách túi quà về pḥng, cất vào va-li. Tôi biết là thầy
hương đăng cho tôi. Trái cây trên chánh điện rất nhiều. Phật tử đem cúng
hàng ngày, không đủ chỗ để chưng. Tuy nhiên, sau khi cúng, trái cây đem
xuống đều tập trung tại bếp để dọn cho chúng tăng, không ai được ăn riêng,
ngay cả thầy hương đăng. Khi nào số trái cây không đủ để chia cho đại chúng
hai trăm người th́ thầy hương đăng đem dâng quư ḥa thượng, thượng tọa
lớn tuổi, hoặc phân phát cho các chú tiểu. Cho nên, có được một trái xoài
lớn, một trái bơ lớn cho riêng ḿnh th́ cũng là điều may mắn lắm thay. Trong
ḷng, tôi vừa thích thú mà cũng vừa thấy buồn buồn làm sao. Tôi sợ tôi trở
thành một chú tiểu hư. Tôi đi t́m thầy hương
đăng. Thấy tôi, thầy làm
mặt tỉnh như không, như thể thầy không hề hay biết ǵ chuyện tôi ngủ lén
trong tủ thờ vậy. Nhưng tôi phải đến nói chuyện với thầy. Tôi đứng bên cạnh
thầy trong khi thầy đang cắm hai b́nh hoa mới để cúng Phật. Tôi hỏi:
“Thầy cho con trái cây
phải không thầy? Con cám ơn thầy nha.”
Thầy cười cười, chối:
“Trái cây ǵ? Đâu có.
Thầy không biết à nha.”
“Con biết thầy cho
con. Con cám ơn thầy nhiều lắm.”
Rồi tôi quay đi. Nhưng
tôi cứ thấy buồn buồn trong ḷng sao ấy. Từ đó tôi không ngủ trong tủ thờ
nữa. Tôi cố gắng thắng lướt những cơn buồn ngủ kinh khiếp tấn công từng giờ
từng ngày. Nghe nói trước đây đă có chú tiểu phải bỏ chùa về nhà cũng v́
không chịu nổi chuyện thiếu ngủ. Tôi tự dặn ḷng rằng không thể lùi bước
trước những trở ngại nhỏ xíu như vậy. Không c̣n dịp nào đề thầy hương đăng
thay mặt Phật Tổ dúi cho tôi trái xoài hay trái bơ nữa.