CHƯƠNG
BẢY
Có thể nói là do ở
tuổi mới lớn, cùng với cái tâm lười biếng một cách đáng ghét của
một kẻ vừa khỏi bệnh, nên khi được đặt vào hoàn cảnh thơ mộng
của chùa Hài Đức, tôi bỗng dưng trở nên kẻ hư hỏng, buông thả,
dễ dăi với chính ḿnh một cách quá đáng. Quen với cái đà
“dưỡng bệnh,” tôi hầu như đánh mất đi ư thức tự nguyện khép
ḿnh vào kỷ luật và cả thời khóa tu tập hàng ngày mà tôi vẫn
thường tinh tấn theo đuổi xưa nay. Khi nào đến phiên tôi tụng
kinh, th́ tôi đắp y lên điện Phật tụng kinh; ngoài khóa lễ được
thầy quản chúng cắt đặt đó, tôi không hết ḷng thiền định hay
tŕ tụng danh hiệu Phật trong pḥng riêng nữa. Nói “không hết
ḷng” có nghĩa rằng ngay cả trong những lúc đang tọa thiền,
tôi cũng không được định tâm cho lắm; và tôi cũng chẳng có chút
cố gắng nào trong việc kềm giữ tâm ư ḿnh khi biết nó đang chạy
rông như một con ngựa bất kham. Quả thực là tâm chí tôi đă vô
cùng xuống dốc. Đôi lúc thức dậy nửa đêm, tôi ngồi lặng trên
giường, tự phản tỉnh, tự răn nhắc chính ḿnh, nhưng rồi đâu vẫn
vào đấy. Khi chuông báo thức buổi khuya trổi lên, tôi cũng thức
dậy theo mọi người, nhưng đó chỉ là thức theo thói quen, chứ
không phải thức dậy để tọa thiền hay tụng niệm. Và thay v́ dành
những giờ phút thanh tịnh buổi sớm để lắng tâm tu tập, tôi đọc
sách, đọc truyện, có khi là những truyện tiểu thuyết trữ t́nh.
Đối với một người thế tục, sinh hoạt như thế kể cũng khá lành
mạnh rồi: dậy sớm, đọc sách đọc truyện chứ có phải cờ bạc rượu
chè hay làm hại ǵ ai đâu! Nhưng đối với một tăng sĩ ở chùa, hay
đối với chính tôi, một thằng tôi ở đang ở t́nh trạng sa đà buông
lung nhất, tôi cũng tự biết tôi đă dần dần trở thành một “phi
hảo tăng”, tức là tăng sĩ không tốt–đây là từ thông dụng
trong chùa, đọc thấy trong luật Sa-di Oai Nghi. Không có sự đau
khổ nào to lớn bằng cái đau khổ của một kẻ tự biết ḿnh sa lầy
mà không bấu víu hay níu kéo vào đâu được để ngoi lên.
Nhớ năm xưa mới xuất
gia, được thầy chỉ dạy, tâm chí tôi bừng bừng hướng đến mục tiêu
giải thoát giác ngộ, nhất định cầu làm Phật, bằng không th́ cũng
làm một vị tăng chân chính, xứng đáng là rường cột của đạo pháp.
Không bao giờ tôi có thể tưởng được rằng có ngày tôi xuống dốc
một cách tàn hại như vầy. Đă có lúc tôi hứa sẽ quyết tâm vượt
qua, nhưng rồi ư chí tôi mềm lũn, và tôi lại dấn bước vào sự dễ
dăi, buông xuôi, mặc t́nh cho tháng ngày trôi qua.
Tôi từng có cảm giác
là ḿnh trở nên mới mẻ hơn từ lúc vừa hết bệnh ở Hội An, từ lúc
lên xe đ̣ trở về Nha Trang. Nhưng phải chăng con người mới của
tôi là như thế này? Tôi thực không hiểu sao tôi không c̣n chút
năng lực hay chút quyết tâm nào để chống lại sự buông thả tâm ư
của ḿnh. Không những tôi bắt đầu tập tành làm thơ, viết văn, mà
c̣n học nhạc, thổi sáo, đàn và ca hát… nữa.
Tất cả những thứ kể
trên, những tṛ tiêu khiển của người lớn thế tục, tôi đều hăm hở
tự học lấy. Viết văn, làm thơ, tôi say mê viết những truyện dài
đầu tay của ḿnh vào thời gian ấy; ngoài ra, tôi c̣n làm cả một
tập thơ trên trăm bài. Học đàn, tôi nhờ người ta mua giúp một
cây ghi-ta cũ, rồi tự tôi xuống phố mua cuốn sách Tự Học Tây Ban
Cầm của Lan Đài và Hoàng Bửu, tự học ṃ lấy cho qua phần nhạc lư
căn bản, sau đó, thỉnh thoảng tôi ghé về nhà vài tiếng đồng hồ
để anh tôi chỉ thêm về phần thực hành. Với sự miệt mài tập
luyện, tôi mau chóng nắm vững các thế bấm hợp âm (gamme)
để đệm hát. Rồi tôi lại tập hát. Có bao nhiêu tập nhạc ở nhà,
tôi mượn hết, bất kể là loại nhạc ǵ. Như vậy, từ dân ca đến
t́nh ca của Cung Tiến, Phạm Duy, Đoàn Chuẩn Từ Linh, Trịnh Công
Sơn, Vũ Thành An, Phạm Thế Mỹ, Nguyễn Đức Huy… tôi đều hát qua.
Tôi cũng thuộc ḷng khá nhiều bản t́nh ca trong khi trái tim quê
mùa của tôi chưa biết nhảy đập ǵ theo điệu yêu đương cả. Học
sáo, tôi mua cây cây sáo trúc ở một hiệu sách, mua cả cuốn băng
nhạc và sách dạy thổi sáo của nhạc sĩ Nguyễn Hữu Nghĩa. Chỉ
trong ṿng vài tháng, tôi đă nghiễm nhiên trở nên một “người
lớn;” không những chỉ là người lớn, mà c̣n là một “nghệ sĩ”.
Vâng, khi làm tất cả những điều trên, quả là tôi cảm thấy ḿnh
có vẻ như một người lớn, một nghệ sĩ thực thụ. Làm sao có thể
phủ nhận được rằng một kẻ thức khuya dậy sớm, ngồi viết văn làm
thơ bên tách cà-phê đen nóng, hoặc ngồi đàn ca một ḿnh dưới
những đêm trăng… lại chẳng phải là một người lớn, một nghệ sĩ!
Hệ quả của sự ham
thích làm người nghệ sĩ là tính chất ướt át lăng mạn bắt đầu
manh nha trong cách diễn đạt văn thơ của tôi. Cho nên, khi đọc
một bài thơ của tôi, thầy Thông Chánh đă tỏ ư lo ngại, hỏi tôi:
“Sao bài nào cũng có
chữ em hết vậy? Em là ai? Có phải là chú có một đối tượng
thương yêu kiểu trai gái ngoài đời?”
Tôi ngụy biện:
“Không, có ai đâu,
em ở đây chỉ là nhân cách hóa, cụ thể hóa chân lư mà
thôi. Tôi t́m em có nghĩa là tôi t́m chân lư đó mà.”
Dù tôi đă giải thích
như vậy, thầy Thông Chánh cũng không yên tâm. Thầy nói:
“Chân lư đó đâu cần
phải cụ thể hóa bằng một từ ngữ gợi h́nh gợi ư như vậy! Mà cần
ǵ phải cụ thể hóa, chân lư th́ cứ nói là chân lư chứ cần ǵ
phải gọi bằng em! Nguy hiểm lắm chứ chẳng lợi ích chi cả. Chú
không biết là ngôn từ cũng có đời sống riêng và mỗi chữ, mỗi
tiếng nói đều có biểu tượng của chúng sao! Khi chú lặp đi lặp
lại từ em, không phải là một h́nh ảnh nào đó hiện lên
trong đầu chú sao? Chân lư của chú sẽ mượn h́nh ảnh một nữ nhân
để đến với chú. Rồi chú sẽ làm ǵ với cái chân lư đó?”
Tôi cười, không đáp.
Có lẽ thầy Thông Chánh không nhớ hoặc không cảm thấy như tôi lúc
đó rằng những bài thơ có đầy những chữ như chân lư, lư tưởng, lư
trí, thể tính, trí tính, trí tuệ, trí thức, tri thức… th́ chẳng
c̣n ǵ là thơ. Nhưng tôi cũng đâu có quên là thầy Thông Chánh
từng nhắc nhở tôi rất nhiều về chuyện đề pḥng nữ nhân. Một câu
tôi nhớ hoài là: “Ninh dĩ xích đồng uyển chuyển nhăn trung,
bất dĩ tâm tà thị nữ sắc” (có nghĩa là: “Thà lấy thỏi đồng
nung đỏ lăn vào mắt chứ không đem cái tâm tà vạy để liếc nh́n
sắc đẹp của nữ nhân”). Những lời khuyên nhắc ấy trước kia tôi
rất trân trọng v́ biết đó là thiện chí hướng dẫn, bảo vệ của
thầy ấy dành cho một người sơ tâm, bản lănh yếu kém như tôi. Với
kinh nghiệm tu tập nhiều năm, chứng kiến nhiều người vấp ngă,
thầy ấy không muốn thằng bé ngoan hiền, mới lớn như tôi phải sa
chân vào những cạm bẫy. Thầy ấy vẫn c̣n muốn d́u tôi đi từng
bước thận trọng, chín chắn. Nhưng bây giờ, những lời khuyên nhắc
của thầy đă mất hết tác dụng. Tôi nghĩ tôi đă thành người lớn và
tôi muốn tự ḿnh sắp đặt đời sống của chính ḿnh. Tôi không muốn
bất cứ ai kiểm soát hay răn nhắc ǵ tôi nữa–ngay cả thầy bổn sư
của tôi cũng vậy, tôi chỉ thấy thầy nh́n tôi từ xa, im lặng; có
lẽ thầy đă nh́n rơ hiện tượng “nên người” từ tôi, nên để
mặc t́nh tôi tự do sinh hoạt chứ không can dự vào như hồi tôi
c̣n bé. Chỉ có t́nh cảm thân thiết giữa tôi với thầy Thông Chánh
là c̣n dùng dằng, dây dưa một thời gian ngắn, rồi mỗi lúc mỗi
trở nên xa cách dù rằng chúng tôi vẫn c̣n sống chung trong một
mái viện, ăn chung trong một pḥng ăn, tụng kinh chung nơi một
chánh điện… Tất cả đều bắt nguồn từ sự ương ngạnh của tôi, từ ư
chí muốn tự lập của tôi. Dĩ nhiên khi tôi trưởng thành, có ư chí
tự lập, th́ đó niềm vui cho những người đă từng hướng dẫn, giáo
dục tôi. Nhưng nếu sự trưởng thành ấy chỉ là sự tăng trưởng của
một cái bản ngă, hay là sự lớn mạnh bề mặt của một cơ thể theo
thời gian và tuổi tác th́ điều này lại khác. Huống chi chính v́
hăm hở chạy theo ảo tưởng trưởng thành ấy mà tôi ngấm ngầm cắt
đứt sự liên hệ tốt đẹp xưa nay giữa tôi và thầy Thông Chánh. Sự
kiện này, có khi tôi tự thấy là vô ơn, bạc bẽo. Tôi không thể
ngờ được là nó có thể xảy ra cho một chú tiểu vốn ngoan ngoăn
biết nghe lời như tôi.
Ô
Chú Thân bên chùa
Tỉnh hội là một người bạn học cũ cùng lớp Sơ đẳng Phật học với
tôi từ những năm trước 1975. Khi tôi được chuyển ra học ở Phật
học viện Quảng Nam, chú ấy được đưa vào học tại Phật học viện
Nguyên Hương ở Phan Thiết. Nay các Phật học viện đều bị giải
tán, chúng tôi gặp lại nhau và trở nên khá thân. Chú Thân có
những tư tưởng mới mẻ, độc đáo lạ thường trong cách hiểu về
thiền học cũng như về giáo lư tịnh độ. Chú là một con người bạt
mạng, sống rất thực và bất cần dư luận. Chính v́ vậy mà trong
mắt nhiều người, kể cả vị bổn sư của chú là Thượng tọa trụ tŕ
chùa Tỉnh hội, chú có vẻ như một kẻ hoang đàng, phá phách nhất
trong những chú sa-di ở Nha Trang. Tôi thấy điều đó là bất công
với chú, v́ đối với tôi, chú vẫn là một người bạn trực tính, một
người bạn tốt, sống hết ḷng với bạn hữu. Ngoài chú Thân ra, ở
chùa Tỉnh hội c̣n có chú Mỹ (thường gọi là Mỹ đen để phân
biệt với một chú Mỹ cùng tên nhưng có nước da trắng hơn–Mỹ
trắng). Chú Mỹ đen từ Sài G̣n về Nha Trang sau năm 1975,
cũng trở thành một người bạn mới của tôi khi tôi thường tới lui
chùa Tỉnh hội để tṛ chuyện với chú Thân. Như vậy, từ viện Hải
Đức, chùa Tỉnh hội và chùa Linh Phong, chúng tôi bốn người, tính
theo thứ tự tuổi tác: chú Đức, chú Mỹ, chú Thân và tôi, kết
thành bạn với nhau. Chú Đức và chú Mỹ cùng tuổi nhau và lớn hơn
chú Thân bốn tuổi, c̣n chú Thân th́ lớn hơn tôi hai tuổi.
Đúng như người ta
nói, “ngưu tầm ngưu, mă tầm mă.” Khi tôi rơi xuống tận
cùng sự “bê tha” của đời ḿnh vào giai đoạn đó th́ tự
dưng con người tôi lại thích hợp vô cùng với những mẫu người
cũng trội bật về sự phóng tâm như các người bạn mới này. Dù sao,
cũng phải nh́n nhận rằng, trong bốn đứa chúng tôi, tôi và Đức
hợp với nhau nhiều hơn v́ chúng tôi biết hối tiếc, và biết đau
khổ v́ sự phóng túng của ḿnh. Những ǵ hai chú kia làm, tôi với
Đức cũng có làm: cử tạ, đi bơi, đọc tiểu thuyết, đọc truyện kiếm
hiệp, v.v… Nhưng tôi và Đức, thỉnh thoảng có gh́m cương lại, có
nhắc nhau về chuyện tu học, có trao đổi với nhau về Phật pháp;
c̣n hai chú kia th́ không. Hai chú ấy không bao giờ hối hận về
những ǵ họ làm. Và trong khi hai chú kia lúc nào cũng tỏ ra là
những kẻ lịch lăm, lanh lợi, có thể thích ứng với bất cứ hoàn
cảnh khó khăn nào của đời sống thiền môn hay đời sống thế tục
th́ tôi và Đức vẫn cứ là hai thanh niên tu sĩ khờ khạo, có vui
chơi ǵ th́ cũng biết cái chừng mức để dừng lại, biết hổ thẹn,
và không bao giờ dám đi hết con đường phóng túng của ḿnh.
Ô
Thực là quá sức
tưởng tượng khi một tốp công an thành phố lên nói chuyện với
thầy bổn sư của tôi và thông báo quyết định của họ rằng, họ cần
mượn tạm dăy “nhà mới”, tức là dăy tăng pḥng nằm ở vị trí cao
nhất của đồi Trại Thủy, nơi có quả đại hồng chung của viện.
Không biết họ có nói rơ lư do ǵ với thầy tôi không, nhưng tôi
nghe những người trong viện bàn tán x́ xầm rằng, họ lấy cớ mượn
dăy tăng pḥng đó để kiểm soát thành phố mà thực ra là để kiểm
soát sinh hoạt của viện. Viện Hải Đức xưa kia nổi tiếng là nơi
đào tạo nhiều thế hệ nhân tài của giáo hội. Đến nay, dù đă giải
tán nhưng hăy c̣n khá đông thành phần tu sĩ trẻ ở lại. Trên hai
mươi tu sĩ ở tập trung một chỗ, đối với chính quyền, quả là điều
đáng gờm. Dĩ nhiên là do họ đă quyết định trước nên thầy tôi
không thể từ chối. Có thể đó là chỗ yếu của thầy tôi. Thầy chỉ
c̣n biết thông báo lại một sự việc đă rồi cho quí ḥa thượng,
thượng tọa lănh đạo giáo hội tỉnh. Và khi tin này đến tai những
người trẻ trong viện, sự bất măn hiện ra thấy rơ. Mọi người đều
có vẻ qui tội cho thầy tôi đă không dám mở miệng từ chối thẳng
với công an thành phố về việc chiếm dụng trắng trợn cơ sở của
viện như thế. Trong số những người bất măn đó, có cả tôi. Với
bầu máu nóng của thanh niên, tôi đă không sao hiểu nổi rằng có
những việc không thể giải quyết đơn giản bằng sự chống trả kịch
liệt với bạo lực. Tôi cũng quên rằng thời điểm của những năm
cộng sản mới cầm quyền tại miền Nam, không phải là lúc mà người
dân, bao gồm cả những tu sĩ các tôn giáo, có thể nói chuyện tay
đôi với nhân viên nhà nước–bổn phận của người dân lúc ấy là phải
lắng nghe và làm theo mệnh lệnh của nhà nước đưa ra. Tôi chỉ
thấy rằng việc đó thực phi lư, mà đă phi lư th́ không thể chấp
nhận. V́ vậy, không nhiều th́ ít, trong ḷng tôi cũng đă nẩy
sinh một mối bất kính với chính vị thầy bổn sư của ḿnh. Đây là
điểm tối kỵ trong truyền thống sinh hoạt của Phật giáo. Khi một
đệ tử đă mất đi hay chỉ phai nhạt đi niềm kính tín đối với sư
phụ, điều này không có nghĩa là hắn sẽ không bao giờ thành công,
nhưng hắn sẽ phải tự đi đến đích bằng những bước chân vô cùng
quệnh quạng. Sư phụ dù ở xa hay gần, vẫn là một biểu tượng rất
mạnh và tối cần thiết dể làm chỗ nương tựa tâm linh cho đệ tử.
Để tiến xa, để đạt đạo, người đệ tử cần vượt qua thầy, nhưng
không bao giờ nên đốn ngă thầy. Khinh thị, bất kính là những con
mọt, đục khoét dần dần để rồi đốn ngă niềm tin và ư chí của
người đệ tử lúc nào chính hắn không thể ư thức được.
Những ngày kế tiếp,
quí thầy ở dăy “nhà mới” phải dọn xuống các pḥng phía
dưới. Trai đường rộng lớn của viện phải bị chia làm hai, một nửa
trước dùng làm trai đường, nửa sau c̣n lại, làm pḥng tăng. Đâu
chừng hơn nửa tháng th́ công an kéo lên. Tăng sĩ và công an cùng
chung sống trên một ngọn đồi. Hay có thể nói một cách ư vị hơn:
Phật và Ma vương tựa lưng nhau trên một bồ đoàn. Nhưng dù có
muốn thi vị hóa cách mấy về sự kiện này cũng không xóa nổi thực
trạng đau buồn là một nửa phần trên thơ mộng nhất của ngọn đồi
Trại Thủy đă bị cưỡng hiếp. Vâng, phải nói một chữ thô
lậu như thế mới diễn tả chính xác được sự xâm phạm của một cái
tục tằn đối với một cái ngây thơ trong trắng. Đồi Trại Thủy suốt
mấy chục năm là cảnh thiền, bây giờ bắt đầu có sự hiện diện của
những người thế tục thiếu thiện tâm. Chúng tôi không c̣n tự do
đi dạo trên đỉnh đồi nữa. Con đường từ viện qua Kim Thân Phật Tổ
cũng bị cắt đứt. “Nhà mới” trở thành “đồn mới.”
C̣n ǵ để mất mát
nữa chăng? Tôi tự hỏi như vậy, khi bước đi trên con đường Hoàng
hôn và có cảm giác như có người từ dăy “nhà mới” đang
nh́n ḿnh, theo dơi ḿnh.
Tôi không muốn rời
khỏi pḥng nữa. Ở ĺ trong pḥng, viết văn, làm thơ, đàn ca một
ḿnh. Khi ra ngoài, tôi t́m đến các chú Đức, Mỹ và Thân để tṛ
chuyện cho quên đi rằng có một đám mây đen đang bao phủ cuộc
sống thơ mộng xưa nay của mái viện Hải Đức.
Ô
Tôi được chú Đức
thông báo là phải có mặt tại chùa Linh Phong vào ngày mà thầy
Trừng Hùng, nhân danh chủ hộ–tức là người đứng đầu tờ khai gia
đ́nh, hay nói cho dễ hiểu là người chủ nhà–mang tờ hộ khẩu của
chùa Linh Phong cùng với các bản khai lư lịch của từng cá nhân
trong chùa đến khóm Phước B́nh để công an chứng nhận thay hộ
khẩu mới. Có thể công an sẽ cho đ̣i những người tạm trú xin vào
thường trú có mặt tại trụ sở Khóm hay Phường, xét xem có hợp lệ
để cho vào danh sách thường trú hay không. Khóm Phước B́nh ở
ngay dưới chân núi, từ tam quan chùa Linh Phong có thể nh́n
thấy; cho nên tôi và chú Đức chỉ việc ngồi chờ đợi ở bậc tam
cấp, nếu thấy thầy Trừng Hùng bước ra khỏi trụ sở, ngoắc tay,
th́ cùng xuống núi để vào trụ sở Khóm. Sau một giờ đồng hồ, thầy
Trừng Hùng từ trụ sở Khóm bước ra, chẳng ngoắc chẳng kêu ǵ.
Thầy lên núi, về chùa. Sổ hộ khẩu mới đă có. Tên chú Đức và tên
tôi cũng đă nằm trong phần danh sách thường trú của chùa Linh
Phong. Chú Đức chắp tay nói đùa với tôi: “Nam mô thường trú
Tăng Bảo,” như là một câu chúc mừng cho hai đứa.
Nhưng khi tôi chưa
kịp quay về viện Hải Đức th́ thầy Trừng Hùng gọi cả tôi lẫn chú
Đức vào pḥng khách của chùa, nhắc nhở:
“Từ nay tụi bây đă
được yên ổn rồi đó. Liệu mà tu học đàng hoàng, có đi đâu xa ra
khỏi Nha Trang th́ cũng phải báo tao biết, xin được giấy thông
hành của công an cho hợp lệ rồi mới được đi. Không phải có hộ
khẩu rồi muốn bay nhảy đi đâu th́ mặc ư. Thằng Đức không nói làm
chi, chứ thằng Khang, mi ở bên Hải Đức mà tên th́ gởi ở đây, cái
đó hơi lộn xộn đó nghe. Lỡ nửa đêm nửa hôm công an nó vào xét
chùa, không có mặt mi th́ tao ăn nói làm răng. Để hôm nào tao
thưa lại với thầy bổn sư của mi về chuyện ni mới được.”
Tôi thưa:
“Dạ nếu công an có
hỏi th́ thầy nói con đang dưỡng bệnh và tu học bên Hải Đức. Hai
chùa cùng trên một núi, cùng một khóm phường, chắc họ chẳng làm
khó dễ chi đâu.”
“Nói như
mi th́ khỏe quá. Tao sợ không đơn giản như rứa thôi.”
Buổi chiều
ăn cơm ở pḥng ăn của viện, tôi nghe quư thầy bàn về việc lập hộ
khẩu mới. Ai cũng cho rằng nhà nước cần phải làm hộ khẩu không
phải chỉ để kiểm soát và thống kê nhân số mà c̣n là biện pháp
ngăn chận và giảm trừ sự đi lại của nhân dân hầu đóng bít sự
thông tin giữa các địa phương, sự thông tin mà họ nghĩ là bất
lợi cho chính sách tuyên truyền một chiều của họ. Kiểm soát hộ
khẩu cũng là cách để loại trừ những thành phần chông đối chính
quyền từ nội địa hay hải ngoại có thể len lỏi trốn nấp trong các
cư gia; ngoài ra, cũng qua chính sách hộ khẩu, nhà nước kiểm
soát vấn đề thực phẩm của nhân dân, lấy chuyện cơm áo để sai sử,
kềm chế, thưởng, phạt nhân dân theo đường lối và mục tiêu hoạch
định của đảng và nhà nước.
Nghe quí
thầy bàn luận tôi mới vỡ lẽ. Kiến thức sách vở của tôi lâu nay
chỉ quanh quẩn trong các chủ đề văn chương, triết học, Thiền học
và đạo học Đông phương… nên không làm sao tự nhiên mà thấu hiểu
được những vấn đề của chính trị dù rằng trong phương diện này có
những chỗ rất thực tế, căn bản, rất dễ nắm bắt, như chuyện kiểm
soát hộ khẩu chẳng hạn, chẳng có ǵ cao siêu khó hiểu như những
vấn đề trong đạo học hay triết học. Bất chợt tôi cũng nhận ra
rằng từ ngày những người cộng sản nắm lấy chính quyền của cả hai
miền, tâm trí thuần phác và hướng thượng của giới tu sĩ trẻ Phật
giáo, trong đó có tôi, tự dưng lại rơi xuống, dây dưa vào những
vấn đề h́nh nhi hạ tầm thường của thế gian; tự dưng tôi bắt đầu
biết chú ư vào thời sự, vào những sinh hoạt của người thế tục,
trong đó có cả người dân và chính quyền. Phải chăng đến tuổi
thanh niên th́ con người tự dưng bắt đầu chú ư đến thời thế hay
chính thời thế đă xô đẩy những người thanh niên của mọi thành
phân xă hội phải buông bỏ những hoài băo, mộng mơ của họ để nh́n
vào những thực trạng khổ đau của nhân t́nh chung quanh?
Trở lại
cái chuyện rất thực tế là vấn đề hộ khẩu. Chuyện tôi “xin”
vào hộ khẩu của chùa Linh Phong chẳng khác ǵ xin được ở tù, xin
được vào cái ṿng kiểm soát của nhà nước. Mà không phải chỉ
riêng tôi, nhân dân cả nước đều vậy. Không có tên chính thức
trong một hộ khẩu th́ không mua được thực phẩm, bị coi là bất
hợp lệ và không được cấp thẻ Chứng minh nhân dân (tức thẻ
căn cước); không có thẻ Chứng minh nhân dân và hộ khẩu th́ có
thể bị bắt ngoài đường, hoặc bị bắt ngay trong nhà, trong chùa
của ḿnh nếu có công an xét hỏi. Cho nên, biết vào hộ khẩu là tự
chui đầu vào ṿng kiểm soát, người ta cũng phải xin vào. Không
c̣n cách chọn lựa nào khác. Thà để nhà nước kiểm soát c̣n hơn
không có gạo ăn, c̣n hơn sống trong nỗi phập phồng lo âu là có
thể bị bắt bất cứ lúc nào v́ tội không có giấy tờ. Trong xă hội
mới, những người không có hộ khẩu, không có thẻ Chứng minh nhân
dân th́ thường bị coi như là những kẻ phản động, bị t́nh nghi
tàn quân, là gián điệp của nước ngoài cài lại hoặc mới đưa vào…
Những tội đó, khoan bàn đến chuyện có đúng sự thực hay không,
chỉ nói đến “t́nh nghi” là đă coi như tù mọt gông, không
có ngày trở về.
Nhưng đợt
làm hộ khẩu mới của năm 1977 này c̣n có một mục đích khẩn cấp
khác nữa mà nhà nước cần phải thực hiện càng sớm càng tốt, đó là
việc tuyển mộ thanh niên nam nữ lên đường nhập ngũ (từ ngữ mới
gọi là “đăng kư nghĩa vụ quân sự”), để sang Kampuchea làm
nghĩa vụ quốc tế và để chống lại sự xâm lược của Trung Hoa mà
nhà nước gọi là “quân bành trướng Bắc Kinh” hay “bọn
bá quyền Trung quốc”.
Đâu chừng
một tháng sau khi lập xong đợt hộ khẩu mới, toàn thể thanh niên
tuổi từ mười tám đến hai mươi lăm đều phải tŕnh diện tại các
khóm phường để “học” về chính sách “nghĩa vụ quân sự”. Có giấy
mời cho mỗi cá nhân gởi đến từng nhà. Tăng sĩ trẻ ở các chùa
cũng nhận được giấy gọi đi học tập chính sách nghĩa vụ quân sự
cũng như giấy gọi đi đăng kư nghĩa vụ quân sự. Viện Hải Đức có
trên mười vị trong lứa tuổi quân sự. Các chùa chung quanh là
Long Sơn, Phước Điền, có sáu vị khác. Và chùa Linh Phong, cùng
chung một khóm Phước B́nh, xét theo nhân số thường trú ghi trong
hộ khẩu, có chú Đức và tôi. Chuyện nghĩa vụ quân sự trở thành đề
tài bàn tán bất tận của thành phố Nha Trang. Giới phật-tử thường
đi chùa cũng xôn xao, nhốn nháo khi nghe tin các tu sĩ trẻ cũng
bị gọi đi nghĩa vụ quân sự.
Trong khi
việc đăng kư (tức là ghi danh) nghĩa vụ quân sự hạn định tuổi
thanh niên từ mười tám đến hai mươi lăm th́ chuyện học tập về
chính sách nghĩa vụ quân sự lại mở rộng ra: cả những người ở
tuổi từ hai mươi sáu đến ba mươi lăm cũng phải tham dự. Vậy là
hầu như gần hết nhân sự của viện Hải Đức phải có mặt tại các lớp
học này. Đây là cả một chuyện động trời khi vấn đề quân sự của
chính quyền mới đă không loại trừ thành phần tu sĩ các tôn giáo.
Mà cũng lạ, tự dưng mọi thanh niên nằm trong lứa tuổi qui định
nhận giấy mời rồi là phải lục tục kéo nhau đi, không ai dám vắng
mặt, không ai dám chậm trễ–phải
chăng là do ngay từ những ngày đầu tiên của chế độ mới họ đă
chứng kiến hoặc bị ám ảnh từ trong tầng đáy của tâm thức về sự
khắc nghiệt, vô t́nh một cách man rợ của một chính quyền mượn
danh nhân dân nông nghiệp vốn nổi tiếng với những vụ đấu tố cha
mẹ, truy bức tù hăm những người giàu có và quyền thế bằng bản án
“địa chủ,” hoặc chặt đầu và chôn sống những kẻ yêu nước
nhưng không cùng phe, không cùng chính kiến?
Học tập
(thực ra phải nói là đến nghe thông cáo) xong, mỗi người về nhà
phải tự viết một “bản thu hoạch”, tức là một bản tóm thâu
những ǵ ḿnh nghe được, có thể kèm theo ư kiến cá nhân của ḿnh
đối với vấn đề nghĩa vụ quân sự. (Điều hợp lư không thể chối căi
rằng khi những người nông dân tay lấm chân bùn, đùng cái vớ được
vận may lớn, lên cầm bút, ngồi bàn giấy, th́ ắt hẳn là phải dùng
những từ ngữ và câu nói quen thuộc của sinh hoạt nông nghiệp qua
h́nh ảnh hồ hởi, hăm hở cân đong lúa má vào mùa gặt).
Sau khi
nộp bản “thu hoạch về vấn đề Nghĩa vụ quân sự chống bành
trướng Bắc Kinh đang có chủ tâm xâm lăng nước ta” đó, thanh
niên chúng tôi được giấy mời đi khám sức khỏe. Trung tâm khám
sức khỏe được dựng lên vội vàng bằng cách mượn tạm một dăy pḥng
của trường Vinh Sơn và giao cho một tốp y tá nghiệp dư (tức là
không chuyên nghiệp, không qua trường lớp chuyên môn nào) phối
hợp với Ban chỉ huy quân sự thành phố đảm trách. Sau đợt khám,
trong hơn hai mươi thanh niên tu sĩ thuộc các chùa chung quanh
viện Hải Đức chỉ lọt hai người vào danh sách hạng A, tức là hạng
có đầy đủ sức khỏe để vào quân dội. Hai người đó là chú Mỹ và
tôi. Nhưng chú Mỹ đă hai mươi bốn tuổi rồi nên cuối cùng lại có
được giấy chứng nhận là Quân dự bị hạng II. Tuổi của chú ấy, nhà
nước chưa cần lắm. Nhà nước đang cần nhất là tuổi gần mười tám
như tôi, hay cao lắm là hai mươi. Vậy là chỉ c̣n duy nhất ḿnh
tôi dính vào danh sách “Trúng tuyển nghĩa vụ quân sự hạng I”.
Từ lúc có
giấy chứng nhận trúng tuyển, tôi có thể nhận thấy được vẻ ái
ngại, thương cảm của những người trong viện, của bằng hữu các
chùa khác cũng như của các phật-tử dành cho tôi. Thầy Thông
Chánh cũng bỏ qua chuyện tôi tránh mặt thầy không nói chuyện với
thầy từ nhiều ngày trước, t́m đến pḥng riêng hỏi thăm, an ủi
tôi. Hẳn nhiên thầy ấy, cũng như mọi người, đều nghĩ rằng, những
thanh niên thế tục đúng tuổi lính c̣n muốn bỏ trốn huống chi một
tu sĩ xuất gia từ bé như tôi làm sao có thể vui vẻ được khi
chính ḿnh bị gọi đi cầm súng. Riêng tôi, tôi không quá đau buồn
và tuyệt vọng như mọi người tưởng. Dĩ nhiên tôi không ham thích,
không tự nguyện đâm đầu vào quân đội, nhưng có thể nói là ít
nhất, tôi cũng đă chuẩn bị trước tư tưởng để b́nh thản chấp nhận
nghịch cảnh nào xảy đến cho ḿnh. Biết đâu, đây lại chẳng là một
trong những thử thách cam go nhưng cũng có giá trị cho cuộc đời
tu hành của tôi. Thử thách ấy, nghịch cảnh ấy, khó khăn ấy,
không phải trong Luận Bảo Vương Tam Muội đă từng nói là
phải biết chấp nhận th́ mới thông suốt, mới vượt qua được đó
sao! Cho nên, dù có người khuyên, xúi bỏ trốn, tôi cũng chỉ
cười, lắc đầu. Tôi đâu cần phải né tránh nghịch cảnh! Tôi tin
cái thử thách trước mắt sẽ nung chín ư chí và bồ đề tâm của tôi
qua những lằn lửa đạn và nỗi phập phồng mong manh giữa hai bờ
sinh tử. Tôi
sẵn sàng chấp nhận nó.
Ô
Biển Nha Trang vào
những buổi sáng mùa hè, mặt nước phẳng ĺ như nước hồ thu, không
gợn sóng. Chỉ đến trưa đứng bóng mới thấy sóng dồn trùng trùng
điệp điệp, đẩy vào những làn bọt trắng xóa như những phiến mây
mỏng rơi rớt xuống từ trời cao, có đó rồi tan biến đó, không để
lại dấu vết ǵ sâu đậm trên mặt nước bao la.
Chúng tôi xuống băi
lúc mặt trời đă lên cao khỏi ngọn đảo lớn nhất ngoài khơi xa. Từ
ngày xuất gia, hiếm khi nào tôi xuống băi biển để tắm. Người tu
ở chùa lâu năm, quen ăn bận kín đáo – áo nhật b́nh, áo tràng, cà
sa, và cả bộ đồ vạt ḥ mặc trong ngày, thứ nào cũng dài, rộng,
che kín tay chân và toàn thân – nên họ rất khó chịu, hoặc có thể
nói thẳng rằng rất mắc cỡ, khi để lộ một phần tay trần của ḿnh
trước người lạ, nói chi cởi trần mặc quần đùi để tắm trước đám
đông! Tôi chỉ tắm ở cửa Đại (Hội An) vài lần với các chú tiểu
học chung lớp hồi trước năm 1975. Băi biển cửa Đại là nơi không
có nhiều người tắm như ở băi Nha Trang, vả lại lúc đó chúng tôi
c̣n là con nít, thế mà c̣n thấy e dè, ngại ngùng, huống chi
xuống băi biển Nha Trang vào mùa hè, đông nghịt những người là
người. Nhưng từ khi kết bạn với chú Thân, chú Mỹ, tôi đă quen
dần với chuyện xuống băi tắm, ngay cả vào những giờ tụ tập cao
điểm nhất của băi biển.
Dù vậy, khi xuống
băi, tôi cũng đỏ mặt, núp núp lén lén như ăn trộm. Có cảm giác
như hàng trăm cặp mắt đang đổ dồn về phía ḿnh. Hễ xuống được
nước là bơi theo các chú kia ra tít ngoài khơi xa, nơi không có
một bóng người nào qua lại. Nơi chúng tôi bơi đến thỉnh thoảng
mới có một chiếc tàu chạy ngang. Chỉ c̣n một phần tư đường nữa
là có thể đến ḥn đảo lớn nhất ngoài khơi Nha Trang. Nghe nói
trước kia người Mỹ đă thiết lập đài truyền h́nh Nha Trang trên
đỉnh cao nhất của ḥn đảo này. Từ đây nh́n vào bờ, không c̣n
thấy bóng dáng người. Tôi phỏng chừng có thể cách bờ khoảng hai
cây số. Hàng ngàn người tắm chỉ c̣n là những đốm đen nhỏ li ti,
chỗ tụ chỗ tán trên dải cát vàng chạy dài và nổi bật bên cạnh
viền nước xanh biếc. Không khí ngoài khơi thật yên tĩnh. Sóng
chỉ gợn nhè nhẹ, không đủ gây nên tiếng động. Chúng tôi thả ḿnh
nằm ngửa trên mặt nước, nh́n trời xanh và mây trắng giăng ngang.
Nếu thú đọc sách nâng cao kiến thức của con người th́ cái thú ra
khơi thả ḿnh trên mặt nước để nh́n trời mây cũng nâng tâm hồn
con người đến tận những nơi chốn cao thẳm không thể tưởng tượng
được của càn khôn vũ trụ. Tôi có cảm giác như chính ḿnh đang
trôi giữa ḍng mây ngang trời chứ không phải trên ḍng nước
trong xanh của biển. Tôi không thấy ḿnh bé choắt hay hèn mọn
trước vẻ bao la của trời biển. Tôi vui thú ḥa ḿnh trong cái
bao la đó và biết rằng chính ḿnh cũng bao la như trời biển vậy.
Không những vậy, có khi tôi c̣n cảm thấy chính trời biển đă ḥa
nhập vào tâm tôi, trôi vào chính tôi, chứ không phải tôi đă ḥa
nhập hay trôi vào trời biển mịt mùng.
Buổi sáng đó, chú
Đức và chú Mỹ về trước. Tôi và chú Thân hăy c̣n trầm ḿnh ngoài
khơi xa. Khi chúng tôi bơi dần vào bờ, liền cảm nhận có cái ǵ
bất thường xảy ra trên băi biển. Dạo thường, đến khoảng trưa
mười một giờ, người tắm hăy c̣n đông, hôm nay bỗng dưng thiên hạ
lục tục kéo về, để lại một dải cát vàng gần như trống hoang.
Chúng tôi vừa lên tới bờ chưa kịp lau ḿnh cho khô ráo th́ có
hai anh công an từ trên đường nhựa bước vội xuống. Một anh công
an hất hàm hỏi chúng tôi:
“Các anh làm ǵ dưới
đây?”
“Tắm biển chứ làm
ǵ,” chú Thân đáp.
“Cho coi giấy Chứng
minh nhân dân của các anh.”
Chú Thân và tôi móc
giấy tờ ra đưa họ xem. Lúc đó chỉ mới có tờ biên lai chứng nhận
của Chứng minh nhân dân chứ chưa có thẻ Chứng minh nhân dân
chính thức. Mà giấy biên lai chứng nhận này th́ đâu có h́nh ảnh
ǵ. V́ vậy, hai anh công an nh́n chúng tôi với vẻ ngờ vực. Họ
hỏi tiếp:
“Các anh c̣n giấy tờ
ǵ khác không? Có giấy đăng kư Nghĩa vụ quân sự không?”
Chúng tôi đưa giấy
ra. Cả tôi và chú Thân đều được xếp hạng II của quân dự bị, có
giấy tờ chứng nhận đầy đủ. Tuần trước, khi tôi đang trong tư thế
sẵn sàng chấp nhận vào bộ đội nếu bị gọi đi th́ có một anh công
an đến điều tra kỹ lư lịch của gia đ́nh tôi, biết ba tôi trước
năm 1975 làm công chức cao cấp cho chính quyền Cộng ḥa nên
không tuyển tôi vào quân đội nữa, xếp tôi vào hạng II thay v́
hạng I trúng tuyển. Có thể nói một cách lạc quan: dù đối với
chính quyền mới, ba tôi bị loại bỏ và bị coi như kẻ thù cần bị
trừng phạt th́ chính cái quá khứ của ông cũng đă vô t́nh bảo vệ
được tôi và một người anh kế tránh khỏi việc đi quân đội dưới
chế độ cộng sản. Nhưng ở khía cạnh khác, nếu coi chuyện đi nghĩa
vụ quân sự là một thử thách cho cuộc đời hành đạo của ḿnh th́
quả là tôi đă mất một cơ hội. Một cuộc đời mà lúc nào cũng êm
đềm, b́nh thản, chỉ gặp toàn may mắn, không gặp chút khó khăn
nào hết, th́ chẳng biết có làm nên được việc lớn ǵ không. Tôi
từng tự hỏi với ḿnh nhiều lần như vậy.
“Các
anh là thầy tu đấy à? Sao ăn bận cái ǵ thế này?” anh công an
lấy hai ngón tay gắp chiếc áo nhật b́nh của chú Thân lên.
“Phải,
chúng tôi là tu sĩ Phật giáo.”
“Chùa ở
đâu? Sư cụ đi đâu mà để các anh đi chơi thế này?”
“Chúng
tôi đi tập thể thao chứ chơi ǵ!” chú Thân đáp.
Thấy
chú Thân không phải loại dễ ăn hiếp, anh công an lườm một cái
rồi xuống giọng:
“Thôi
được, các anh về ngay dùm cho, chúng tôi có lệnh tảo thanh vùng
bờ biển này.”
Lên đến
đường nhựa, chúng tôi thấy khách bộ hành hay xe chạy trên đường
cũng bị chận lại, xét hỏi, hướng dẫn đi ngơ khác, không cho
xuống băi biển. Tôi nói nhỏ với chú Thân:
“Chắc
họ bắt lính?”
“Không
phải đâu. Một là có ông quan lớn nào của họ xuống đây nghỉ mát,
hai là… họ đang lo băi cho mấy người Hoa đi bán chính thức đó.”
“Là
sao?”
“Th́
tàu tấp vô đây, người nào đă nộp đủ vàng và có giấy tờ hợp lệ
th́ công an cho xuống, lên tàu. Tàu chạy đi đâu th́ chạy, miễn
ra khỏi nước là được rồi.”
“Tàu
lớn hả?”
“Cũng
thường thôi. Nghe nói mấy chuyến trước mỗi chuyến khoảng năm,
sáu trăm người, nằm ngồi chẹt cứng như cá hộp.”
“Sao
chú biết rành quá vậy?”
“Tại có
mấy người phật-tử người Hoa của chùa cũng đi theo cách đó.”
“Vậy
rồi họ đến đâu?”
“Thái
Lan, Phi Luật Tân, Tân Gia Ba, Mă Lai hay Nam Dương, Nhật Bản…
bất cứ nơi nào.”
“Rồi họ
được các nước đó cho lên bờ... sinh sống?”
“Chứ
sao. Cho nên nhiều người đă chịu nộp vàng cho nhà nước để ra đi.
Làm chuyện này nhà nước có hai cái lợi: một là tống bớt người
Hoa ra khỏi nước, đỡ lo vấn đề nội gián cho Bắc Kinh; hai là…
thu vàng vô. Chu cha, chú biết không, mỗi đầu người ra đi phải
nộp mười cây vàng lận đó.”
“Vậy mà
người ta cũng ráng kiếm cho có đủ vàng mà đi chứ không chịu ở
lại há!”
“Chứ
sao. Ra ngoài, họ có thể t́m được một đời sống tự do hơn. Ông Hồ
nói: ‘không có ǵ quí hơn độc lập tự do’ mà. Chú biết
không, không phải chỉ có người Hoa mới đi thôi đâu, người Việt
ḿnh cũng đi nữa đó. Họ làm hôn thú với mấy gia đ́nh nghèo người
Hoa để cùng đi. Có người đút lót tiền cho công an để làm giấy tờ
giả chứng minh ḿnh là người Hoa, rồi chịu đóng vàng cho công an
để được đi.”
“Khiếp
thật! Cái giá của tự do đắt quá.”
“Chú có
muốn đi không?” bất ngờ chú Thân hỏi tôi.
“Tôi
hả? Không biết nữa. Lâu nay đâu biết là có cái chuyện đi như vậy
th́ làm ǵ có chuyện muốn hay không muốn. C̣n bây giờ th́ biết
rồi, có muốn cũng đâu có đi được, vàng đâu? Tụi ḿnh làm ǵ có
đủ điều kiện đó. Hơn nữa…”
“Có
điều kiện đó chứ. Này nhé, chú t́m một cô người Hoa nào đó nhà
khá khá một chút, cưới cô làm vợ, rồi chú sẽ được đi mà. Ha ha.”
Câu
chuyện chúng tôi trao đổi buổi sáng đó chỉ là đùa thôi, vậy mà
cũng làm cho tôi phải suy nghĩ, để tâm nhiều ngày. Không phải để
tâm chuyện lấy một cô gái người Hoa rồi được ra khỏi nước
–
cái
lăng mạn hư hỏng của tôi nếu có đủ chừng mức để đi vào đời th́
nó cũng không chọn một lối đi thực tế một cách dung tục như vậy
(!)
–
nhưng để tâm về ư nghĩa của tự do, của những chuyến tàu ra
khơi… cập vào một đất nước nào khác để bắt đầu một cuộc đời mới.
Hoàn
cảnh khốn cùng nào cũng có những lối thoát của nó
–
như cách người
xưa nói: cùng tắc biến, biến tắc thông. Chính trong sự
vây khốn của nghịch cảnh, con người mới có thể t́m được lối
thoát thích hợp nhất cho ḿnh. T́m lối thoát, giống như trốn
chạy. Mà có sự trốn chạy nào là điều đáng kiêu hănh, đáng ca
ngợi đâu. Nhưng ở đây, người ta không kiêu hănh, người ta chỉ
muốn vượt thoát một hoàn cảnh không thể chịu đựng nổi, không thể
đối phó nổi. Người ta cũng chẳng thấy nhục nhă ǵ trong sự trốn
chạy nghịch cảnh của ḿnh. Ở cái thế mà họ biết không thể lướt
thắng nổi, họ phải trốn chạy. Lối thoát mở ra từ đó, tự do mở ra
từ đó.