Là người Việt th́ không cần phải
suy nghĩ hay nói ra câu “sống với người Việt.”
Câu ấy có vẻ như là câu nói của
người ngoại quốc. Thế nhưng không phải, mà chính là câu nói của người
Việt sống ở nước ngoài. Nói cụ thể là người Việt sống quần cư ở những
nơi đông đúc người Việt trên một xứ sở không phải là Việt Nam. Cụ thể
hơn nữa, hăy nói về đời sống của người Việt sống ở vùng Little Saigon,
quận Cam, miền Nam California để qua đó, hiểu được tâm trạng và hướng đi
chung của người Việt ngoài nước, hay của cộng đồng người Việt ly hương.
Có thực vậy không? Chẳng hạn nói
về lối sống và cảm nghĩ của ḿnh mà có thể phản ảnh phần nào tâm thức
của cộng đồng? hoặc ngược lại, nói về cộng đồng tức là đă nói phần nào
đó về cá nhân ḿnh? Vậy cái tâm thức cộng đồng (community consciousness)
của người Việt ở đây là ǵ? Khó ai trả lời được một cách thỏa đáng câu
hỏi trên. Bởi v́ cái ǵ cũng tương đối thôi. Trong quan hệ hỗ tương giữa
cá nhân và cộng đồng, vẫn có các giới hạn và biệt lệ. Nhưng trên đại thể
th́ hoặc là cá nhân phải tự tách ḿnh ra khỏi ảnh hưởng của cộng đồng (nếu
v́ lư do nào đó, không muốn bị đồng hóa với căn cước và định hướng của
cộng đồng ấy), hoặc là tự nguyện ḥa nhập vào cộng đồng và cố gắng xây
dựng, phát triển cộng đồng bằng các đóng góp sáng tạo và đặc thù cá nhân,
để cùng với tập thể khẳng định cái căn cước của cộng đồng (community
identity) cũng như tầm nh́n chung và mục tiêu tối hậu của cộng đồng ấy
(collective vision, community goals).
Nhưng cộng đồng là ǵ, ở đâu? Cộng
đồng chỉ là một tên gọi. Cá nhân mới là các thực hữu. Giống như rừng và
cây: rừng chỉ là tên gọi, cây mới là thực hữu, là những cá nhân có thật.[1]
Vậy, một cảnh rừng xum xuê và đẹp là do từng cái cây lớn nhỏ, kết hợp,
đứng bên nhau, cùng sống c̣n và vươn lên. Nói một cách văn chương th́
“nh́n cây nhớ rừng.” Thấy một người Việt Nam bỗng nhớ cả một trời
quê hương. Hoặc nói một cách lạc quan và tự tin th́
“nh́n cây thấy
rừng.”
[2]
Nói chuyện, phỏng vấn một số người Việt điển h́nh chọn lọc nào đó ở
trong và ngoài nước, sẽ hiểu được cái nh́n và hoàn cảnh chung của dân
tộc và đất nước. Nhưng quá đặt nặng đến cây th́ không sao thấy được rừng.
Thành ngữ Anh-Mỹ lại có câu như vậy. Cannot see the forest for the
trees. Chăm chú vào những tiểu tiết sẽ không nắm được đại thể. Tốt
nhất là phải nh́n ra sự hỗ tương liên hệ thật chặt chẽ giữa chi tiết và
tổng quát, giữa cá thể và tập thể, giữa cá nhân và cộng đồng. Rừng tuy
không thực, chỉ là tên gọi, nhưng rơ ràng là với sự kết hợp của hàng
ngh́n hàng vạn loài thảo mộc, đă có những cánh rừng bạt ngàn phong nhiêu
xanh ngát.
Vậy th́, trở lại với câu hỏi “cộng
đồng là ǵ, cộng đồng ở đâu?” chúng ta có thể nói, là chúng tôi, là ở
đây, nơi chúng tôi hội tụ quần cư.
Nhưng tại sao phải là cộng đồng?
Tại sao có những cộng đồng được thành h́nh? Có cần thiết phải có những
cộng đồng hay không? Tại sao người Việt thích sống với người Việt? Tại
sao nhiều người Việt rủ rê nhau kéo về tiểu bang California là nơi bị
cảnh báo là thường có động đất? Tạm gát qua một bên những lư thuyết xây
dựng và phát triển cộng đồng hay tổ chức của các chuyên gia văn hóa,
giáo dục, nhân văn, chính trị, xă hội, kinh tế, thương mại, ngân hàng,
v.v… (như Richard Barrett
[3]
chẳng hạn), mà hăy nói bằng cảm tính, với những ǵ gần gũi, có thể sờ,
ngửi, nếm, thấy, nghe và nghĩ tới được. Vậy, những câu trả lời thông
thường và dễ hiểu nhất là: thích gần chợ Việt, thích thức ăn Việt, thích
nh́n thấy người Việt, thích nghe tiếng Việt. Có thể nói thêm: thích nghe
nhạc Việt, thích đọc báo Việt hàng ngày (chứ không phải hàng tuần hay
hàng tháng như ở các tiểu bang khác); và có thể nói thêm: thích buôn bán,
làm ăn, giao dịch với người Việt (v́ tiếng Anh không giỏi, hoặc giỏi
nhưng lại thấy thoải mái hơn khi sử dụng tiếng Việt với đồng hương của
ḿnh), v.v… Nói cách đơn giản, các sở thích trên là do tác động của t́nh
cảm. Sinh từ đất Việt, hoặc được một người mẹ Việt sinh ra nơi xứ người,
trong máu và trong tâm thức đă sẵn hạt giống Việt. Hạt giống đó không
sớm th́ chầy, cũng nẩy nở triển khai nhân cách Việt, bản sắc Việt. Thế
là, người Việt yêu người Việt, yêu những ǵ thuộc về người Việt, chẳng
ǵ lạ.
- Thích
gần chợ Việt. Đây phải chăng là ư thích của những người
nội trợ, nấu ăn, quen nghề nữ công gia chánh? Không đâu. Là ư thích
chung của cả phái đàn ông nữa. Nhất là những người đàn ông thất nghiệp,
về hưu sớm, những ông ngoại ông nội giữ nhà trông cháu cho con đi làm,
những người đàn ông sành nấu nướng (hoặc siêng nấu nướng v́ tưởng ḿnh
nấu ngon), và những người đàn ông thường xuyên nhậu nhẹt. Vả lại, chợ
Việt đâu phải chỉ bán rau trái, cá thịt và những thứ thuộc nhà bếp! Đây
là những siêu thị có hầu hết những thức ăn tươi, khô, đồ gia dụng, và
tất nhiên là không thiếu trà các loại, cũng như cà-phê bột, cà phê gói,
cà-phê sữa (3 in 1) rất tiện lợi cho những người đàn ông đứng tuổi ghé
mua. Nhưng điều đáng nói ở đây là sự xuất hiện của những siêu thị Việt
Nam, không phải chỉ một mà là nhiều cái, càng lúc càng to lớn, rộng răi,
hầu như không thiếu món ǵ để có những món ăn thuần túy Việt Nam. Thích
gần chợ Việt v́ tiện ích cũng là dấu hiệu cho thấy sự ổn định trong niềm
tin và đời sống của người Việt nơi xứ người. Một cộng đồng phát triển
không thể nào thiếu chợ v́ chợ không những biểu hiện các nhu cầu đời
sống thực tiễn của cộng đồng ấy mà c̣n cho thấy một phần mật độ dân cư
của cộng đồng trong vùng.
- Thích
thức ăn Việt. Cái thích này song hành với thích gần chợ
Việt. Ở Little Saigon có hàng trăm nhà hàng Việt Nam. Thức ăn Bắc, Trung,
Nam, miền nào cũng có. Nhưng các món gọi là thuần túy Việt th́ phải kể
đến phở, bún riêu, bánh xèo, bánh hỏi, bánh ích. C̣n nói là món (hay
hương liệu/đồ gia vị) “quốc hồn, quốc túy” th́ phải kể đến nước mắm và
mắm ruốc, mắm nêm…. Nhiều người dân bản xứ nhắc đến món ăn Việt Nam th́
nói đến phở, chả gị và bánh xèo. Dĩ nhiên những người này phải biết
dùng nước mắm, hương vị đặc sản Việt Nam. Người nước ngoài muốn thưởng
thức món phở chính hiệu Việt Nam cũng không cần phải đi một chuyến xa
xôi đến tận quốc gia cộng sản ở châu Á. Đến Little Saigon cũng có đủ, mà
dám chừng phở ở đây c̣n ngon, vệ sinh và bảo đảm cho sức khỏe hơn là phở
tại Việt Nam! Có những con đường và khu thương mại nhà hàng Việt Nam nằm
san sát bên nhau không ǵ trở ngại. Bánh ḿ thịt nguội theo kiểu Việt
Nam cũng dần dần đi vào thị trường bản xứ. Không phải chỉ tập trung nơi
vùng Little Saigon, các nhà hàng c̣n mọc rải rác ở các thành phố khác
thuộc quận Cam. Một số nhà hàng có tên tiếng Anh, chứ không phải tiếng
Việt, nhưng bước vào trong th́ thấy chủ nhân và hầu bàn cũng là người
Việt cả. Hầu như sống ở đâu tại Nam California đều có thể ăn phở và bánh
ḿ thịt nguội được, chẳng xa xôi hay khó khăn ǵ. Hàng quán Việt xa nhất
cũng chỉ ba mươi phút lái xe. Tiện lợi như thế, bảo sao người Việt chẳng
rủ nhau kéo về Little Saigon, California!
- Thích
nh́n thấy người Việt. Người Việt có ǵ đặc biệt mà lại
thích nh́n, thích thấy? - Là giống người da vàng, mũi tẹt như người ḿnh
tự khiêm (hay tự ti) “khai báo” như vậy. Nhưng nh́n cho kỹ th́ người
Việt thật đáng yêu. Da vàng đâu phải vàng rám, vàng nghệ, vàng đau gan.
Nước da ấy mịn láng, và có khá nhiều người Việt trắng trẻo chứ không
“vàng” chút nào. Da trắng của người Việt ăn đứt nước da trắng mà đầy đồi
mồi của người Âu-Mỹ. Những người gọi là da trắng “ngày xưa” thường tự
hào về xuất xứ, chủng tộc của họ, nhưng xét về thẩm mỹ th́ họ đâu có hài
ḷng về nước da ấy. Nếu hài ḷng th́ đâu cần phải đi phơi nắng cho rám,
cho sậm đi, cũng đâu cần phải trét phấn dữ vậy! Nước da phụ nữ Việt, nếu
lỡ không kịp thời gian thoa phấn trước khi ra đường, vẫn cứ đẹp như
thường, chứ người Âu-Mỹ mà không thoa phấn th́ giống như giấy trắng nhàu,
có ǵ mà hănh diện! C̣n mũi tẹt ư? Đếm cho kỹ lại trong gia đ́nh, lối
xóm, cộng đồng xem, con số mũi tẹt chiếm bao nhiêu phần trăm? Mũi tẹt là
mũi thế nào? - Sống mũi không có, hoặc có nhưng thấp, trợt lớt, mắt trái
mắt phải có thể liếc nh́n thấy nhau không bị cản trở. Theo mô tả “phóng
đại” này th́ người Việt ngày nay cũng chẳng c̣n bao nhiêu người mũi tẹt.
Mà cũng không hẳn mũi cao là đẹp đâu nhá. Cái ǵ cũng vừa vừa thôi. Ở
người Việt, thứ ǵ cũng trung b́nh. Nước da trung b́nh, không trắng quá
cũng không đen quá. Mũi trung b́nh, không cao quá, cũng không thấp quá.
Vậy th́ quá tốt rồi. Ở cái khoảng trung b́nh ấy, hai phía tả hữu đều
mong được như vậy. Nhưng nói chung th́ nhân dáng Việt, cứ cho là giống
người da vàng mũi tẹt, có cái nét ǵ duyên dáng, thu hút. Họ trầm trầm
ít nói, nếu nói th́ nhỏ nhẹ. Ra ngoài đường không vặn nhạc ầm ĩ trên xe.
Cuối tuần cũng không vặn nhạc ồn ào ngoài vườn làm phiền lối xóm. Chung
qui họ là những người lễ phép, lịch sự (hoặc học phép lịch sự rất nhanh),
biết kính trên nhường dưới. Không hẳn họ đều là những người hiền, nhưng
đa số th́ rất lành: nếu không làm lợi được cho người th́ thôi chứ không
có ư hại người. Cái nhân dáng quen thuộc ấy, xa lâu cũng thấy nhớ, sống
gần th́ đáng yêu. Bởi vậy nhà văn Doăn Quốc Sỹ mới có cả tác phẩm khảo
luận mang tựa đề “Người Việt đáng yêu.” Cũng bởi v́ vậy, muốn
nh́n thấy người Việt thường xuyên hơn th́ người ta kéo nhau về Little
Saigon.
- Thích
nghe và đọc tiếng Việt. Ở nhà nghe và nói tiếng Việt, ra đường
cũng nghe và nói tiếng Việt. Đa số người Việt sống ở Little Saigon là
như thế. Nhật báo th́ có Người Việt, Việt Báo, Viễn Đông
(và có
thể c̣n vài tờ khác mà người viết không biết). Tuần báo, nguyệt báo, tạp
chí Việt ngữ th́ không sao kể hết. Phát thanh và truyền h́nh th́ có hàng
chục đài, bảy ngày một tuần, hai mươi bốn giờ một ngày. Những người lười
đọc, hoặc ít có thời gian để đọc, có thể nghe tiếng Việt qua các đài
phát thanh Việt ngữ. Tân nhạc, cổ nhạc, cải lương, tân cổ giao duyên…
qua các CDs, DVDs và các đài truyền thanh, truyền h́nh cũng góp phần
không nhỏ trong việc duy tŕ ngôn ngữ Việt trong cộng đồng. Trẻ Việt dù
sinh ra hoặc lớn lên ở đây đều có cơ hội và môi trường thuận lợi để học
tiếng Việt, qua các trung tâm dạy Việt ngữ miễn phí của cộng đồng, của
các cơ sở tôn giáo. Lái xe vào khu vực Little Saigon là thấy rợp cả
“tiếng Việt mến yêu”
[4]
của chúng ta trên những bảng hiệu của hàng quán, siêu thị, pḥng mạch
bác sĩ, văn pḥng luật sư, nhà thờ, chùa, thánh thất, v.v… nằm rải rác
hoặc tập trung nơi các thương xá. Không những thế, nhiều công sở hành
pháp, tư pháp, bệnh viện, dược pḥng, v.v… thuộc thành phố Garden Grove,
Westminster, Santa Ana, cũng có tiếng Việt hướng dẫn. Ở ṭa án
Westminster (trên đường 13th) chẳng hạn, nơi cửa thoát khẩn
cấp (emergency exit), đi kèm với bảng “stop”, c̣n có một chữ bằng tiếng
Tây Ban Nha “cesar”, và cạnh đó nữa, bỗng thấy chữ “Dừng lại” của “tiếng
Việt mến yêu”! Tiếng Việt được sử dụng phổ thông như thế, người Việt
phương xa nào mà chẳng động ḷng muốn về California!
Một cộng đồng người Việt, sử dụng
song ngữ Anh-Việt, tự tồn và phát triển với một tốc độ đáng tự hào như
thế là một thực tại không thể phủ nhận tại Little Saigon. Dân Đại-hàn
cũng muốn tạo một khu Little Korea hay Little
Seoul tại quận Cam nhưng chưa được, và
trong tương lai có được đi nữa th́ sự thành công và nỗ lực của họ cũng
không sánh được cộng đồng Việt. Bởi v́, ai cũng biết rằng người Đại-hàn
ở đây là những di dân hoặc khách trú bỏ tiền ra để qua Mỹ làm ăn, sinh
sống, cho con đi học, chứ không phải là những người tị nạn tay trắng như
thuyền nhân Việt Nam.
Trong niềm tự hào của những người
tay trắng lập nghiệp trên đất Mỹ, những người làm văn hóa trong cộng
đồng cũng cùng có chung một mối lo, đó là: liệu hai mươi, ba mươi năm
sau, khi thế hệ di dân (immigrant) tị nạn thứ nhất
[5]
không c̣n, và bốn-năm mươi năm sau thế hệ một rưỡi cũng về hưu hoặc qua
đời, văn hóa Việt có được bảo lưu ở thế hệ thứ hai và các thế hệ kế tiếp
không.
Trước mắt chúng ta thấy, ngoại trừ
một số trường hợp đặc biệt, thế hệ một rưỡi (1.5 generation) đă kém và
quên dần tiếng Việt (đọc và viết), nói chi thế hệ hai (second
generation). Vậy th́ hai-ba mươi năm sau, tương lai của Việt ngữ hẳn là
không sáng sủa như hiện nay. Lúc đó các công sở ở quận Cam không cần
phải chua thêm phần Việt ngữ. C̣n sách báo, đài truyền h́nh và truyền
thanh của người Việt, nếu c̣n th́ có thể lại sử dụng hoàn toàn Anh ngữ (dù
là ở quận Cam). Trong viễn tượng đó, cái ǵ c̣n sót lại của cộng đồng
Việt, văn hóa Việt nơi xứ người?
Nhưng văn hóa là ǵ? Đừng nói theo
định nghĩa của bách khoa tự điển hay của các nhà văn hóa, xă hội học.
Hăy nói nôm na đơn giản nhất là văn hóa bao gồm đời sống của con người
cả về mặt tinh thần lẫn vật chất. Mặt tinh thần biểu hiện qua tri thức
và đời sống tâm linh tín ngưỡng; mặt vật chất biểu hiện qua ẩm thực,
trang phục, kiến trúc (nhà ở, dinh thự). Ngôn ngữ, văn học nghệ thuật
cũng là một phần của văn hóa, vừa là trung gian để biểu đạt toàn bộ nếp
sống văn hóa của một dân tộc, một cộng đồng.
Theo cách hiểu tổng quát như thế,
văn hóa Việt năm mươi năm sau tại Little Saigon (có thể lúc đó là một
khu di tích lịch sử của người Việt tị nạn cộng sản) c̣n để lại ǵ? Ngôn
ngữ chăng? (đă nói rồi, thế hệ một rưỡi đă quên dần tiếng Việt). Kiến
trúc chăng? (có một số ngôi chùa, thánh thất và cổng thương xá xây theo
kiến trúc Việt Nam, không biết lúc đó c̣n ai bảo tŕ?). Trang phục chăng?
(có ai/cộng đồng nào c̣n tổ chức các cuộc thi hoa hậu áo dài Việt Nam
nữa không? Ngoài các cuộc thi áo dài, cháu chắt Việt năm mươi năm sau có
mặc áo dài đi lễ nhà thờ và chùa vào dịp Tết nữa không?). Âm nhạc chăng?
(thế hệ sau năm 1975 ở trong nước hiện nay c̣n yêu thích nhạc Mỹ, sáng
tác nhạc theo điệu Rock, Rap, Hip Hop, th́ liệu cải lương hát bội và cổ
nhạc Việt Nam năm mươi năm sau tại hải ngoại có ai muốn nghe không?). –
Không dám mạnh miệng trả lời đối với các điểm trên. Chỉ dám tin hai điều:
1) các thế hệ người Việt ở nước ngoài nếu c̣n yêu văn hóa Việt, sẽ dùng
ngôn ngữ của quốc gia sở tại cùng với các phương tiện nghệ thuật để giới
thiệu văn hóa của ḿnh cho người ngoại quốc, và văn hóa Việt lúc đó là
để tham khảo, trao đổi, t́m hiểu, chứ không phải văn hóa sống. 2) Khi
tất cả những thứ trên (ngôn ngữ, âm nhạc, trang phục, kiến trúc) bị quên
lăng dần cho đến khi mất hết, th́ phở, chả gị, nước mắm và một số món
ăn Việt sẽ c̣n ở lại nơi xứ người.
Trong các phương diện của đời sống,
ẩm thực là cái ít đổi thay, ít tốn thời gian để ăn/học, và thường th́
cũng không cần phải sử dụng đến ngôn ngữ để diễn tả. Khi thức ăn đưa đến
miệng thấy thích, thấy đói, th́ ăn thôi. Món phở và chả gị Việt Nam đă
trở thành món ăn nổi tiếng mà người có kiến thức tối thiểu về văn hóa (ẩm
thực) nhân loại không thể không biết. Chắc chắn năm mươi năm sau (dù
Little Saigon chỉ là khu di tích lịch sử), món phở và chả gị vẫn sẽ c̣n
ở California này, có thể c̣n lan sang nước láng giềng Mễ Tây Cơ (v́ một
số đầu bếp chính, đầu bếp phụ trong một vài tiệm phở Việt hiện nay là
người Mễ, thưa quư vị).
Thế nên những ai có ư hướng bảo
tồn văn hóa Việt nơi xứ người, đừng nghĩ rằng chỉ có những nhà thờ, nhà
chùa, nhà văn, nhà thơ, nhà soạn nhạc, nhà báo, nhà giáo, nhà trí thức,
nhà văn hóa, nhà kiến trúc, nhà tranh đấu, v.v… mới là những người làm
văn hóa, duy tŕ và giới thiệu văn hóa Việt nơi xứ người. C̣n phải nghĩ
đến công lao to lớn mà lặng lẽ của những “nhà bếp,” “nhà nấu nướng”
(chef) nơi các nhà hàng Việt. Chưa chắc những ǵ chúng ta làm hôm nay (bằng
chữ nghĩa, âm nhạc, nghệ thuật, văn học, truyền thông) c̣n ảnh hưởng đến
người Việt và người bản xứ đến hai mươi năm sau, nhưng phở và chả gị
th́ rơ ràng đă đi vào văn hóa thế giới.
Trở về chuyện “sống với người Việt.”
Trong giai đoạn hiện nay, nếu người Việt không thích sống với người Việt,
không thích gần cộng đồng Việt th́ một là người Việt đó có vấn đề, hai
là cộng đồng cũng có vấn đề. Vấn đề của cá nhân th́ khó nói được v́ có
rất nhiều biệt lệ. Vấn đề của cộng đồng th́ dễ thấy hơn. Nh́n chung, nếu
cộng đồng lành mạnh, có nền văn hóa đẹp, có tự do, dân chủ, nhân quyền (là
những thứ mà người Việt tị nạn kiên tŕ đấu tranh để đ̣i hỏi cho dân tộc
và đất nước Việt Nam) th́ người Việt thích sống với cộng đồng, thích lăn
xả vào các sinh hoạt chung. C̣n ngược lại th́ người Việt sẽ tránh né
cộng đồng Việt (để được yên thân, để khỏi bị phiền lụy về những chuyện
nhức đầu không ra chi). Trong khi nhiều người ở các tiểu bang xa đă t́m
về California th́ cũng không ít người Việt khác đă tránh né cộng đồng
Việt, rời xa vùng Little Saigon và họ chỉ đến vùng này để đi chợ và vào
nhà hàng để kiếm phở, chả gị, bánh xèo… Qua đó, cũng đủ thấy điều hấp
dẫn một người Việt gần với người Việt nhất vẫn là ẩm thực, cái chuyện
hết sức “tầm thường” đó, thưa quư vị.
Tương lai văn hóa Việt Nam như thế
nào? Những người Việt Nam các thế hệ sau có thích gần chợ Việt, thích
thức ăn Việt, thích nh́n thấy người Việt, thích đọc và nghe tiếng Việt
hay không? – Điều này tùy thuộc vào cộng đồng hiện nay. Làm người ta
thích th́ người ta đến, người ta ở, làm người ta sợ, người ta không tin,
th́ người ta đi.
Đưa ra bao nhiêu thứ lư thuyết cao
vời về văn hóa Việt, bảo tồn bản sắc Việt, nhưng trong bếp nhà của ḿnh
không có chai nước mắm, nói chuyện với con cái chỉ dùng toàn tiếng Anh,
đọc sách báo th́ tiếng Anh cũng lười (hoặc không đọc nổi) mà sách báo
tiếng Việt cũng lơ là (và không bao giờ chịu mua) th́ thử hỏi văn hóa
Việt bảo tồn được bao năm?
Văn hóa là toàn bộ sức sống của
một dân tộc, một cộng đồng. Mỗi người tùy theo khả năng và vị trí của
ḿnh mà tự đảm nhiệm lấy phần bảo tồn và xây dựng. Nhưng trước hết, hăy
tự hỏi, ḿnh có thích sống với người Việt hay không?
Quận Cam, California, ngày 13
tháng 7, 2009.
Chú thích:
[1]
Mượn ví dụ từ các luận sư Phật giáo.
[2]
“Nh́n Cây Thấy Rừng,” tựa sách của Đỗ Quyên, Văn Nghệ
xuất bản năm 1997 tại Calif., Hoa Kỳ.
[4]
Tựa một bài viết của Đỗ Thông Minh.
[5]
Cộng đồng chúng ta vẫn thường dùng “thế hệ thứ nhất” (first
generation) để chỉ cho người tị nạn đă trưởng thành khi rời nước,
và “thế hệ một rưỡi” (1.5 generation) để chỉ cho người tị nạn
sinh tại Việt Nam nhưng trưởng thành ngoài nước, và “thế hệ thứ
hai” là thế hệ sinh ở nước ngoài. Nhưng theo một số định nghĩa
phổ thông khác, thế hệ thứ nhất là thế hệ được những người di
dân đầu tiên sinh ra ở ngoài nước.