CHƯƠNG
MƯỜI BỐN
Nhớ năm xưa khi tôi
chưa xuất gia, cứ đến ngày Phật Đản, tôi và các em nhỏ thường
theo ba mẹ đến chùa Tỉnh hội dự đại lễ, xem văn nghệ, rồi đi xem
đoàn xe hoa của các công sở, hay các đơn vị quân đội đủ mọi
binh chủng trong toàn thành phố, rước kiệu Phật đi khắp các
đường lớn. Cờ Phật giáo giăng đầy các ngă đường. Lễ đài và tôn
tượng đức Phật Thích Ca Đản Sanh được dựng lên khắp nơi. Mỗi căn
nhà có người theo Phật đều có giăng cờ, treo đèn. Ra đường là
thấy ngợp cả rừng cờ năm màu của Phật giáo. Chuyện trang hoàng
cờ xí đèn hoa để mừng ngày Phật Đản ấy chỉ là h́nh thức thôi,
nhưng dẫu sao cũng là h́nh thức cần thiết khiến người con Phật
cảm thấy ấm ḷng v́ có cơ hội để biểu lộ được phần nào niềm kính
tín của ḿnh đối với một bậc thầy, một người cha cao cả của nhân
loại. Niềm kính tín đó được giữ ǵn, tiếp nối từ nhiều đời, trở
thành tập tục truyền thống của một dân tộc vốn có số lượng Phật
tử đông đảo trên bảy mươi phần trăm dân số cả nước.
Mấy năm tôi mới xuất
gia, đất nước thuộc chế độ Đệ nhị Cộng ḥa, lễ hội Phật Đản cũng
không v́ hoàn cảnh chiến tranh mà bị ngưng trệ hay bỏ qua được.
Cả người theo Phật lẫn những người không theo Phật đều thích đến
chùa hay ra các đường phố lớn để chờ đón đoàn xe hoa rước Phật.
Trên các đường hướng về chùa Tỉnh hội, người ta phải chen nhau
nhích từng bước một qua khoảnh sân rộng để được đến gần lễ đài
chính và khu vực chính điện. C̣n đường Hoàng Hôn, đường B́nh
Minh và con đường Kim Thân Phật Tổ qua viện Hải Đức th́ gần như
ngập tràn những người là người. Cả ngọn đồi Trại Thủy lúc ấy là
một đồi người.
Vậy mà từ ngày người
cộng sản chiếm miền Nam, những lễ hội Phật Đản cũng như Chúa
Giáng Sinh trong cả nước đều bị trực tiếp hoặc gián tiếp ngăn
cấm. Trực tiếp bằng cách nói thẳng với các nhà chùa, nhà thờ là
không được tổ chức lớn; gián tiếp th́ cho công an đến các chùa,
các nhà thờ vào dịp lễ lớn, lấy cớ giữ ǵn an ninh trật tự cho
ngày lễ nhưng thực ra là để ngăn cản người đến dự lễ; hoặc tinh
vi hơn, tổ chức họp các tổ dân phố, tổ chức những ngày lễ ǵ đó
chẳng mấy quan trọng của Đảng hay của địa phương, tổ chức ngày
lao động “dâng Bác, dâng Đảng,” đúng ngay ngày lễ Phật
Đản và Giáng Sinh để làm giảm bớt số lượng tín đồ tham dự. Nhà
nước cố t́nh can thiệp và có lệnh cấm tụ tập đông người như vậy
th́ dân làm sao dám đi dự lễ hội. Nhà nước kỳ thị tôn giáo th́
dân làm sao dám xưng ḿnh là phật-tử hay tín đồ Thiên Chúa giáo.
Vào ngày lễ Phật Đản, các vị sư tăng, sư ni cũng phải e dè không
dám giăng cờ xí, không dám tổ chức lớn; có vị c̣n yêu cầu
phật-tử thay nhau đến chùa trong nhiều ngày, đừng đến dồn một
ngày quá đông sẽ bị công an ḍm ngó, bắt bớ. Chùa c̣n không dám
giăng cờ treo đèn th́ ở các tư gia, các ngă đường, làm ǵ c̣n có
chuyện trang hoàng cúng dường Phật Đản.
Như vậy đó, từ năm
1975 đến 1978 là bốn ngày Phật Đản tiêu điều. Người ta chỉ thấy
ở chùa Tỉnh hội giăng hai dây đèn màu kèm theo hai dây cờ Phật
giáo chạy dọc theo mái cong của chùa tạo thành h́nh một chiếc
thuyền đơn sơ một nét. Ở viện Hải Đức c̣n kém hơn: cũng một dây
đèn màu, một dây cờ vải, tạo thành h́nh một đường thẳng vẹt với
chiều dài khiêm tốn theo bề ngang của ngôi chánh điện cổ. Về
h́nh thức, đại lễ Phật Đản chỉ khác với ngày thường ở hai sợi
dây đèn và cờ đó mà thôi. C̣n về nội dung, tức là phần hành lễ,
ở viện cử hành vào giờ công phu, bốn giờ khuya. Cử hành vào giờ
đó th́ phật-tử tham dự cao lắm là mười người mà là những người ở
quanh xóm chùa chứ chẳng ở đâu xa. Rồi buổi trưa mười hai giờ có
thêm một lễ trai tăng cúng Phật. Sau giờ thọ trai, chư tăng đi
nhiễu quanh Phật ba ṿng rồi cử hành lễ. Sau lễ ấy, cửa chính
điện mở suốt ngày để Phật tử nào muốn vào lễ bái th́ vào. Bên
chùa Tỉnh hội, cơ sở trung ương của Giáo hội tỉnh, cũng chỉ tổ
chức được lễ Phật Đản như thế là cùng. Trừ những năm c̣n nhỏ
tuổi chưa xuất gia, tôi vốn không ham thích ǵ đám đông lễ hội.
Vậy mà khi cái lễ hội truyền thống không được tổ chức, tôi lại
cảm thấy buồn, thấy thiếu vắng thế nào đó trong ḷng. Nhất là
năm nay, việc cử hành lễ Phật Đản ở viện Hải Đức lại bị công an
thành phố có lệnh cấm với văn bản hẳn hoi chứ không phải chỉ ra
lệnh bằng miệng như mấy năm trước: cấm tụ tập đông người, chỉ
được treo đèn kết hoa trong khuôn viên chánh điện, về việc an cư
kiết hạ của chư tăng th́ “chờ sự duyệt xét của cấp trên”
(chẳng nêu rơ là cấp trên nào) mới được tổ chức. Thông thường
th́ lễ an cư kiết hạ của chư tăng được tổ chức ba tháng hè, từ
ngày rằm tháng tư (tức ngày lễ Phật Đản) đến ngày rằm tháng bảy
(tức lễ Vu Lan). Trong ba tháng đó, chư tăng tập trung một chỗ
để cùng tu tập và trao đổi kinh nghiệm hành đạo, không ra khỏi
chùa ngoại trừ khi có việc gấp nhưng phải có sự đồng thuận của
đại chúng.
Những ngày trước lễ
Phật Đản, nghe tin viện Hải Đức phải chờ công an duyệt xét việc
an cư kiết hạ, tăng chúng và Phật tử Nha Trang xôn xao cả lên.
Các thầy trẻ bày tỏ sự bất măn ra mặt với ban giám đốc, đặc biệt
là đối với thầy bổn sư của tôi, v́ ai cũng cho rằng thầy tôi
ngoài chức giám sự thay mặt viện trưởng coi sóc mọi sinh hoạt
của viện, c̣n là một chủ hộ chịu hoàn toàn trách nhiệm
trước chính quyền về sự ngăn cấm an cư kiết hạ, một truyền thống
lâu đời nhất của Phật giáo (lâu hơn cả lễ Phật Đản v́ tục an cư
kiết hạ có từ thời Phật c̣n tại thế). Nói th́ nói vậy, chứ thực
ra, đứng vào địa vị của thầy tôi, sẽ không vị thầy trẻ nào dám
phản đối chính quyền một câu vào thời điểm căng thẳng đó. Thầy
tôi im lặng chịu đựng sự chê trách nặng nề của chư tăng. Có vị
cho rằng thầy tôi nhu nhược, hèn nhát. Tôi không dám có ư kiến
ǵ trong việc b́nh phẩm thầy tôi, nhưng cũng như các thầy trẻ
khác, tôi rất bất măn về chuyện nhà nước can thiệp vào chuyện
sinh hoạt nội bộ của chư tăng.
Một thầy trẻ lên
tiếng trong buổi họp chúng được tổ chức trước lễ Phật Đản vài
ngày:
“Chỉ tại ḿnh xin
nên họ mới thấy là họ có quyền cho phép. Ḿnh đừng xin xỏ ǵ cả
th́ đâu có xảy ra chuyện cấm đoán hay chờ duyệt xét! Tổ chức lễ
Phật Đản là tập tục lâu đời, họ hạn chế hay cấm đoán đă là quá
quắt lắm rồi, nhưng cũng có thể nhân nhượng được đi, v́ lễ Phật
Đản có liên hệ đến số đông quần chúng ngoài viện, có thể nại cớ
không muốn tụ tập đông người; c̣n an cư kiết hạ là chuyện nội
bộ, chuyện thường lệ của viện, đă có từ lâu đời, thời nào cũng
vậy, sao phải xin phép chứ?”
Thầy tôi giải thích:
“Có thầy Phước Châu
biết mà, họ đă có lệnh trước đó là muốn tổ chức bất cứ lễ ǵ
cũng đều phải làm đơn xin phép nhà nước trước, có sự chấp thuận
của chính quyền hẳn hoi rồi mới được cử hành. Ḿnh đâu có thể
lặng thinh tự ư hành lễ được. C̣n chuyện an cư kiết hạ tôi đâu
có xin phép, họ tự đưa ra lệnh cấm theo đơn xin phép tổ chức lễ
Phật Đản mà thôi. Hơn nữa, họ nói để chờ họ duyệt xét chứ có nói
là cấm an cư kiết hạ đâu. Có thể sẽ có thông báo trước hoặc trễ
lắm là vào ngày Phật Đản.”
Dù thầy tôi giải
thích như vậy, cũng không ngăn được những lời gièm pha to nhỏ
sau buổi họp. Giữa tăng chúng và ban giám đốc tự dưng lại có một
khoảng cách rất khó chịu v́ chuyện ấy.
Buổi sáng trước lễ
Phật Đản một ngày, tôi có công tác dọn vệ sinh quanh thiền thất
của Thượng tọa Thiện Siêu, viện trưởng. Tôi đang ngồi nhổ cỏ th́
Thượng tọa từ thiền thất bước ra, xăn tay áo cùng ngồi xuống,
nhổ cỏ giúp tôi.
Nhớ lại mùa an cư kiết hạ năm 1976, vào những ngày tôi
mới từ Hội An trở về, Thượng tọa có gọi tôi lên thiền thất, dạy
tôi đôi điều về việc tu tập, rồi cho tôi tiền mua thuốc trị
bệnh. Hôm sau, có lẽ do Thượng tọa giới thiệu sao đó mà đích
thân Ḥa thượng Từ Quang xuống pḥng khách của viện, cho người
gọi tôi đến, huấn thị đôi điều rồi cũng cho tôi tiền mua thuốc
trị bệnh. Tôi lạy ḥa thượng, không dám nhận th́ ngài dạy:
“Sách xưa nói ‘trên
cho dưới không được chối từ mới gọi là kính’. Chú bệnh th́ phải
lo chạy chữa. Thân không bệnh tật th́ tham dục dễ sanh, nhưng cứ
bệnh tật hoài th́ làm sao an ổn mà tu tập được. Cầm đi,” rồi ḥa
thượng nắm lấy bàn tay tôi, dúi tiền,
rồi trở về thiền thất.
Ân t́nh của các
bậc cao tăng dành cho, tôi đâu dễ quên được. Lúc ấy, tôi đứng
nh́n theo vóc hạc của vị ḥa thượng già mà muốn rơi lệ. Cử chỉ
nắm tay dúi tiền ấy, sao mà t́nh cảm lạ! Cái t́nh đó bao la và
cảm động đến độ nó khiến tôi e sợ sẽ không làm được ǵ nên
chuyện trong đời tu của ḿnh để đáp ứng niềm kỳ vọng của các
ngài.
Thoắt cái đă hai năm
trôi qua. Bây giờ, cũng đă đến mùa an cư, Ḥa thượng Từ Quang
bệnh nặng ở Phú Yên, không vào Nha Trang được, mà chuyện an cư
năm nay lại gặp ngăn trở, tôi cảm nghe bùi ngùi và ấm ức thế nào
đó trong ḷng.
Thượng tọa viện
trưởng lặng lẽ nhổ cỏ, không nói ǵ. Tôi có cảm tưởng là ngài
cũng buồn bă về chuyện chính quyền ngăn cấm an cư kiết hạ. Một
lúc lâu, ngài hỏi tôi:
“Con nay khỏe hẳn
chưa? Hết bệnh chưa?”
“Bạch thượng tọa,
con đă khỏe,” tôi đáp.
Ngài im một lúc rồi
bắt chuyện vui vẻ:
“Nhổ cỏ cũng là một
pháp môn tu đó, chú có thấy vậy không? Người ta nói nhổ cỏ phải
nhổ tận gốc. Câu ấy cũng ứng dụng được vào chuyện tu hành, dẹp
trừ phiền năo. Cỏ cũng giống như phiền năo, nhất là loại cỏ cú
như vầy có ai chăm bón đâu mà chúng cứ sinh sản, tràn lấn khắp
đất vườn. Phải chịu khó nhổ từng cọng, và phải nhổ tận gốc,
không thể lấy đất đá chèn lấp hay chôn sâu xuống là yên chuyện.
Chôn xuống nó càng bén rễ nhanh mà thôi.”
Tôi nghe vậy th́
giật thót người, tưởng như ngài đă đọc được tâm niệm của ḿnh.
Tôi không nói ǵ, chỉ im lặng khắc ghi lời dạy đơn sơ mà quí giá
ấy. Lời ngài giống như một lời cảnh cáo cho việc tu tập của suốt
đời tôi.
Đúng ngày Phật Đản,
tin tức chính xác về sự duyệt xét vấn đề an cư đă được thầy quản
chúng thay mặt thầy tôi, thông báo cho cả viện: công an thành
phố có văn thư ra lệnh cấm tổ chức an cư kiết hạ trong năm nay
v́ t́nh h́nh an ninh chính trị của cả nước. Tin này làm cho đại
chúng thêm bất măn, và thầy tôi càng bị châm biếm, gièm pha
nhiều hơn. Không khí trong viện thật căng thẳng. Dù vậy, lễ Phật
Đản vẫn được viện quyết định tổ chức đơn giản vào buổi trưa, sau
đó tăng chúng của viện mặc nhiên tự giác tĩnh tu trong ba tháng
hè mà không cần h́nh thức kiết giới hay các nghi lễ thường lệ
hàng ngày của mùa an cư.
Suốt buổi sáng hôm
ấy, tôi đến đâu cũng nghe những lời xầm x́, bàn tán về thầy tôi.
Nhiều thầy trẻ đă gọi thầy tôi bằng hai chữ rất gọn: “chủ hộ”,
thay v́ gọi là “thầy giám sự”, “thầy trụ tŕ” hoặc
gọi bằng đạo hiệu. Gọi một vị cao tăng như vậy chứng tỏ ḷng họ
không c̣n chút kính trọng nào nữa. “Chủ hộ” là từ mới có
tại miền Nam sau năm 1975 để chỉ một người làm chủ cái hộ khẩu
(tức là tờ khai gia đ́nh). Điều này làm tôi buồn ḷng không ít.
Buồn không phải chỉ v́ thầy tôi bị xúc phạm mà c̣n v́ sự bất
kính với các bậc trưởng thượng chứng tỏ cái tôn ty trật tự của
nhà thiền đă bị lung lay khá nhiều theo hoàn cảnh mới của đất
nước. Khi những người cán bộ cộng sản ngang tuổi tôi nạt nộ, xỉ
vả và gọi một vị ḥa thượng già hay một cụ già đáng tuổi ông cố
của ḿnh bằng một tiếng “anh” th́ đă có dấu hiệu của sự
suy đồi văn hóa rồi. Và một khi trong mắt người cán bộ cộng sản,
nhà chùa hay nhà thờ chỉ là những căn nhà (hộ), c̣n vị các sư
trụ tŕ hay cha xứ chỉ là những “anh” chủ nhà chịu sự
giám sát và cai quản của ḿnh th́ tôn giáo, biểu tượng của đạo
đức quốc gia, đă không c̣n nền móng vững chắc để nuôi dưỡng và
bảo vệ vẻ chân thiện mỹ của dân tộc nữa. Không rơ do đâu, từ
sách vở hay từ lời dạy của một nhân vật nào mà tôi lại ư thức
rất sớm về hiện tượng trên và chính điều đó làm tôi giật ḿnh,
cảm thấy ḿnh và đồng bào đang ngồi trên một chiếc xe hư thắng
bị tuột dốc mà người lái th́ lại say sưa trong giấc mơ đầy huyền
hoặc… Tự dưng trong tôi nẩy sinh một ước muốn, một thôi thúc.
Tôi muốn làm một cái ǵ đó để đánh thức anh tài xế, hay ít ra,
cũng phải t́m được một cách thế nào đó để chận đứng chiếc xe
lại. Sự thôi thúc ấy khiến ḷng tôi nóng như lửa bỏng. Nhưng
rồi tự xét lại ḿnh, tôi biết, dù đă mười chín tuổi, tôi cũng
chỉ là một chú tiểu ngây ngô bất tài. Ở viện này, tôi chỉ lớn
hơn ba chú tiểu là Đăng, Thắng và Lịch. Tôi biết làm ǵ đây,
biết đóng góp ǵ đây? Và có ai thấy cần thiết phải tiếp nhận sự
đóng góp nhỏ nhoi của tôi không?
Nơi chiếc bàn nhỏ ở
hiên pḥng khách, thầy tôi đang ngồi với một chồng sổ sách trước
mặt, nhưng mắt thầy lại buồn bă, nh́n xa xăm ở đâu. Tôi không rơ
những lời đàm tiếu của các thầy trẻ kia có đến tai thầy không.
Tôi hy vọng là nếu có, thầy cũng không cần quan tâm. Tôi bước
nhẹ đến gần chỗ thầy ngồi. Thầy ngước lên gục gặc đầu, rồi nh́n
xa, hướng chân mây. Một lúc th́ thầy nói:
“Nếu thầy nhớ không
lầm th́ cách đây chừng bảy hay tám năm, lúc đó con mới xuất gia
th́ phải… Ừ, khoảng năm 1970. Lúc đó viện c̣n là
viện Trung Đẳng Phật học, Ḥa thượng Trí Thủ c̣n làm giám viện.
Ḥa thượng từ Sài G̣n về thăm viện nửa tháng. Con c̣n nhớ
không?”
“Dạ nhớ, bạch thầy,”
tôi đáp.
Thầy tôi gật gù nói:
“Ḥa thượng cho gọi
riêng con đến đảnh lễ tại pḥng khách này, nhớ không?”
“Dạ nhớ. Ḥa thượng
c̣n bảo con thắp nhang bàn thờ Tổ,” tôi nói.
“Đúng rồi. Con biết
tại sao lại bảo con đi thắp nhang bàn thờ Tổ không? Ḥa thượng
muốn nh́n tướng, muốn xem xét xem oai nghi của con đó. Khi con
lui ra, Ḥa thượng bảo sao con biết không? Bảo thầy cho con theo
Ḥa thượng vào Sài G̣n, ở gần ḥa thượng làm thị giả mà tu học
tại tu viện Quảng Hương Già Lam. Tu viện đó do Ḥa thượng lập
nên, đông tăng chúng lắm. Các thầy các chú ở tu viện đều được đi
học. Lúc ấy, thầy thấy con c̣n nhỏ, nên đă xin phép Ḥa thượng
là sẽ cho con vào hầu Ḥa thượng khi nào con trưởng thành. Vậy
mà bây giờ… không được nữa.”
Tôi nghe nói chuyện
đi xa, nhất là vào Sài G̣n, th́ tự dưng toàn thân rúng động lên,
như thể ở miền đất phía Nam xa xôi ấy có cái ǵ đó rất thân
thiết, rất cuốn hút, đang chờ đợi tôi. Nhưng, không hiểu sao
thầy tôi lại nói là không được nữa. Tôi nóng ḷng hỏi:
“Bạch thầy, sao
không được ạ?”
“V́… v́ cái ǵ đâu!
Ḥa thượng vẫn ở trong đó, nhưng cái chính quyền này, đi đâu
cũng phải xin giấy thông hành, ở đâu cũng phải có hộ khẩu. Làm
sao con đi được chứ! Tháng trước, thầy Thiện Vinh đi đâu vắng ba
đêm, vậy mà họ gọi cả thầy lẫn thầy ấy xuống đồn công an thành
phố vấn cung, làm tự kiểm suốt cả tuần. Rồi họ cho người thay
nhau lên viện kiểm tra, ḍ xét… Họ c̣n hăm dọa bắt giam nếu có
ai đi vắng cách đêm mà không xin phép họ trước. Đâu phải ḿnh sợ
họ, ḿnh chỉ sợ phiền những người khác trong viện thôi.”
“À, con tưởng lư do
nào khác chứ lư do đó th́…”
Tôi nói chưa dứt câu
th́ thầy tôi cắt ngang:
“Thôi, khỏi bàn nữa.
Có thể sau nầy sẽ có lúc người ta dễ dăi hơn về vấn đề đi lại,
cư trú, lúc đó hăy tính.”
Câu chuyện ngang đó
th́ ngưng. Nhưng tôi nghĩ, rơ ràng là thầy tôi không phải chỉ
muốn nói với tôi ngần ấy. H́nh như thầy c̣n cố t́nh gợi ư cho
tôi đi xa. Trước đây tôi từng có ư nghĩ là thầy tôi không muốn
tôi ở gần thầy. Bây giờ ư nghĩ đó quay trở lại. Tôi đoán đâu có
sai. Thầy tôi muốn tôi đi xa. Mà tôi cũng vậy, tôi muốn lên
đường. Nơi đây, đối với tôi bây giờ, dù vẫn đẹp, vẫn thơ mộng,
nhưng tù túng quá.
Tôi định quay bước
đi th́ thầy gọi tôi lại nói:
“Con có tiếc là
trước kia không được thầy cho theo Ḥa thượng vào Sài G̣n
không?”
“Dạ không. Ở đâu con
cũng tu học được,” tôi thưa.
“Dĩ nhiên ở đâu cũng
tu học được nhưng có chỗ thích hợp cho ḿnh vào giai đoạn này,
có chỗ thích hợp cho ḿnh vào giai đoạn kia. Con có biết tại sao
lúc đó thầy chưa muốn cho con đi không?”
“Dạ không,” tôi đáp.
“V́ lúc đó con mới
xuất gia, chưa được trui luyện chút nào cả, vào Sài G̣n con sẽ
bị tập nhiễm theo hoàn cảnh xô bồ trong đó để rồi hư thân như
nhiều thầy trẻ khác.”
Tôi cúi đầu thầm cám
ơn thầy, và tôi cũng tự xấu hổ, biết rằng cho đên bây giờ, dù đă
qua tám năm tu học, tôi vẫn chẳng được gọi là có trui luyện chút
nào. Tôi đâu quên rằng tôi đă bị lạc hướng một thời gian để mơ
ṃng h́nh bóng Như Như đến nỗi tán loạn tâm ư, không thiền định
được. Thầy tôi đâu biết rằng nếu bây giờ có điều kiện vào Sài
G̣n, tôi cũng sẽ lên đường với một tâm chí chưa được thuần thục
không hơn ǵ những ngày chập chững mới vào tu cả. Tôi vừa mới
nghĩ như vậy th́ thầy tôi lại tiếp:
“Không phải thầy nói
bây giờ con đủ bản lănh, không c̣n sợ ngoại cảnh lôi kéo nữa. Ai
cũng có chỗ yếu của ḿnh, nhưng nếu biết rơ đó là chỗ yếu th́
chính đó là mạnh… Thực ra, điều thầy muốn nói với con, không
phải ở chỗ yếu hay mạnh,” thầy tôi ngưng một lúc, rồi tiếp,
giọng trầm xuống, “yếu với mạnh không quan trọng; quan trọng là
c̣n, tồn tại. Mà theo cách thầy nh́n, chỉ có phương Nam mới thích hợp với
con mà thôi. Tiếc thay! Cái nhỏ bó cái lớn! Ồ, chuông báo giờ
hành lễ rồi à? Thôi, đi.”
Tôi quay trở về
pḥng mà cứ thắc mắc câu cuối của thầy: “Tiếc thay! Cái nhỏ
bó cái lớn!”
Không có cách ǵ để
thông báo cho Phật tử biết là công an ngăn cấm việc tụ tập đông
người nên vào giờ cử hành lễ Phật Đản chính thức, ở viện cũng có
khá đông người tham dự. Trong buổi lễ, đang đứng chắp tay hướng
về Phật, tự dưng tôi cảm giác rằng có một người nào đó đang nh́n
tôi từ phía sau; và cái nh́n ấy phải kèm theo một nhu cầu tha
thiết lắm mới khiến toàn thân tôi rùng lên, ớn lạnh… Tôi không
dám quay nh́n. Xong lễ, tôi cúi mặt, vội vàng trở về pḥng, thay
y áo. Vừa thay xong chưa kịp nghỉ ngơi, đă có tiếng gơ cửa, ban
đầu hơi gấp; nhưng sau đó th́ từng chập ba tiếng như e dè, hồi
hộp. Tôi đến bên cửa, hỏi nhỏ:
“Ai vậy?”
Bên ngoài không có
tiếng đáp, hoặc một tiếng thốt lên nho nhỏ đă bị loăng đi trong
tiếng người rộn rịp quanh thềm chánh điện. Tôi mở cửa: trước mặt
tôi là Như Như.
Trong một thoáng ngỡ ngàng chưa biết phải nói
ǵ, tôi thấy đôi mắt tươm lệ của nàng ngước nh́n tôi, vừa mừng
rỡ, vừa hờn trách. Giọng nàng rung rung, chỉ thốt lên được một
tiếng:
“Khang…”
Tôi đứng im nh́n
sững nàng một lúc lâu, rồi mới sực ư thức rằng cái h́nh bóng mà
tôi ngỡ đă chôn đi với thời gian đang hiện hữu sờ sờ trước mắt
và không chỉ hiện hữu như một h́nh bóng trong tâm tưởng, mà là
một con người bằng xương bằng thịt, sinh động, kiều diễm một
cách sáng ngời và rực rỡ trong chiếc áo dài trắng tinh tuyền và
làn tóc óng như mây buông trên bờ vai nhỏ… Tôi run lên lẩy bẩy,
vụng về nói:
“Như Như mới đến
chơi?”
“Hôm nay lễ Phật Đản
mà. Em thấy Khang tụng kinh lúc năy nên sau lễ, em theo Khang
đến pḥng này. Đây là pḥng riêng của Khang đó hở?”
“Ừ, pḥng riêng. Như
Như vào đi,” tôi nói rồi mở toang cả hai cánh cửa lớn ra.
Như Như bước vào,
đưa mắt nh́n quanh pḥng một lượt. Tôi kéo chiếc ghế dựa duy
nhất trong pḥng đến cho nàng, rồi tôi ngồi xuống ở đi-văng. Như
Như vén nhẹ vạt áo dài sau, nhưng vẫn tần ngần chưa chịu ngồi,
nàng nh́n dáo dác ra ngoài cửa như t́m kiếm hay ngó chừng ai.
Tôi nhớ sực đến thực tế rằng nàng từng bị gia đ́nh cấm ngặt
chuyện giao tiếp với tôi. Tôi hỏi:
“Như Như đi với ai
vậy?”
“Với một đứa bạn
học. Em bảo nó ngồi chờ ở ngoài… Ôi may mắn sao nó lại rủ em đi
chùa này để rồi t́nh cờ gặp lại anh…” nàng nói đến đó th́ nước
mắt chảy thành hai ḍng, giọng đổi thổn thức, “Khang ơi… có phải
anh từ Hội An mới về không? Hay là lâu nay anh ở đây? Anh tránh
mặt em, anh không thương em… phải không?”
Tôi ấp úng không
biết trả lời sao. Ban năy tôi hăy c̣n lo ngại những người qua
lại trước thềm chánh điện sẽ nghe thấy hoặc ḍm ngó chúng tôi;
bây giờ, nghe tiếng nức nở của Như Như, tôi không kềm được
thương cảm, đứng dậy, bước đến gần nàng, đưa ngón tay trỏ trái
lên, chậm nhẹ những giọt nước mắt của nàng. Khuôn mặt nàng đă
gầy đi khá nhiều so với những lần gặp gỡ trước đây. Trong một
phút se ḷng nghĩ đến nỗi đau khổ mấy tháng nay của nàng, tôi
lại quên đi tất cả những lư tưởng, những hoài băo, những cao
vọng ngất trời của một kẻ xuất trần, đặt nhẹ tay ḿnh lên vai
nàng, vỗ về trong im lặng. Nàng quay mặt qua, áp má nàng lên tay
tôi, kềm tay tôi giữa má và vai nàng. Nước mắt nàng nhỏ từng
giọt, từng giọt xuống lưng bàn tay tôi. Một lúc lâu, nghe chừng
nàng đă nguôi nguây, tôi nâng má nàng lên, rút tay về. Tôi trở
lại chỗ đi-văng, nói dối:
“Có đi xa đó chứ. Đi
Hội An. Mới về lại hơn tuần nay. D́ Nữ không nói vói Như Như à?”
“D́ Nữ hả? D́ đâu
nói chi. Trước đây lúc th́ nói anh ra Huế, lúc th́ nói anh ra
Hội An. Chẳng biết đâu là thực. D́ ấy đâu có nói thẳng với em,
chỉ nói với mẹ thôi, nhưng cố ư cho em nghe để em không mong gặp
anh nữa. Bây giờ… gặp lại anh, em không để anh bỏ đi lặng lẽ
không lời giă từ như vậy nữa đâu… Anh ác lắm,” nàng lại khóc,
“anh nói thực đi, Khang à, đâu phải anh không thương em. Em biết
mà. Nếu anh không thương em, anh đâu cần phải làm như vậy…” nàng
nghẹn ngào một lúc rồi nói tiếp, “mà nếu anh thương em, anh cũng
đâu cần phải làm như vậy chứ. Thương nhau đâu có tội lỗi ǵ đâu!
Em nghĩ chỉ có làm khổ nhau th́ mới là điều tội lỗi thôi.”
“Ừ… anh có lỗi với
Như Như. Nhưng anh không biết làm ǵ khác. Không lư anh lại
tránh cái lỗi này để chọn một cái lỗi khác to lớn hơn,” tôi nói.
Nghe tôi xưng “anh”
lần đầu tiên kể từ ngày quen nhau, mặt nàng bỗng đỏ ửng lên, và
miệng nàng nở một nụ cười duyên dáng, nói ngay:
“Em biết từ nay sẽ
không có ǵ ngăn cản hai đứa ḿnh được nữa đâu.”
“Sao vậy?” tôi hỏi.
Nàng nhún vai nói:
“Đâu có ai ngăn cản
được sự thật. Người ta thường nói vậy mà. Nếu em thực t́nh, anh
cũng thực t́nh, th́ không ǵ ngăn trở được nữa.”
Nàng nói câu đó với
giọng tự tin và lạc quan lắm. Tội nghiệp Như Như! Nàng không
biết rằng từ cửa chùa, tôi được giáo dục cho một cách nh́n cuộc
đời qua đó, tất cả những ǵ gọi là giả trá hay ngay cả những ǵ
gọi là chân thực, cũng đều là những hư-thực được diễn ra trong
một giấc mộng. Cho dù có những lúc tôi mê mờ quên mất cái căn
nguyên huyễn mộng ấy, nhưng trước sau ǵ rồi sự vật cũng trở về
với bản chất nguyên ủy của chúng.
Có dáng người con
gái khe khẽ bước tới gần pḥng tôi mà không dám lên tiếng, cũng
không dám bước vào. Từ trong pḥng nh́n ra, tôi không thấy mặt
người ấy v́ bị cái trống lớn che khuất. Nhưng tôi cũng đoán được
người ấy là bạn của Như Như. Tôi nói nhỏ:
“Có lẽ bạn Như Như
muốn về đó.”
Như Như vén lại tóc
mai, lau vội chút nước mắt sắp sửa ráo ở khóe mắt, quay nh́n ra
ngoài:
“Đúng rồi, con Giang
bạn học cùng lớp của em đó. Nó giới thiệu em đi chùa này chứ em
đâu có biết. Khang chờ em ra nói chuyện với nó một chút nha.”
Nàng ra ngoài. Hai
người bàn nói ǵ đó một lúc khá lâu Như Như mới quay trở vào.
“Em phải về. Con bạn
em có việc phải về nhà trước hai giờ rưỡi. Em muốn ở lại chơi
với anh đến chiều v́ em chưa nói hết được những ǵ em muốn nói,
nhưng bỏ nó về một ḿnh thấy kỳ quá. Mai mốt em lên thăm anh, ở
chơi lâu hơn, bù lại những ngày không gặp anh… À, em đă được
nghỉ hè rồi. Em sẽ t́m cách đến đây với anh thường xuyên hơn.
Chắc anh không đi đâu hở? Ủa, em quên hỏi lại anh cho chắc: anh
sẽ ở đây luôn chứ không đi Hội An nữa, phải không? Hay là anh
ghi địa chỉ chùa ở Hội An cho em đi… lỡ mai này anh có bỏ đi nữa
th́ em cũng biết ngơ mà t́m.”
“Thôi, ghi làm chi.
Có đi Hội An nữa đâu mà ghi,” tôi nói, nhưng nàng cứ nài ép,
cuối cùng tôi phải ghi địa chỉ chùa Long Tuyền xuống.
Khi tôi trao nàng
mẩu giấy ghi địa chỉ, nàng nắm lấy tay tôi, cầm một lúc rồi hơi
nhón chân lên, nói một câu thật nhỏ giọng vào tai tôi:
“Em nhớ Khang ghê
vậy đó,” rồi nàng quay đi, nhưng đến cửa th́ quay lại nói, “c̣n
điều này nữa, em muốn dặn Khang: nếu gặp d́ Nữ, Khang đừng nói
em có đến đây nghe. Giả bộ như em chưa biết Khang ở đây, vậy tốt
hơn. Em về.”
Từ cửa sổ lặng lẽ
nh́n theo, tôi thấy nàng và cô bạn học vượt qua đám đông, đi
xuống bậc tam cấp ở phía trước chánh điện, rồi khuất sau bức
vách đá nơi trụ cờ. Tà áo trắng của nàng thướt tha trong làn gió
nhẹ. Ḷng tôi lại rộn ră, không yên. T́nh ngỡ đă quên đi, như
ḷng cố lạnh lùng… Người ngỡ đă quên lâu, nhưng người vẫn bâng
khuâng… (*) Ôi, bao nhiêu pháp quán tưởng, bao
nhiêu công phu thiền định, cũng tiêu tan theo tà áo lụa mỏng
manh ấy. Dù cố gắng mấy, tôi vẫn không sao tẩy xóa được nàng
bằng pháp quán bất tịnh. Pháp quán ấy đối với tôi bây giờ, chẳng
qua chỉ là lấy tính chất dơ nhớp phủ lên, hoặc gán ghép cho cái
trong sạch. Nó không c̣n công hiệu nữa. Nàng đă hiện diện trước
mắt tôi, ngự trị trong ḷng tôi, một cách thanh khiết, băng
trinh và cao đẹp. Tôi khép cửa, bâng khuâng đứng lặng một ḿnh
trong pḥng hồi lâu, bỗng xúc cảm ngâm lên bài
thơ ngắn của thầy
Tuệ Sỹ:
“Em mắt biếc ngây
thơ ngày hội lớn
Khóe môi cười
nắng quái cũng gầy hao
Như c̣ trắng giữa
đồng xanh bát ngát
Ta yêu người v́
khoảnh khắc chiêm bao.”
Ô
Thật là uổng công
tôi xa lánh nàng nửa năm trời, trở về viện để t́m không khí u
tịch mà tịnh dưỡng thân tâm, gần gũi thầy bổn sư là bậc cao đức…
Cuối cùng, chỉ một lần gặp gỡ trở lại, nàng đă đánh quỵ tôi bằng
nước mắt, bằng nụ cười và niềm hy vọng hồn nhiên của nàng. Quả
thật, t́nh yêu giống như cây rừng cỏ dại—tôi từng ví như
vậy—càng chôn sâu, càng bén rễ. Không có thứ đất cát hay gió băo
nào có thể chôn lấp được.
Lần gặp gỡ ấy, v́
chung quanh thềm chánh điện c̣n có nhiều người khác ḍm ngó, lại
có bạn của Như Như đứng ngoài chờ đợi, tôi và nàng chỉ trao đổi
với nhau trong một khoảng cách ngượng ngập và trong một thời
gian gấp rút; hoàn cảnh ấy, thời gian ấy, chưa đủ cho chúng tôi
bắc nhịp trở lại với nhau để cảm thông và để có thể nói hết cho
nhau được những ǵ ḿnh muốn nói. Cho nên, từ lúc nàng về, tôi
rơi trở lại vào trạng thái ngơ ngẩn, khật khùng của những ngày
tháng trước đây lúc c̣n ở chùa Linh Phong. Có thể nói tôi đă suy
sụp như một người bênh nan y, không chú tâm vào được chuyện ǵ
khác; đôi lúc tôi tưởng tôi không c̣n đủ sức để chờ đợi nàng
thêm nữa. Tôi muốn mặc áo vào, tự động xuống nhà nàng. Nhưng rồi
tôi cũng cố gắng kềm ḷng. Giữ lời hứa với nàng là không để cho
gia đ́nh nàng biết. Và tôi cứ ngồi thừ trong pḥng hoặc quanh
quẩn trước thềm chánh điện để chờ đợi nàng. Từng giờ, từng ngày
trôi qua. Dù nàng đă hứa là vài hôm nữa sẽ đến thăm, tôi vẫn cứ
ngóng nh́n, chờ đợi nàng ngay từ buổi tối cùng ngày và liên tục
trong những ngày kế tiếp.
Tôi không ngờ là
phải một tuần sau, vào giờ chỉ tịnh buổi trưa, nàng mới đến.
Ngày ấy là ngày thường, quanh khu vực chánh điện và tháp chuông
trống vắng vẻ, không người qua lại. Tăng chúng của viện đang
nghỉ trưa.
Đă một tuần trống
vắng trôi qua! Một tuần ấy, đối với tôi là cả một thời gian dài
đằng đẵng với bao nhung nhớ quắt quay hệ lụy. Cho nên, vừa nghe
tiếng gơ cửa, tôi biết ngay đó là nàng. Mở cửa ra, trông thấy
nàng, tôi run lên lẩy bẩy… Nàng im lặng bước một bước đến gần
tôi hơn, ngước nh́n tôi với một chút ngập ngừng, rồi nàng ôm
chầm lấy tôi. Tôi cũng quàng hai tay quanh dáng nhỏ của nàng.
Chúng tôi ôm lấy nhau lần đầu tiên. Không âm thanh nào cần thiết
nào được cất lên. Không sự giải thích hay mô tả cần thiết nào
được mở ra. Chỉ có tiếng đập của hai trái tim va vào nhau, nghe
như những bước chân lăng mạn của một cặp t́nh nhân nắm tay nhau
trốn chạy đến một miền đất xa lạ nào đó không c̣n bóng dáng của
con người và những ước lệ xă hội..
Tôi quên mất là bao
nhiêu phút trôi qua. Chỉ nhớ là một lúc lâu, tôi giật ḿnh nhớ
sực là chúng tôi ôm nhau như vậy rất nguy hiểm v́ cánh cửa pḥng
của tôi không đóng. Nếu lỡ có người nào đó bắt gặp th́ thật là
xấu hổ không những cho cá nhân chúng tôi mà c̣n cho cả viện nữa.
Tôi gỡ nhẹ tay nàng, bước đến cửa, mở hẳn hai cánh ra. Như Như
lúc đó mới hoàn hồn, đặt một tay lên ngực, lúng búng nói:
“Khang ơi, em phải
về ngay bây giờ. Ở nhà đă biết là hôm Phật Đản em đi với Giang
đến đây, gặp anh. Có một người nào đó cũng đi chùa này vào hôm
ấy, nói lại với d́ Nữ… Em bị la mắng dữ lắm… Ôi, em chẳng biết
phải làm sao. Thừa lúc ở nhà ngủ trưa, em lẻn đến đây với anh
một chút thôi để anh khỏi trông. Anh cho em địa chỉ ở đây đi, để
em viết cho anh, được không? Không hả? Sao vậy? Anh sợ quư thầy
khác bắt được thư em, phải không? Trời ơi, tại sao em không được
tự do như những đứa bạn em chứ? Ồ, có lẽ… chỉ tại v́ anh không
phải như những người con trai khác. V́ anh không muốn hoàn tục.
Anh luôn luôn muốn trở thành một thầy tu tốt, có danh vọng… phải
không?”
“Không, Như Như à,
đừng nói mỉa mai anh như vậy. Chỉ v́ anh không muốn hoàn tục,
thế thôi. Chẳng phải v́ danh vọng hay cái ǵ khác.”
“Nhưng, em biết là
anh yêu em mà, phải không? Anh nói đi, nói thực em nghe đi, anh
có yêu em không?”
Tôi lắp bắp nói nhỏ:
“Có.”
“Vậy mà anh vẫn
không biết được anh phải làm ǵ sao? Em đang khổ sở với sự cấm
cản, la trách của gia đ́nh đây, anh không biết sao?”
Tôi buồn bă quay
nh́n ra cửa sổ, nói:
“Anh biết, bởi vậy
đă có lần anh nói với em: chúng ta chỉ bồng bột thôi… Chúng ta
không nên… Chúng ta không thể… Và anh đă phải phấn đấu với chính
anh để dẹp bỏ cái điều không thể ấy.”
“Nhưng anh đâu có
dẹp bỏ được. Anh lánh mặt em, hơn nửa năm rồi, mà cuối cùng th́
sao? D́ Nữ đă nói cho em nghe hết sự thực về chuyện mấy ngày
trước. Và d́ c̣n lấy điều đó để xỉ vả em, cho rằng anh đă quyết
tâm quên em mà em không biết xấu hổ, cứ đâm đầu vào… Ôi, đáng lẽ
nghe được chuyện ấy, em nhục nhă không bước ra khỏi nhà nữa,
nhưng không được… V́ em không sao chịu đựng nổi sự thiếu vắng
anh. Khang à, dù anh có đánh giá em thế nào đi nữa, em vẫn muốn
nói với anh rằng… em muốn gặp anh, muốn nh́n thấy anh mỗi ngày.
Em khùng quá hả! Em thực t́nh không biết phải làm sao. Thôi, th́
gặp anh được lúc nào, em vui lúc ấy.”
“Như Như à… nếu ḿnh
có thể coi nhau như anh em, có lẽ sẽ dễ chịu hơn.”
“Đó là cách giải
quyết của anh đó à? Cho dù chuyện ấy có thể làm được đi, nhưng
gia đ́nh em, và những người khác, cũng không bao giờ chấp nhận
được cái ‘t́nh anh em’ đó của hai đứa ḿnh. Anh chỉ giỏi t́m
cách né tránh sự việc thôi chứ không trực tiếp giải quyết được
nó.”
Lời nàng nói làm tôi
giật ḿnh, tự thấy xấu hổ. Nàng đă đúng. Tôi không ngờ nàng nhỏ
tuổi hơn tôi mà đă có nhận xét sắc bén như vậy. Tôi chỉ biết né
tránh, chẳng có chút sáng suốt, đởm lược hay bản lĩnh nào để
giải quyết được êm thấm chuyện t́nh cảm của hai chúng tôi. Yêu
vẫn yêu, tu vẫn tu. Đàng nào cũng hết ḷng, đàng nào cũng muốn
thành tựu. Mà hai lănh vực đó chỉ có thể song hành với nhau được
trong một vài tông phái Phật giáo ở Nhật Bổn hay Tây Tạng, chứ
không thể nào được chấp nhận trong hai tông phái Phật giáo chính
thống ở Việt Nam này. Tự dưng trong một phút bốc đồng v́ cái
quyền lợi t́nh cảm ích kỷ, nhỏ bé của riêng ḿnh, tôi muốn điên
tiết, muốn gào thét to lên với mọi người rằng: Tại sao? Tại sao
Phật giáo Việt Nam không giống Phật giáo Nhật Bản hay Tây Tạng?
Tại sao thầy tu không được yêu đương! Tại sao tôi không thể yêu
một người rất đáng yêu! Tại sao bắt tôi phải chọn lựa chỉ một
cái trong hai cái mà tôi rất mê thích!
Thấy tôi buồn bă,
Như Như đổi giọng:
“Khang,
anh giận em hở? Em xin lỗi nha. Em nói chọc anh vậy thôi, chứ em
không có ư bắt anh phải như vầy như kia. Em biết anh là người tu
từ nhỏ, anh đâu có giống những người thanh niên khác. Ở chùa đâu
có ai dạy anh chuyện giải quyết vấn đề t́nh cảm và anh cũng đâu
có kinh nghiệm ǵ để giải quyết. Em hiểu anh. Thực ra, như có
lần em đă nói với anh, em muốn anh lúc nào cũng như vầy, trang
nghiêm, hiền lành, thật thà, khờ khờ khạo khạo…” nàng cười khúc
khích một lúc rồi tiếp, “anh là một ông thầy tu đẹp, dễ thương.
Em thích nh́n anh như vậy. Em đâu có đ̣i hỏi anh phải hoàn tục
hay phải… cưới em… Chỉ tại mọi người cấm cản em, không cho em
gặp anh, không cho em tiếp xúc anh, nên em mới nghĩ đến những
phương cách xa hơn để có thể có được anh mỗi ngày mà thôi.”
Nàng bước
đến gần, đưa một tay lên, vuốt ngực tôi. Tôi gỡ tay nàng, nói:
“Không
sao. Anh không giận Như Như đâu. Anh chỉ buồn là ḿnh quá nhu
nhược…”
“Tức là
không đủ mạnh để cắt đứt t́nh cảm với em, phải không?”
“Không
phải vậy. Nhu nhược là không đủ can đảm chọn lựa. Như Như có
biết không… có khi anh thấy anh say mê em như từng say mê con
đường giải thoát vậy. Khốn nỗi, hai thứ đam mê ấy lại tách làm
hai hướng đối nghịch.”
Như Như
ngước nh́n sâu vào mắt tôi. Có lẽ đây là lần đầu tiên nàng thực
sự hiểu được sự dằn vặt của tôi. Nàng chỉ có mỗi con đường yêu
đương để bước, bị trở ngại th́ có thể t́m con đường khác. Khó
khăn của nàng, đau khổ của nàng, c̣n có thể lấy thời gian mà rửa
sạch được. C̣n tôi, cả hai cách chọn lựa đều có thể kéo theo
suốt đời ḿnh nỗi dằn vặt âm ỉ ở tận cùng cái chiều sâu mang
mang hun hút của tiềm thức, của vô thức hay bất cứ ngơ ngách u u
minh minh nào đó của tâm hồn…
Bỗng Như
Như giật ḿnh, nh́n đồng hồ, nói mau:
“Thôi,
Khang ơi, em phải về kẻo nhà biết được là chết! Ủa, cái cầu
thang ǵ vậy?”
“Cầu thang
leo lên gác đó mà.”
“Có ai ở
trên đó không?” Như Như hỏi giọng ái ngại.
“Dĩ nhiên
là không. Pḥng này của anh th́ trên gác đó cũng của anh, đâu có
ai ở được.”
“Em lên
coi một chút được không?”
“Thôi, khi
nào coi cũng đâu có muộn. Bây giờ về kẻo bị la.”
“Anh nói
cũng đúng. À này, em hỏi anh một câu, anh trả lời thực nha. Suưt
nữa em lại quên chuyện quan trọng nhất mà hôm nay em muốn nói.”
“Ừ, nói
đi.”
“Nhưng anh
đừng có hiểu lầm em nghe.”
“Th́ nói
đi, chưa nói sao hiểu lầm hay hiểu đúng được.”
“Em muốn
đến đây, ở lại chơi tại pḥng anh một ngày một đêm được không?”
Tôi nghe
vậy th́ run bấn người lên, lúng búng nói:
“Ơ… như
vậy kỳ quá… mà nguy hiểm nữa. Lỡ ai biết được…”
“Hồi năy
đến đây, em biết ngay là có thể được. Pḥng anh nằm riêng biệt
như vầy, có ai biết em đến đâu.”
“Nhưng…
trong giới luật có nói…”
“Đó,
anh hiểu lầm em rồi. Bộ anh nghĩ em bậy bạ lắm hả? Em có xúi anh
phạm giới luật ǵ đâu mà anh nói chuyện giới luật. Em muốn đến
chơi với anh như em đă từng đi với con Giang bạn em ra Ninh Ḥa
ở lại đêm nhà nội nó vậy. Em chỉ muốn được gần anh, nói chuyện
với anh, tâm sự với anh suốt ngày suốt đêm cho thỏa. Em đâu c̣n
cách nào khác đâu. Anh chiều em đi mà. Ừ đi, ừ nhanh để em về
kẻo trễ.”
“Ừ.
Nhưng… bao giờ? Anh sợ quá! Hay để suy nghĩ lại đi,” tôi vẫn
chưa đủ can đảm để chấp nhận cái đề nghị hấp dẫn đó của nàng.
“Không,
phải quyết định ngay bây giờ, v́ cuối tuần này, con Giang lại đi
Ninh Ḥa. Hôm qua nó có tới rủ em, đă được ba mẹ chấp nhận rồi.
Bây giờ anh đồng ư th́ em sẽ qua nói riêng với nó là em không
đi. Nhưng nói với gia đ́nh th́ em nói là em đi với nó… Anh hiểu
không?”
“Không.
Nói ǵ ḷng ṿng mà nói nhanh quá, chưa hiểu kịp.”
“Trời
ơi, thiệt t́nh anh đó. Nói tóm lại là em được gia đ́nh cho đi
Ninh Ḥa chơi nhưng em không đi Ninh Ḥa, em lén đến đây với
anh, ở chơi một đêm, đến chiều tối hôm sau, em về. Hiểu chưa,
ông anh khờ?”
“Hiểu
rồi. Nhưng…”
“Không
có nhưn nhị nữa. Này nhé, đúng bảy giờ tối ngày thứ
Sáu, em đến
đây. Anh mở cửa sẵn cho em, đừng để em gọi hay gơ cửa lâu nha.”
“Ừ.
Nhưng, Như Như à... về nhà em cũng phải suy nghĩ kỹ lại xem em
có nên làm vậy không. Anh sợ…”
“Anh có
tin em không?”
“Tin.”
“Anh có
khinh em không?”
“Không.”
“Vậy là
được rồi. Mục đích của em là được gần anh, nói chuyện với anh
suốt ngày suốt đêm. Anh đừng nghĩ cái ǵ xa hơn để rồi sợ hăi.
Anh nói muốn coi em như em gái th́ hăy coi như em gái xem nào.
C̣n em, em tự hiểu em muốn ǵ mà. Em đâu có sợ, sao anh phải sợ
chứ? Nhớ nghe, tối thứ Sáu, bảy giờ. Hôm nay là thứ
Ba, c̣n một,
hai, ba ngày nữa. Bây giờ em phải về. À, nếu tám giờ mà chưa
thấy em đến th́ biết là có trở ngại, đừng đợi em nữa. Em sẽ đến
vào dịp khác.”
Nói
rồi, nàng nhón lên hôn tôi nơi má. Tôi đỏ mặt cúi đầu gằm xuống.
Nàng cười khúc khích rồi quay đi. Tôi bỗng nhớ sực một điều, gọi
nàng lại hỏi:
“Gặp
trường hợp ở đây có trở ngại th́ sao?”
“Em
lên, thấy trở ngại th́ em về, đến nhà một đứa bạn gái khác, hoặc
về nhà nói là hủy chuyến đi Ninh Ḥa. Vậy nha. Em về đây.”
Tiễn
nàng một đoạn, tôi đứng lại ở thềm chánh điện. Nh́n theo dáng
nàng vội vàng xuống núi, tôi thấy tội nghiệp cho nàng, và tôi
vừa cười vừa lẩm bẩm: “Người nhỏ nhắn, hiền lành như vậy mà tính
toán ứng biến sao lanh quá!” Và tôi cũng cảm thấy ái ngại thay
cho nàng. Nàng đâu phải hạng gái hư thân mất nết. Đối với tôi,
tâm hồn nàng, cả con người nàng, sạch như băng tuyết. Vậy mà
nàng đă phải sắp đặt mọi chuyện, dối cha mẹ, gạt bạn bè, để được
gần tôi, chỉ để nói chuyện, và để đỡ nhớ. Điều này là do đâu và
v́ ai? Phải chăng do gia đ́nh, do ước lệ xă hội? Hay chỉ v́ do
tôi, một kẻ xuất gia tham lam, chưa đủ nội lực và bản lănh để
quyết định chọn lựa một trong hai mối đam mê điên cuồng của
ḿnh?
Khi tôi
quay vào pḥng, nghĩ lại chuyện nàng sẽ đến vào tối thứ sáu,
bỗng thấy toàn thân rung lên. Một nỗi rạo rực rất phàm tục, bốc
dậy phừng phừng.
(*) Lời trong bài T́nh Nhớ, nhạc Trịnh
Công Sơn.