CHƯƠNG
SÁU
Sống ở viện đâu
chừng nửa tháng th́ tôi đâm ra chán ngấy chuyện dưỡng bệnh. Thật
ra tôi có c̣n bệnh hoạn ǵ nữa đâu. Những cơn bệnh trước đây chỉ
là ngoại thương, duy có căn bệnh đau bao tử có thể gọi là kinh
niên, nhưng cũng đă dịu đi rồi. Tôi không muốn chỉ nằm không, đi
dạo, ngắm cảnh… nữa. Tôi muốn t́m cái ǵ vui thú hơn, bèn theo
thầy Thông Chánh đến thư viện của viện để mượn sách.
Thư viện do thầy Tuệ
Sỹ phụ trách trông coi, chỉ mở cửa sau giờ cơm buổi chiều, hoặc
khi có thầy ấy ngồi khảo cứu trong đó. Kinh sách đủ loại. Ngoài
các bộ kinh đồ sộ của Phật giáo như Đại Bát Nhă, Đại Tạng và Tục
Tạng Kinh bằng Hán văn và Phạn văn, c̣n có hàng chục ngàn sách
báo phổ thông, từ loại biên khảo, đến các tác phẩm văn chương,
tư tưởng triết học cho đến các truyện tiểu thuyết t́nh cảm, xă
hội v.v… chẳng thiếu thể loại nào. Sách ngoại ngữ (Anh, Pháp,
Đức, Nhật…) cũng đầy hai tủ lớn. Tôi chưa có tŕnh độ sinh ngữ
để đọc thẳng sách ngoại ngữ nên chỉ t́m đọc các tác phẩm và tác
giả ngoại hạng trên thế giới qua các bản dịch Việt ngữ. Nghe nói
sách của thư viện đă bị thất thoát khá nhiều v́ có một bận lộn
xộn trước biến cố tháng 4 năm 1975, thư viện chẳng có ai trông
coi. Vậy mà số sách c̣n lại của thư viện cũng đủ làm tôi choáng
ngộp. Thư viện này đă lập từ lâu, từ khi tôi chưa xuất gia. Năm,
sáu năm trước, lúc tôi c̣n làm chú tiểu ở đây, tôi cũng biết có
thư viện nhưng đâu có th́ giờ và cũng chưa đủ tŕnh độ để tự t́m
đọc sách báo từ thư viện. Mấy năm tu học ở Hội An, rồi làm ruộng
rẫy, tôi cũng chưa có cơ hội nào được vào một thư viện để t́m
sách đọc. Bây giờ, lần đầu tiên đứng trước một rừng sách, tôi
không khỏi rung động, sáng rỡ cả đôi mắt. Tôi ham hố mượn cả
chồng sách đem về pḥng đọc. V́ là người trong viện, tôi không
cần phải làm thẻ hay thủ tục ǵ rườm rà. Thầy Tuệ Sỹ chỉ việc
ghi tên tôi vào sổ mượn sách với các tên sách muốn mượn, vậy là
xong.
Sách đem về, tôi đọc
ngấu nghiến một tuần, mười bữa, rồi đem trả, mượn sách khác. Cứ
tưởng theo đà đó th́ sẽ đọc được hết các sách Việt ngữ của thư
viện. Nhưng thầy Thông Chánh nghĩ sao đó, cho rằng chuyện đọc
sách tùm lum, không có kế hoạch, không có chương tŕnh như vậy
chẳng được ổn, bèn tính đến chuyện kèm học cho riêng tôi. Ban
đầu, chưa soạn được một chương tŕnh thích hợp, thầy tạm thời
dạy thêm Anh ngữ cho tôi. Nhưng chỉ một thời gian sau, thầy đề
nghị tôi học môn này với thầy Phước An, c̣n thầy ấy th́ dạy kèm
tôi môn Hán văn. Thầy Phước An dạy tôi Anh ngữ qua cuốn Kinh
Tân Ước của Thiên Chúa giáo. Thầy Phước An có dụng ư ǵ
trong việc chọn Kinh Tân Ước làm sách dạy th́ tôi không biết;
chứ riêng tôi, tôi rơ biết tŕnh độ của ḿnh lúc đó, dù có cởi
mở cách mấy cũng không nuốt trôi nổi bản kinh của một tôn giáo
khác được viết bằng Anh ngữ cổ. Cuối cùng, xét v́ chỉ có thầy
Tuệ Sỹ với sức học uyên bác mới có thể dạy được nhiều môn học và
dạy đủ mọi tŕnh độ trong thời gian dài lâu, thầy Thông Chánh đề
nghị giao tôi cho thầy Tuệ Sỹ kèm dạy và quyết định mọi thứ liên
quan đến việc học của tôi. Nghe đề nghị như vậy, tôi rất thích.
Vậy là sau khi thưa chuyện với thầy Tuệ Sỹ và được sự đồng ư,
thầy Thông Chánh đưa tôi đến pḥng riêng của thầy Tuệ Sỹ để học.
Chương tŕnh học do thầy Tuệ Sỹ soạn lấy, dựa vào tŕnh độ của
tôi qua sự thử nghiệm của thầy. Cách thử nghiệm cũng đơn giản
lắm: thầy đưa tôi một tập trong Đại Tạng Kinh (bản Hán), bảo tự
dịch thử cái tựa của A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận. Tôi đem về
dịch trong ṿng một ngày, tối đem lên tŕnh. Thầy đọc qua, cười;
bảo rằng giọng văn của tôi là giọng văn để sáng tác
văn chương chứ không phải để dịch kinh hay dịch cái ǵ có tính
cách nghiêm túc như loại biên khảo, nghị luận. Vậy là, trong môn
Hán văn, thay v́ dạy tôi bằng kinh luận Phật giáo, thầy dạy tôi
thơ Đường. Nhưng trong môn kinh luận Phật giáo, thầy cũng giảng
tôi nghe kinh Lăng Già qua bản Hán văn, bắt tôi học và
dịch từng chữ từng câu một trước khi nghe thầy giảng giải nghĩa
lư sâu xa bên trong–một sự sắp xếp cân bằng, hợp lư; vừa tránh
sự cục bộ, vừa giữ lấy được cái gốc. Ngoài môn Hán văn và kinh
Lăng Già, thầy c̣n dạy tôi Anh ngữ nữa. Ba môn học, sáu buổi
dạy. Nghỉ được ngày chủ nhật. Tôi khá bận rộn vào thời gian đó
v́ tuy chỉ có ba môn nhưng bài vở của thầy Tuệ Sỹ cho rất nhiều.
Thầy Tuệ Sỹ là một nhà thông thái trẻ tuổi của Phật giáo, có trí
thông minh kinh người đó, thầy tưởng ai cũng có thể học nhanh,
hay đúng hơn, thầy mong đợi người khác cũng thông minh như thầy
nên cho bài học thật nhiều. Tôi phải vất vả chạy đuổi theo mới
thanh toán kịp để khỏi bị rầy trách.
Học được với thầy
Tuệ Sỹ đâu chừng một tháng th́ một chiều nọ, công an thành phố,
mười mấy người, lên viện bao vây, lục xét, kiểm tra nhân số
thường trú của viện (họ gọi là nhân hộ khẩu thường trú). Lúc đó
tôi vừa học xong, rời pḥng thầy Tuệ Sỹ trở về pḥng riêng. Nửa
đường, ghé vào pḥng chú Phượng, người sư huynh đồng môn. Pḥng
chú Phượng là một cái pḥng nhỏ xíu như cái kho chứa đồ linh
tinh, nằm bên hông phía sau của pḥng khách và tổ đường. Hai đứa
chúng tôi ngồi tṛ chuyện với nhau trong khoảng thời gian công
an xét chùa mà chẳng hay biết ǵ cả. Công an đi lùng các dăy
pḥng tăng phía trên, lùa hết quí thầy quí chú xuống pḥng
khách. Cả thầy Tuệ Sỹ cũng bị mời xuống tŕnh diện tại pḥng
khách để kiểm tra. Nói chuyện một lúc, chú Phượng bỏ tôi ngồi đó
để xuống bếp lấy nước sôi chế trà. Tôi ngồi nơi bàn học của chú,
lấy sách đọc. Xuống bếp, chú Phượng bị công an mời luôn qua
pḥng khách để “làm việc.” Chỉ c̣n ḿnh tôi là vô t́nh
chẳng hay biết, cứ ngồi ung dung đọc sách chờ chú Phượng lấy
nước sôi châm b́nh trà mới.
Khi công an rút đi
rồi, chú Phượng trở về pḥng và nhớ sực lại là năy giờ tôi hăy
c̣n ngồi đấy.
“Ủa,
chú c̣n ở đây à? À, té ra năy giờ chú đâu có ra tŕnh diện đám
công an thành phố hả?”
“Tŕnh
diện ǵ? Chờ trà của chú đó.”
“Không
biết thực à? Mô Phật, năy giờ họ lục xét, kiểm tra tùm lum mà
chú ngồi đây đọc sách tà tà như vậy, c̣n chờ trà nữa, sướng
chưa!”
“Có
chuyện đó sao! Tôi đâu có biết. Mà kiểm tra ǵ vậy?”
“Kiểm
tra những người có tên trong hộ khẩu của viện. Ờ, chú đâu có
phải dân thường trú ở đây, vậy chú đâu cần phải ra gặp họ làm
ǵ.”
“Tôi
không phải dân thường trú. Ừ nhỉ, phải xin ghi tên vào hộ khẩu
mới được gọi là thường trú. A, tôi không thường trú, tôi chỉ là
kẻ sống tạm. Thế giới này không phải là chỗ thường trú của tôi.”
Chú
Phượng cười nói:
“Từ ngữ
bây giờ gọi chú là dân tạm trú đó, chú à.”
“Tạm
trú hả? Hay đó chứ.
Tạm trú
trong cơi tạm, ha ha.”
Té ra có
một cuộc kiểm tra nhanh chóng vừa diễn ra trong viện. Cuộc kiểm
tra này v́ nhằm vào ban ngày nên chủ yếu là xem những người có
tên trong hộ khẩu (tức Tờ Khai Gia Đ́nh của chế độ trước) có đủ
mặt hay không. Có lẽ v́ vậy mà tốp công an không để ư đến những
người khách viếng chùa cũng như những người đang sống trong chùa
mà không có tên trong hộ khẩu như tôi. Dù sao, nếu họ t́m thấy
tôi trong pḥng chú Phượng, hẳn là họ cũng lôi tôi ra ngoài thẩm
tra giấy tờ, rất là phiền phức. Có thể họ sẽ đuổi tôi trở về
“nguyên quán”, mà nguyên quán theo họ, có nghĩa là địa
phương mà một người dân được coi là cư dân thường trú và có tên
chính thức trong một tờ hộ khẩu ở chính địa phương đó. Họ sẽ
không chấp nhận tôi ở viện Hải Đức này v́ tôi chỉ hợp lệ với tờ
hộ khẩu của chùa Long Tuyền ngoài Hội An mà thôi. Trong thế giới
hữu hạn và trần tục, h́nh như càng mong đợi nhiều “Độc lập –
Tự do – Hạnh phúc” chừng nào th́ lại càng chuốc lấy nhiều sự
lệ thuộc, tù túng và khổ đau chừng nấy. Ngày rời Hội An, tôi có
đi theo chú Tửu đến công an ấp, Ủy Ban Nhân Dân Xă và Thị Xă để
xin giấy thông hành vào Nha Trang. Ủy Ban xă không cho tôi đi,
giữ đơn của tôi lại, bảo chờ Ủy Ban Nhân Dân Tỉnh cứu xét. Tôi
không cần chờ cứu xét, cứ bỏ đi. Bây giờ, tôi chẳng có giấy tờ
ǵ hợp lệ đối với chính quyền địa phương tại Nha Trang mà có thể
là cũng đă mất luôn sự hợp lệ đối với chính quyền Hội An Quảng
Nam nữa. Điều này rơ là phiền nếu công an Nha Trang hỏi tới giấy
thông hành của tôi.
Vào buổi
cơm chiều của ngày đó, thầy Hải Tuệ nh́n tôi với vẻ lo lắng. Rồi
thầy nói với thầy Phước Châu, vị quản chúng mà cũng là người có
trách nhiệm phụ tá thầy tôi để lo các công việc hành chánh, sổ
sách của viện:
“Chú Khang từ Hội An
về. Không biết vấn đề hộ khẩu lo làm sao?”
“Dạ… chắc để hỏi ư
ông Điệp xem sao. Nghe ông nói sắp có đợt làm lại hộ khẩu mới để
cho những người tạm trú được vào thường trú chính thức nên mới
có vụ xét chùa hồi xế chiều vừa qua. Nếu đúng là có làm hộ khẩu
mới, ḿnh nói ông ấy xin ghi tên chú Khang vào luôn thể.”
Ông Điệp là ai tôi
chẳng biết. Nghe nói gia đ́nh ông xuất hiện ở viện từ lúc lộn
xộn đầu năm 1975, được viện cho ở tạm nơi kho gạo củi dưới chân
núi. Nói rằng kho chứ thực ra nơi này trước kia là một dăy nhà
gọi là Tịnh nghiệp đường, được dùng làm chỗ tu học và
tịnh trú cho các thiện nam tín nữ phát nguyện thọ Bát quan trai
giới mỗi tháng, do đó ngoài chỗ thờ Phật c̣n có pḥng ngủ riêng
ở phía sau, đầy đủ tiện nghi điện nước. Từ những năm chiến
tranh, Tịnh nghiệp đường trở thành nơi tạm trú cho một vài gia
đ́nh phật-tử thân tín có công với viện di cư từ Huế hay Quảng
Trị vào. Và cũng từ đó, Tịnh nghiệp đường tạm thời biến thành
kho. Khi gia đ́nh ông Điệp đến th́ dăy kho đang bỏ trống, viện
cho họ ở tạm. Gia đ́nh ông Điệp chỉ có hai vợ chồng không con, ở
tạm như vậy cũng thoải mái. Nhưng đến khi “cách mạng vào”,
gia đ́nh ông ở luôn đó, không đi đâu nữa. Cuối cùng, kho gạo củi
của viện trở thành nhà ông Điệp. Ông Điệp làm hẳn hộ khẩu riêng
của gia đ́nh ông tại dăy nhà kho đó, không những vậy, ông c̣n
trở thành tổ trưởng tổ dân phố của khóm nhà sát chân núi và bao
gồm luôn cả hộ khẩu của viện Hải Đức nữa. Từ đó, gạo của viện có
mua về th́ đưa thẳng lên nhà bếp của viện, c̣n củi th́ chứa
trong ga-ra bỏ phế đối diện dăy nhà kho chứ không dám phiền gia
đ́nh ông coi sóc nữa–ga-ra trước kia chứa hai chiếc xe của viện,
nay xe đă bị nhà nước trưng thu nên biến thành nhà chứa củi cho
tiện. Chỉ c̣n một pḥng nhỏ của dăy kho ba gian là được dùng làm
nơi cho quí thầy trên viện gởi xe đạp.
Ngày hôm sau, thầy
Hải Tuệ cho mời ông Điệp lên viện để nói chuyện về tôi. Điều này
trông có vẻ như là nhà chùa phải xin phải phép một ông tổ trưởng
thế tục để cho một người xuất gia được ở lại tu học. Đầu óc cố
chấp và khinh bạc của tôi vốn không chịu được cái điều ngược
ngạo ấy. Cho nên khi chú Lịch, một chú tiểu mới xuất gia, sư đệ
của tôi, đến gơ cửa gọi tôi ra pḥng khách để ông Điệp xem mặt,
tôi không đi. Thực ra theo thầy Thông Chánh cho tôi biết, tổ
trưởng không có quyền hạn ǵ trong việc lập hộ khẩu của hộ
thường trú khác. Vậy mà không hiểu sao, thầy tôi lại cứ muốn hỏi
ư ông Điệp.
“Thưa với thầy là
không có tôi ở đây,” tôi dặn chú Lịch.
“Lỡ thầy bảo đi t́m
th́ sao?”
“Nói là t́m hoài
không thấy.”
“Ghê quá, nói dối
với thầy em sợ…”
“Đây không phải là
nói dối với thầy. Đây là giữ thể diện cho viện đó, chú không
biết à? Ông Điệp này là cái ǵ mà hạch sách đ̣i thầy phải đưa
cho gặp người này người kia rồi mới nói chuyện! Thầy chỉ cần cho
ông ấy biết là có một người mới đến, khi nào làm hộ khẩu mới th́
ghi thêm tên người ấy vào, đưa xuống cho công an chứng nhận. Bộ
có ông Điệp xem mặt rồi th́ công an mới chứng nhận sao?”
Chú Lịch ra tŕnh
với thầy là tôi vắng mặt. H́nh như ông Điệp không tin, hoặc cho
rằng việc tôi vắng mặt là thiếu lễ phép với ông th́ phải, nên
sau một lúc nói chuyện với thầy tôi, ông cứ một mực khẳng quyết
là chuyện hộ khẩu của tôi không thể làm được. Chú Lịch đứng hầu
quạt cho thầy tôi, đă kể lại tôi nghe.
“Trường hợp chú
Khang này, tôi thấy chắc khó mà vào hộ khẩu của viện được đấy
thầy ạ,” ông Điệp nói.
“Sao vậy? Hồi trước
chú ấy ở đây mà. Trong Tờ Khai Gia Đ́nh của chế độ cũ có tên chú
hẳn hoi. Chú đi học ở Hội An nay trở về lại th́ phải dễ dàng
chứ,” thầy tôi hỏi lại.
“Th́… th́ tại chú
không có mặt ở đây lúc kê khai hộ khẩu. Tờ Khai Gia Đ́nh hồi xưa
bây giờ có giá trị ǵ đâu. Lúc kê khai hộ khẩu th́ ai ở đâu ở
yên đó. Nguyên quán chú ở Hội An th́ nay cứ trở về Hội An chứ
đâu có việc ǵ phải trở về Nha Trang.”
“Nguyên quán của chú
ấy là Nha Trang đó bác, chẳng phải ở Hội An đâu.”
“Hộ khẩu ở đâu là
nguyên quán ở đó. Chắc chú ấy đă có hộ khẩu ngoài Hội An, vậy cứ
để chú ở Hội An đi, về Nha Trang làm ǵ rắc rối lắm.”
“Bởi nghĩ là có rắc
rối nên mới hỏi ư bác xem có cách nào không? Chú ấy bị bệnh mà,
ở ngoài đó đâu có đủ tiện nghi bằng trong này. Bây giờ chỉ muốn
xin ghi tên cho chú ấy được tạm trú thôi. Khi lập hộ khẩu mới
chắc chính quyền cũng cho chú vào chính thức thường trú luôn.”
“Hộ khẩu của viện
hiện nay trên hai chục người. Càng đông càng khó vào thêm. Nhà
nước họ đâu muốn tập trung đông đảo, nhất là quí thầy quí chú ở
đây đa phần nằm trong tuổi thanh niên. Khó lắm thầy ạ. Tạm trú
cũng không được nữa nói chi thường trú. Sao chú ấy không chịu ở
yên ngoài đó, lại chạy vào đây làm ǵ thế. Có được hộ khẩu ngoài
Hội An là may phước lắm rồi, c̣n dời đổi làm ǵ cho sinh
chuyện.”
“Tôi nói với bác
rồi, tại chú ấy bệnh nên tôi mới gọi về đây.”
“Ôi trời,
thầy khéo lo. Ở đâu cũng có bệnh viện của nhà nước lo cả rồi,
ngoài đấy hay ở trong này cũng vậy thôi.”
“Bệnh viện
nhà nước à? Ôi chao, có thuốc men ǵ đâu. Quí thầy ở viện đây có
bệnh cũng do viện tự lo thuốc lấy chứ có bệnh viện nào có thuốc
tốt mà chữa trị. Ở đây chữa toàn thuốc tư, bác sĩ tư cả đó bác
à.”
Ông Điệp
ngưng một lúc rồi cũng kết luận:
“Tôi nghĩ
công an không cho chú ấy nhập khẩu của viện đâu. May ra thầy có
xin cho chú nhập hộ khẩu ở một chùa nào đó ít người. Viện đông
lắm rồi.”
Thầy tôi
thở dài:
“Hai chục
người th́ có ǵ mà đông. Bác không nhớ hồi trước ở đây có trên
hai trăm người sao?”
“Hồi đó
khác, hồi này khác…”
Chú Lịch
chỉ nghe ngang đó th́ trở lại pḥng tôi, kể tôi nghe. Buổi
chiều, sau giờ ăn, thầy Hải Tuệ gọi tôi, dạy:
“Chuyện
xin cho con vào hộ khẩu của viện, theo cách ông Điệp nói, chắc
là không được. V́ người ta không thích viện ḿnh đông người.
Giảm đi th́ dễ dàng chứ tăng thêm th́ khó ḷng lắm. Cho nên,
thầy tính là mai mốt con qua chùa Linh Phong xin thầy Trừng Hùng
cho ghi tên vào hộ khẩu bên đó. Chỉ xin ghi tên vào hộ khẩu
thôi, c̣n ở th́ cứ ở đây. Ban đầu th́ xin tạm trú. Đến đợt khai
hộ khẩu mới, họ sẽ chứng nhận cho con được thường trú luôn. Thầy
nghĩ đó là cách hay nhất. Thầy Trừng Hùng nể thầy sẽ hết ḷng lo
cho con chuyện đó. À, trước kia con cũng đă từng tu học ở chùa
Linh Phong một thời gian mà, phải không? Thôi, ḿnh chỉ mong
được yên ổn tu học, người ta muốn sao th́ ḿnh cứ làm theo phép
tắc của họ cho xong đi. Ẩn nhẫn, chịu khó mới có điều kiện tốt
mà tu học được.”
“Dạ,” tôi
đáp.
Tôi chỉ có
thể cứng đầu cứng cổ với người khác, chứ với thầy tôi th́ tôi
chẳng bao giờ cứng đầu nổi. Thầy dạy sao th́ nghe vậy, chẳng dám
có ư kiến ǵ.
Hôm sau,
tôi cùng thầy Thông Chánh qua chùa Linh Phong, tức là chùa Núi.
Năm năm trước tôi được thầy tôi gởi đến đây để học làm một chú
tiểu ở chùa nhỏ thay v́ làm một chú tiểu thảnh thơi ở viện Hải
Đức. Thầy Thông Chánh là người biết rơ nhất chuyện thầy Trừng
Hùng xưa kia đối xử không được tốt với tôi nên trên đường đi,
thầy có vẻ e ngại dùm tôi:
“Thiệt là
oan gia đường hẹp! Rốt cuộc rồi cũng đâm đầu vào chỗ ông
Trừng Hùng. Thôi kệ, cứ làm cho được cái hộ khẩu cho yên thân
đi. Thầy Trừng Hùng bây giờ chắc cũng đổi tính rồi chứ không như
trước nữa đâu. Với lại chú đâu có xin ở chùa Núi đâu, chú vẫn ở
viện mà.”
“Đâu có
sao thầy. Con không nghĩ hay lo sợ ǵ chuyện thầy Trừng Hùng.
Chỉ thấy không vui khi người xuất gia ḿnh, hay nói chung là các
chùa ḿnh, phải bị kiểm soát chặt chẽ, phải chịu sự lệ thuộc vào
các lề luật của thế gian nhiều quá.”
Thầy Thông
Chánh im lặng không nói ǵ. Chúng tôi đi thêm một đoạn đường dài
nữa th́ đến chân chùa Núi, rồi phải leo mấy trăm bậc tam cấp nữa
mới đến chùa Linh Phong.
Chúng tôi không vội vào trong, ngồi
nghỉ mệt dưới hai tàng cây rộng của hai cây me cổ thụ hai bên
tam quan. Ngồi đây có thể thấy được xe cộ qua lại trên quốc lộ I
và khóm nhà dọc theo con đường dẫn vào viện Hải Đức. Từ một vị
trí cao, quan sát thiên hạ sinh hoạt, di động, là một tṛ chơi
vô cùng thú vị của những kẻ kiêu kỳ và nhiều cao vọng. Khi con
người dưới mắt ḿnh nhỏ bé như con kiến, sự vận chuyển cử động
của họ trở nên buồn cười và hèn mọn. Riêng tôi, lúc nào nh́n
ngắm cảnh người và vật từ núi cao, tôi đều cảm thấy tinh thần
ḿnh phấn chấn, vươn lên, có cảm giác như ḿnh bỗng trở nên cao
thượng và vượt hẳn những buộc ràng của thế gian dưới núi. Tôi
nói với thầy Thông Chánh:
“Đúng ra
người xuất gia chúng ta phải ở trong một hoàn cảnh khác hơn.
Không thể bị ràng buộc bởi các qui chế và luật tắc của thế
gian.”
“Muốn vậy
th́ phải… ở trong rừng sâu hoặc ở tít trên những núi cao, nơi
không có bóng dáng và sinh hoạt của con người.”
“Phải. Chứ
thầy nghĩ xem… các chùa ḿnh phải cúi đầu tuân phục những anh
công an địa phương th́ chán quá đi!”
“Sống
trong quốc gia nào ḿnh phải chịu các cái phép tắc thông lệ của
quốc gia đó chứ đâu có trường hợp ngoại lệ được.”
“Bởi vậy
mới nói là chán quá đi! Mấy anh công an học mốt văn minh của xă
hội chủ nghĩa, nói chuyện với quí ḥa thượng, thượng tọa cao
niên chỉ gọi anh xưng tôi, lại ra vẻ quan quyền,
kênh kiệu, hống hách. Truyền thống sa môn lâu nay không cúi đầu
trước vương quyền, nay phải xuống nước với mấy anh công an ít
học… c̣n ǵ là chí nguyện xuất trần nữa…”
Tôi nói
đến đó th́ máu nóng bừng dậy. Thầy Thông Chánh tỏ ư lo ngại, và
h́nh như thầy không thích tôi để ư chi đến những vấn đề đại loại
có liên quan đến chính quyền mới như vậy.
“Thôi, nói
chuyện khác đi.”
Tôi ngồi
một lúc, bỗng nhớ đến một bài thơ ngũ ngôn, tôi nói:
“Hồi đó
chú Tâm Hạnh có làm bốn câu thơ chép tặng con, để con đọc thầy
nghe:
Mây
giăng ngập đầu núi
Chí
nguyện vượt núi rừng
Cô thân
bên bờ suối
Không
nhà kiếp vẫy vùng.”
Tôi đọc
đến mấy chữ “không nhà kiếp vẫy vùng” th́ bỗng ứa nước mắt. Thầy
Thông Chánh vỗ vai an ủi tôi:
“Tùy thời
tùy cảnh mà sống và thể hiện bi nguyện của ḿnh. Xă hội mới có
những điều trái ư với ḿnh, nhưng không phải rằng chính trong
nghịch cảnh như vậy chí nguyện của ḿnh mới trở nên kiên cường
hơn sao?”
Tôi nghe
được lời đó th́ rúng động cả tâm can. Mười điều tâm niệm trong
Luận Bảo Vương Tam Muội, tôi thuộc ḷng từ lâu và thường đọc
hàng ngày lúc c̣n ở Hội An; vậy mà từ khi về đến Nha Trang lại
quên lăng, không hề đọc được tới một lần nữa. Nay nhờ thầy Thông
Chánh nhắc lại một ư trong mười điều tâm niệm ấy, tâm tôi bừng
nở ra, phấn khích vô cùng. Tôi mím môi ngước nh́n trời cao, đọc
tiếp đoạn cuối trong mười điều tâm niệm:
“Ngày
nay những người học đạo trước hết không chịu dấn ḿnh vào trong
mọi sự trở ngại, nên khi trở ngại áp đến th́ không thể đối phó.
Chánh pháp chí thượng, v́ vậy mất hết, đáng tiếc đáng hận biết
ngần nào!”
Ngồi thêm
một lúc ở bậc tam cấp, chúng tôi mới vào trong để gặp thầy Trừng
Hùng.
“A Di Đà
Phật, thầy khỏe không?” thầy Thông Chánh chào trước.
“Mô Phật,
lâu quá thầy mới qua chơi, a, có chú… Khang phải không? Chà, lớn
quá nhỉ? Chú mới từ Hội An về đó hỉ?”
Tôi chắp
tay chào thầy Trừng Hùng rồi đứng chờ thầy Thông Chánh thưa
chuyện. Nghe chuyện, thầy Trừng Hùng hỏi:
“Thầy Hải
Tuệ không qua được hở thầy?”
“Thầy
bệnh. Thầy nhờ tôi qua nói dùm với thầy một tiếng để lo cho chú
ấy sớm chừng nào tốt chừng nấy kẻo sắp tới đợt làm hộ khẩu mới
rồi. Nếu thầy muốn có thầy Hải Tuệ nói chuyện cho được rơ ràng
hơn th́ để tôi về tŕnh lại, hôm khác thầy Hải Tuệ khỏe sẽ qua
thưa chuyện với thầy sau.”
“Đâu có,
tôi chỉ hỏi thăm thầy ấy thôi. Ai nói lại chẳng được. Ḿnh chú
Khang qua đây c̣n nói được nữa là. Có thầy qua chơi là quí lắm
rồi. Thôi, uống nước đi. Chuyện hộ khẩu cho chú Khang dễ thôi.
Đây cũng có một chú từ Huế mới vào, tôi sẽ lo hộ khẩu luôn một
thể.”
Dĩ nhiên
thầy Trừng Hùng không thể nào quên được rằng ngôi chùa Linh
Phong mà thầy ấy đang trụ tŕ là do thầy tôi ủy nhiệm. Thầy Hải
Tuệ bổn sư của tôi mới đúng là vị trụ tŕ chính thức của ngôi
chùa này. Sau v́ bận rộn quá nhiều phật-sự, thầy tôi giao ngôi
chùa Linh Phong này lại cho thầy Trừng Hùng. Nay thầy tôi chỉ
nhờ vả thầy Trừng Hùng ghi tên tôi vào hộ khẩu với lời nhắn rằng
dù sao trước kia tôi cũng là một chú tiểu từng tu học ở đây, tức
là muốn đứng về mặt t́nh cảm để nhờ thầy ấy giúp đỡ chứ không hề
lấy uy quyền cựu trụ tŕ để ép thầy Trừng Hùng giúp tôi. Vậy mà
thầy Trừng Hùng vẫn cứ muốn theo nguyên tắc hành chánh, hay thứ
nguyên tắc cứng nhắc do chính thầy tự đặt ra để tôn pḥ, thẳng
thừng đ̣i hỏi thầy tôi bệnh hoạn phải đích thân hạ san (Hải Đức)
để thượng san (Linh Phong) mà đến nói chuyện hộ khẩu cho tôi.
Cũng may thầy Thông Chánh nhạy bén nhận biết, chọc thủng cái
nguyên tắc đó khi nó vừa manh nha.
Để xă
giao, thầy Thông Chánh và tôi theo thầy Trừng Hùng lên chánh
điện lễ Phật và đi dạo quanh chùa để biết thêm những đổi mới sau
nhiều năm không đặt chân đến. Xuống đến dăy nhà phía đông của
chánh điện, tôi gặp hai chú, một chú pháp danh là Phước Đức, một
chú pháp danh là Nguyên Thể. Chú Đức chính là người mà thầy
Trừng Hùng nói là từ Huế mới vào. Chú Thể cũng từ Huế vào nhưng
từ trước năm 1975. Chú Đức lớn hơn tôi khoảng năm, sáu tuổi, đă
thọ Sa Di thập giới (sa-di có thể phân làm hai hạng, một hạng là
Sa di ngũ giới, tức chỉ giữ năm giới cấm, về h́nh thức th́ sa-di
hạng này gồm các chú tiểu c̣n để chỏm, khi hành lễ chỉ mặc áo
tràng lam; hạng thứ hai là Sa di thập giới, như chú Đức và tôi,
giữ mười giới, đă cạo chỏm, đắp y vô-tướng, gọi nôm na là “y
trơn,” nghĩa là loại ca-sa không có điều, không có những ô
vuông như ca-sa của các thầy tỳ kheo). Chú Thể đâu chừng mười
bốn mười lăm tuổi, c̣n để chỏm. Chú Đức da ngăm đen, tướng vạm
vỡ như lực sĩ; c̣n chú Thể th́ da trắng xanh, ốm nhom. Trong khi
thầy Thông Chánh tṛ chuyện với thầy Trừng Hùng, tôi và chú Đức
cũng trao đổi với nhau chuyện học hành, chuyện trường lớp trước
năm 1975, và chúng tôi đă trở thành bạn hữu thật nhanh chóng.
Nói chuyện với nhau một lúc, chú Đức kéo tôi ra sân, vừa đi vừa
nói:
“Khi năy
chú nói chú được thầy Tuệ Sỹ kèm học, phải không? Vậy là chú may
mắn lắm đó. Nghe nói mấy thầy bên viện cũng như ở các chùa có
xin học mà thầy ấy không dạy. Chú có thể xin thầy ấy cho tôi học
chung với chú không?”
“À, có
người học chung th́ vui lắm chứ. Nhưng tôi chẳng biết thầy ấy có
chấp nhận không nữa. Để tôi dọ ư trước xem sao.”
“Chú nói
thầy ấy dạy chú ba môn chứ ǵ. Tôi chỉ xin học ké môn kinh Lăng
Già thôi. Nói thực, từ ngày Phật học viện tan ră đến giờ, chẳng
được học một chữ nào cả, buồn quá. Ở đây, tối ngày cứ đi cúng,
chẳng ra làm sao hết. Nếu chú xin được cho tôi học kinh Lăng
Già, tôi cám ơn chú hết sức đó.”
Thấy chú
Đức hiếu học, tôi thực cảm động. Chợt nghĩ đến t́nh cảnh của chú
và chú Thể hôm nay, trong ḷng bỗng nghe bùi ngùi thương cảm.
Nhớ lại ngày xưa, có dạo chính tôi cũng đă trải qua nửa năm nơi
ngôi chùa này. Những khó nhọc nào hồi đó th́ bây giờ tôi quên
khuấy cả rồi, nhưng tôi chưa quên được rằng thầy Trừng Hùng vốn
là người rất thủ cựu, khó tính. Tuổi trẻ nào đem vào ngôi chùa
Linh Phong do thầy ấy trụ tŕ th́ chắc chắn là phải trở thành
tuổi già một cách nhanh chóng. Tự dưng tôi bỗng ái ngại thay cho
chú Đức và chú Thể. Tôi hứa với chú Đức ngay về việc xin học với
thầy Tuệ Sỹ.
Tự tay
thầy Trừng Hùng ghi tên tôi vào sổ hộ khẩu, ở phần dưới của cuốn
sổ dành cho những người khách tạm trú, nơi có sẵn tên của chú
Đức. Như vậy, trong hộ khẩu chùa Linh Phong, chỉ có tôi và chú
Đức là tạm trú. Thấy thầy Trừng Hùng ghi tên tôi vào sổ hộ khẩu
rồi, thầy Thông Chánh mới chịu yên tâm kéo tôi về. Nhưng nghe
nói là thầy Trừng Hùng cũng cần phải đem sổ hộ khẩu ấy xuống Ủy
ban Nhân Dân địa phương để chứng nhận là có tên tôi mới được xin
ghi vào, chứ không phải chủ hộ tự ghi là xong.
Qua ngày
hôm sau, trong giờ học Anh ngữ, tôi xin phép thầy Tuệ Sỹ cho chú
Đức cùng học với tôi môn kinh Lăng Già. Thầy có vẻ không được
vui lắm, hơi do dự một lúc rồi mới đồng ư. Chiều đó, tôi qua
chùa Linh Phong báo cho chú Đức biết để cùng học với tôi môn
kinh Lăng Già vào ngày kế tiếp. Thầy Trừng Hùng biết được, gọi
chú Đức lại, hỏi:
“Mi đă
thuộc ḷng hai thời công phu và bốn cuốn luật Sa di chưa? Có
biết là kinh Lăng Già rất cao, tao đây học qua mà chưa nắm vững
mà bây đ̣i học th́ sẽ không hiểu chi hết chăng!”
“Môn này
do thầy Tuệ Sỹ giảng dạy th́ lo ǵ chuyện không hiểu. Không hiểu
th́ hỏi, hỏi th́ được giải thích thêm; hơn nữa, thầy ấy thừa
biết tŕnh độ người học để giảng giải chứ sao không! Chú Khang
học được th́ tôi cũng học được!”
“Thằng
Khang đó à, hứ, hắn khác, mi khác. Hắn lúc nào cũng muốn đi
băng, đi tắt ngang, học ngoài chương tŕnh, học thêm, học kèm,
lộn xộn, mất hết căn bản! Mi muốn hư như hắn à?”
Tôi đang
đứng nói chuyện với chú Thể, nghe được lời qua tiếng lại giữa
hai người lại có nhắc đến ḿnh là “thằng hư” th́ cũng
giật ḿnh. Té ra, trong mắt thầy Trừng Hùng, tôi là một đứa hư
đốn, không có nền tảng…
Khi chú
Đức đưa tôi ra cổng, tôi nói:
“Thôi, nếu
chú không đi học được th́ để tôi thưa lại với thầy Tuệ Sỹ. Nói
thực với chú, tôi sợ thầy Trừng Hùng cho rằng tôi rủ rê chú…”
“X́, ổng
nói ǵ th́ nói. Được học với thầy Tuệ Sỹ mà không học th́ uổng!”
Vậy là từ
đó, mỗi tuần một buổi, chú Đức qua viện Hải Đức học chung với
tôi môn kinh Lăng Già. Tôi với chú càng lúc càng thân thiết với
nhau hơn v́ trong hoàn cảnh không có Phật học viện của những năm
mới đổi thay chính quyền, tôi và chú là hai tu sĩ trẻ duy nhất ở
Nha Trang đang cùng học chung “một lớp.”
Ô
Pḥng riêng của tôi
là căn pḥng khá đặc biệt v́ nó không phải là một trong những
căn pḥng thuộc các dăy tăng pḥng của viện. Những ngày đầu mới
về Nha Trang, tôi được sắp xếp nằm ở một pḥng tập thể sát bên
hông chánh điện, chung với mấy chú tiểu. Sau đó chẳng bao lâu,
tôi được thầy Thông Nghĩa (sư đệ của thầy Thông Chánh) giới
thiệu cho một căn pḥng bỏ trống rất lư tưởng. Đó là cái gác
trống nằm phía bên trái của chánh điện. Hai bên chánh điện của
chùa có gác chuông và gác trống. Hồi xưa, chuông trống được đặt
trong hai căn gác này. Nay chuông trống cũng được đặt hai bên
chánh điện nhưng ở ngoài, ngay trước cửa vào căn gác cho tiện.
Hai căn gác v́ vậy bỏ trống, thầy Phước Châu (vị quản chúng của
viện) chiếm cái gác chuông để nghỉ trưa (v́ thầy có một pḥng
riêng khác rộng răi hơn); c̣n lại cái gác trống, thầy Thông
Nghĩa giao ch́a khóa cho tôi, bảo tôi lấy đó làm pḥng ở. Tôi
vào xem, thấy thật là lư tưởng. Và có thể nói đó là lần đầu tiên
trong đời, tôi được một pḥng riêng, không chung đụng với một ai
khác. Căn gác gồm hai tầng. Tầng dưới ngoài cửa chính mở ra thềm
trước của chánh điện c̣n có ba cửa sổ thật lớn ở ba hướng c̣n
lại. Cửa sổ phía trong pḥng ăn thông với dăy pḥng của mấy chú
tiểu, tức là dăy pḥng cũ mà tôi nằm trước đó, đă được đóng bít
lại bằng ván ép dày. Cửa sổ đối diện với cửa ra vào th́ mở ra
hướng nam, nơi có những cây bông sứ cao lớn rợp bóng, gió lùa x́
xào suốt ngày đêm; có cái “đơn” (tức là chiếc đi-văng
loại một người nằm) đặt sát cửa sổ đó. Cửa sổ c̣n lại mở ra phía
đông nam, tức là hướng chính diện của ngôi chùa. Từ cửa sổ này
nh́n ra, có thể thấy những hàng dương và bạc hà cao lớn trước
sân chùa; thấp thoáng sau những tàng lá rũ vi vút gió ấy là dăy
núi Hoàng Ngưu xanh thẫm ở xa. Chiếc bàn học nhỏ đặt ngay nơi
cửa sổ này. Diện tích của pḥng đâu chừng mười hai mét vuông, kể
ra th́ khá hẹp, nhưng tôi cũng chẳng mong ǵ hơn, v́ ngoài mười
hai mét vuông ở tầng dưới, tôi c̣n có khoảng mười mét vuông khác
ở tầng trên nữa. Bên cạnh cửa ra vào có một cầu thang bằng gỗ
đưa lên tầng trên. Gác chuông trống nhỏ dần ở phía trên nên diện
tích tầng trên hẹp lại. Tầng trên này trống trơn, chẳng có bàn
ghế hay giường chơng ǵ. Bốn vách có bốn cửa khung tṛn mang
h́nh chữ Thọ, có thể coi như là bốn cửa sổ tṛn, không có
cánh cửa. Những khe hở từ bốn khung chữ Thọ này cũng đủ mang gió
mát từ tứ phía lộng vào. Tuy có bất tiện là các khung chữ Thọ
này không mở ra được, tầng trên cũng rất lư tưởng cho việc tĩnh
tọa tham thiền. Các cửa sổ cao, khi đứng th́ hưởng được gió mát,
ngồi th́ khuất gió. Đóng cửa ra vào, rồi đóng luôn cả cái nắp
đậy cầu thang là có thể yên tâm tọa thiền, không sợ bị ai quấy
rầy. Mà thực ra, gác trống của tôi nằm ở vị trí rất biệt lập,
tách hẳn với các dăy tăng pḥng khác, suốt ngày chẳng ai tới
lui. Nửa tháng một lần sám hối lúc tám giờ tối mới có thiện nam
tín nữ tụ tập ở khoảng thềm trước của chánh điện. Ngoài ra, chỉ
vào ba tháng mùa hè mới có Phật tử tập trung tụng niệm vào giờ
ngọ mỗi trưa. Khi họ tập trung làm lễ th́ tôi cũng có mặt trên
chánh điện làm lễ, chẳng lấy ǵ làm phiền. Nhiều người trong
viện, ngay cả thầy tôi, cũng chẳng biết rằng gác trống đă trở
thành căn pḥng riêng của tôi nên ít khi nào có người ghé vào
pḥng tôi. Đúng ra việc sắp xếp chỗ ở cho tăng chúng ở viện phải
do thầy quản chúng đảm trách; nhưng từ sau năm 1975, khi mà nhân
số hai trăm người giảm xuống thành hai mươi mấy người th́ việc
sắp xếp không c̣n cần thiết nữa. Quá nhiều pḥng bỏ trống, những
người c̣n ở lại, ai muốn chọn pḥng nào th́ chọn. Sở dĩ những
ngày đầu, thầy tôi sắp tôi ở chung với mấy chú tiểu v́ không
muốn lạm dụng uy tín của thầy để cho tôi một pḥng riêng chung
dăy với quí thầy lớp trước. Căn pḥng ở gác trống, thực ra không
phải là căn pḥng chính thức; tôi có chiếm giữ nó cũng sẽ không
ảnh hưởng ǵ đến sinh hoạt của các thầy tỳ kheo trong viện cả.
Do đó, sau này, khi biết được tôi ở gác trống không do sự sắp
xếp của thầy hay vị quản chúng, thầy cũng hoan hỉ chứ không rầy
trách ǵ.
Do vị trí gác trống
tọa lạc ở một góc riêng biệt, thanh vắng và gần với sân trước
của ngôi chánh điện, tôi thường rảo bộ và ngồi nơi thềm đá gần
trụ cờ để ngắm cảnh chiều tà kéo lê những vệt nắng cuối cùng
trên đồng lúa bát ngát phía đông nam. Đồng lúa ấy bắt đầu từ xă
Đồng Nai gần Phước Hải và biển Nha Trang. Khoảng kết thúc của
đồng lúa lại được nối liền với rừng dừa và con sông Nha Trang ở
phía tây và tây nam của Nha Trang. Cảnh trí chung quanh tôi là
sự nối kết bất tận của những màu xanh. Trời xanh, biển xanh, núi
xanh, đồng xanh, rừng xanh, sông xanh và gần tôi nhất, lá xanh
từ các ngọn cây tỏa ra, rũ xuống, vươn lên, từ tứ phía. Nhưng
giữa một ṿm trời đất xanh xanh ấy, tôi vẫn thường thích thú dơi
theo những cánh c̣ trắng bay từ phía Đồng Nai ngang qua ruộng
lúa gần Đồng Ḅ, vượt khỏi những đọt cây cao dọc quốc lộ, ṿng
sau lưng ngôi chùa Kim Sơn trên một ngọn núi khác ở phia nam,
thấp thoáng qua băi sương lam trên những rặng dừa, rồi mờ hẳn
trong ráng hồng rực rỡ ở phía tây nam. Ngày nào cũng như ngày
nào, cứ vào khoảng sau sáu giờ một chút, có một đàn c̣ trắng,
xếp thành h́nh chữ V, bay qua. Năm phút sau, lại có một đàn c̣
khác cũng xếp thành h́nh chữ V, bay qua. Rồi chừng ba phút sau
nữa, có con c̣ bay một ḿnh, đuổi theo đàn c̣ thứ nh́. Có lẽ đó
là con c̣ ham chơi, lúc nào cũng về muộn. Cũng có thể nó là con
c̣ yếu sức nhất, không theo kịp sức đập cánh của đàn. Mà không
biết chừng nó là con c̣ thích bay lẻ, thích một ḿnh vỗ cánh
thong dong vào những phút muộn màng nhất sau một ngày đi hoang.
Tự dưng tôi thấy thích con c̣ lẻ ấy. Và như vậy, mỗi khi chờ
ngắm hai đàn c̣ kia bay qua, bao giờ tôi cũng hồi hộp chờ đợi
con c̣ bay lẻ phía sau, như thể chính nó mới thực sự thể hiện
được kiếp sống và đường bay cô liêu kỳ tuyệt giữa lằn ranh huyền
ảo của đất trời thiên thu.
Ô
Chiều hôm ấy, giờ
Hán văn, tôi đến pḥng thầy Tuệ Sỹ. Từ xa, tôi đă nghe tiếng
tây-ban-cầm (guitar) từ pḥng thầy vọng ra, lúc trầm ấm,
lúc réo rắt. Tôi bước nhẹ vào pḥng thầy, khẽ kéo chiếc ghế,
ngồi xuống một bên, chờ đợi. Ngón đàn của thầy vô cùng điêu
luyện. Lúc đó, tôi chưa học đàn, chưa biết đàn, nhưng cũng có
chút nhạy bén về âm nhạc để thưởng thức tài nghệ độc tấu tây ban
cầm của thầy (v́ dù sao, từ thưở nhỏ, tôi đă từng nghe các anh
chị trong nhà đàn địch ca hát, và chiếc máy hát trong nhà tôi
cũng đă từng phát thanh liên tục nhiều giờ trong ngày qua yêu
cầu của khá nhiều sở thích dị biệt trong nhà). Bản nhạc thầy
đang đánh là một bản nhạc cổ điển Tây phương tôi chưa từng nghe
qua th́ phải. Nhưng bản nhạc quen hay lạ đối với tôi lúc đó
không quan trọng lắm; chỉ cái phong cách vừa tŕnh tấu vừa
thưởng thức một cách đam mê của thầy ấy mới thực sự làm tôi rung
động, thích thú và bị cuốn theo ḍng nhạc lúc nào không hay.
Thầy nằm trên đi-văng, gối đầu hơi cao, hay tay ôm đàn, mắt nhắm
lim dim, mười ngón tay như những vũ công tinh thuần, nhảy múa
nhịp nhàng và uyển chuyển trên những phím đàn với những tiết
điệu lúc thăng, lúc trầm, lúc êm dịu, lúc bập bùng xôn xao… Và ở
tấu khúc chót của bản nhạc, tôi nghe chừng như từng đợt sóng
nước tràn níu vào bờ xanh, lung lay những lá cỏ trên băi cát
vàng, và một con c̣ trắng vụt bay lên, bay lên… Thầy ấy như đắm
ḿnh trong một trạng thái xuất thần, nơi đó chỉ có sự trôi lướt
của những thanh âm và sự im lặng, nối đuôi nhau, rồi cuống quít
quyện vào nhau, lan tỏa ra, tràn ngập, tràn ngập… Tôi cũng hoàn
toàn ch́m lắng vào ḍng âm ba vi diệu đó.
Tiếng đàn ngưng bặt
khá lâu rồi mà tôi vẫn c̣n như thất thần ngồi im một chỗ. Đến
khi thầy ấy hỏi tới, tôi mới giật ḿnh.
“Vào lâu chưa?”
“Dạ… cũng mới thôi,”
tôi đáp.
Thầy đến bàn nước
pha cà-phê, hớp vài hớp, hút xong một điếu thuốc, rồi thầy bắt
đầu dạy tôi môn Hán văn với bài Đằng Vương Các Tự của
Vương Bột, bậc kỳ tài được xưng tụng là một trong Tứ kiệt
của thời Sơ Đường, Trung Hoa.
Thầy kể tôi nghe
rằng năm đó đô đốc Hồng Châu là Diêm Bá Dư đăi tiệc ở gác Đằng
Vương, mời hết các văn thi sĩ cùng các đại gia vọng tộc đến để
xin mỗi người một bài tự trong bữa tiệc, mục đích là để khoe tài
văn chương thi phú của người con rể. Vương Bột từ xa đi thuyền
buồm đến cũng vừa lúc nhập tiệc. Đô đốc Hồng Châu thấy Vương Bột
nhỏ tuổi (mới mười lăm, mười sáu), có ư khinh dể, không mời tham
gia viết bài tự. Sau v́ nể lời các đại văn nhân khác mà miễn
cưỡng trao giấy bút cho Vương Bột viết thử. Vương Bột cầm bút
viết một mạch. Viết đến đâu, có người của đô đốc chép lại từng
đoạn đem dâng đô đốc xem thử; đô đốc đọc qua mấy đoạn đầu liền
giật ḿnh.
“Nam Xương cố
quận, Hồng Đô tân phủ; Tinh phân Dực, Chẩn, Địa tiếp Hành, Lư.
Khâm Tam Giang nhi đái Ngũ Hồ, Khống Man Kính nhi dẫn Âu Việt.
Vật hoa thiên bảo, Long quang xạ Ngưu, Đẩu chi khư; Nhân kiệt
địa linh, Từ Trĩ hạ Trần Phồn chi tháp…”
Đến đoạn bất hủ của
Vương Bột th́ đô đốc run lên bần bật, không dám đem bài tự của
chàng con rể đưa ra nữa. Đoạn ấy như sau:
“Hồng tiêu vũ tễ,
Thái triệt vân
cù.
Lạc hà dữ cô vụ
tề phi,
Thu thủy cộng
trường thiên nhất sắc.”
(Thuở ấy tôi chưa
dịch nổi, nhưng sau này, tôi có thể tạm dịch sát nghĩa như vầy:
Khi cầu vồng tan và mưa tạnh hẳn, muôn sắc ảnh chiếu rực rỡ trên
đường mây. Có con c̣ lẻ cùng bay với ráng chiều, trong khi làn
nước thu và ṿm trời rộng th́ chung một màu bạc ánh).
Khi thầy Tuệ Sỹ đọc
và dịch qua bốn câu ấy, nhất là hai câu sau, tôi cũng run lên
bần bật như đô đốc Hồng Châu năm xưa vậy.
Chiều hôm đó, tôi
không dám ngồi trước thềm rêu trước sân chùa để dơi theo bóng
con c̣ lẻ bay ngang đồng lúa. Không dám làm nhưng rất thèm muốn.
Vâng, dù đóng cửa pḥng, leo lên gác trống cao, ngồi khuất dưới
bốn khung chữ Thọ, tâm tôi vẫn như làn nước thu, ảnh hiện đường
bay cô độc của con c̣ trắng lướt qua cùng mây chiều.
Qua ngày hôm sau,
tôi viết một lá thư thật ngắn cho thầy Tuệ Sỹ:
“Kính thầy,
Con không học
nữa, không đủ sức học nữa. Nếu một ngày nào đó con có thể đi học
lại b́nh thường, mong thầy đón nhận. Và quan trọng nhất, xin
thầy đừng giận trách về việc bỏ học của con hôm nay.”
Tôi cũng báo cho chú
Đức biết để chú khỏi phải đến học kinh Lăng Già với thầy Tuệ Sỹ
nữa, v́ tôi không học th́ có lẽ thầy cũng không muốn dạy lớp
đó nữa. Chú Đức la lên:
“Trời ơi, tôi có một
giờ học như vậy mà chú báo hại làm cho mất luôn!”
Tuy vậy, chú ấy cũng
cười vui với tôi, chẳng hỏi lư do v́ sao tôi quyết định bỏ học.
Đó cũng là thói quen của Đức. Chú thường chờ đợi tôi tự động
giải thích hơn là nêu câu hỏi.
C̣n thầy Thông Chánh
là người biết sớm nhất, hỏi tôi:
“Sao, có chuyện ǵ
vậy? Đâu phải chú học không nổi, phải không? Hay chú thấy mệt?
Có bệnh trở lại không?”
“Không. Con không
bệnh, nhưng… con thấy h́nh như có một cái ǵ uổng phí khi tốn
quá nhiều th́ giờ để lên lớp, để làm bài…”
Thầy Thông Chánh
cười, nhưng nói với giọng rất buồn:
“Học hành chẳng bao
giờ uổng phí th́ giờ cả. Không nỗ lực lúc trẻ th́ sẽ ân hận sau
này, như bản thân tôi đây, chừng này tuổi mà có làm được tích sự
ǵ đâu.”
Tôi nh́n thầy ấy,
tính nói một câu, nhưng không nói, chỉ nghĩ thầm trong bụng:
“Thầy th́ lúc nào
cũng khiêm cung, tự hạ; thực ra, chính bản thân thầy, cuộc đời
tu hành của thầy đă là một tuyệt tác rồi… cần ǵ phải làm nên
tích sự ǵ khác bằng vốn liếng sách vở!”
Thấy tôi chẳng nói
năng ǵ, thầy Thông Chánh khoát tay, bảo đừng bàn tới chuyện đó
nữa, khi nào có hứng cảm học hành th́ lo học. Thầy ấy lúc nào
cũng dễ thương, cũng thông cảm và chiều chuộng tôi như vậy.
Ít hôm sau, mẹ tôi
lên viện, t́m gặp tôi, nói liền:
“Thầy Tuệ Sỹ có cho
mẹ biết là con bỏ học. Thầy nói con thông minh, học được lắm, mà
sao lại bỏ học, thầy chẳng hiểu. Thầy bảo mẹ khuyên con nên học
lại, đừng có ham chơi…”
“Con không biết nữa.
Chỉ thấy là không học được, cần phải nghỉ học. Con không muốn
học bất cứ cái ǵ trong thời gian này.”
Thuyết phục tôi
không được, mẹ tôi về.
Nửa tháng sau, thầy
Tuệ Sỹ nhập thất, không tiếp xúc ai, không ra khỏi pḥng, trong
ṿng một tháng. Và trong ṿng một tháng thầy Tuệ Sỹ nhập thất,
tôi bắt đầu đọc thơ của nhiều thi sĩ từ thơ Đường Trung Hoa cho
tới các thi nhân Việt Nam tiền chiến, hiện đại… rồi tôi tập làm
thơ. Tôi tưởng tôi sẽ là thi sĩ và sẽ sống với thơ, thơ, thơ, là
đủ hạnh phúc rồi, không cần phải học hành chi nữa. Cái ngông
cuồng đó là do từ đâu? Tôi không rơ. Có thể là do bẩm tính ham
chơi biếng học có sẵn từ nhỏ. Có thể do tác động từ chính con
người thơ mộng của thầy Tuệ Sỹ. Mà cũng có thể là do ở phía trời
xa, mỗi lúc chiều tà, có con c̣ trắng nhỏ, một ḿnh bay ngang
lưng núi thẳm, khuất dần trong cụm mây chen ánh hồng rực rỡ ở
trời tây… Lạc hà dữ cô vụ tề phi, thu thủy cộng trường thiên
nhất sắc.