CHƯƠNG
TÁM
Từ mấy
tháng trước, khi được biết là tôi đă b́nh phục hoàn toàn, thầy
quản chúng cắt đặt công tác cho tôi làm hàng ngày. Công tác của
mỗi tăng sĩ ở viện bây giờ không giống như hồi trước năm 1975
nữa. Trước kia, tăng sĩ khắp các tỉnh đều phải lo tham dự các
lớp học của nội điển và ngoại điển nên có làm công tác th́ mỗi
người cũng chỉ nhận một công tác nhỏ mất từ mười lăm đến ba mươi
phút là cao. Nay viện Hải Đức cũng như các Phật học viện khác
trên toàn quốc phải bị giải tán, chúng tôi làm việc nhiều hơn.
Chẳng phải đây là dấu hiệu hưởng ứng ǵ cái cụm từ “lao động
tốt” của chế độ xă hội chủ nghĩa mà chỉ có nghĩa đơn giản là tùy
theo thời thế để ứng xử. Khi chúng tôi tập trung thời giờ để lo
tu học th́ có những bậc thầy, những bậc đàn anh của chúng tôi
gánh vác hoàn toàn vấn đề kinh tế. Nay chúng tôi không đi học
nữa th́ phải đưa vai ra, chia sẻ gánh nặng kinh tế ấy với các
bậc thầy và đàn anh kia. Vậy thôi.
Nguồn
tài chánh căn bản của viện Hải Đức là từ xưởng vị trai Lá Bồ Đề
do Thượng Tọa Thích Đỗng Minh làm giám đốc. Xưởng là tài sản của
giáo hội, đặc biệt là được gầy dựng nên để hỗ trợ tài chánh cho
các sinh hoạt đ̣i hỏi nhiều tốn kém của viện Hải Đức. Ngoài các
sản phẩm vị trai được đồng bào khắp Nha Trang và các tỉnh miền
Trung ủng hộ, xưởng c̣n sản xuất Hương Giải thoát, Đèn
cầy Giác ngộ, Trà Đạo hạnh, Dấm B́nh minh,
Thuốc tẩy Phiền năo… Nhưng chủ yếu vẫn là vị trai, tức là
x́-dầu (sau năm 1975, người ta cứ gọi chung là nước tương hay
nước chấm, chẳng có ǵ phân biệt giữa loại x́-dầu nấu bánh (bă)
đậu phọng qua công thức chưng nấu và trung ḥa bằng hóa chất
cùng thứ nước tương đậu nành với công thức thủ công cổ truyền).
Ngoài xưởng vị trai, viện Hải Đức c̣n có nhà in và nhà sách Hoa
Sen do thầy Đức Chơn trông coi. Nhà in gần như ngưng hoạt động
dưới chế độ mới (chỉ có thể in những thứ vặt vănh chứ không in
được kinh sách như xưa) nhưng hiệu sách vẫn c̣n phát hành các
loại kinh, tượng, pháp khí… Sau năm 1975, xưởng vị trai c̣n mở
thêm các ngành sản xuất muối rang, đậu hủ (khuôn đậu), chao, đậu
nhận, tương đậu nành, xà pḥng bột, xà pḥng thỏi, dệt chiếu,
đan giỏ, chằm nón lá, cấy nấm rơm và nấm mèo, làm meo nấm, sản
xuất rau tươi… Để tránh việc bị nhà nước nại lư do này lư do nọ
mà trưng thu xưởng này, Thượng tọa giám đốc khôn khéo thống kê
toàn bộ trị giá tài sản của xưởng rồi chia tài sản này thành mấy
trăm cổ phần, toàn bộ tăng ni Nha Trang và các công nhân phật-tử
kỳ cựu của xưởng mỗi người đều được hưởng một cổ phần ấy. Và
cũng từ đó, những tăng ni và phật-tử nào có cổ phần đều trở
thành công nhân của xưởng vị trai Lá Bồ Đề. Công nhân ở đây cũng
được chia thành nhiều hạng: có hạng làm năm ngày, có hạng làm ba
ngày, hay chỉ một ngày rưỡi trong tuần. Tùy theo số giờ làm việc
mà được hưởng lương. Đó là khoảng thời gian đầu tiên trong đời
tôi làm việc có lương. Lương ít thôi, chừng vài trăm bạc một
tháng, nhưng số lương đó hoàn toàn để tiêu riêng chứ không bị
ảnh hưởng ǵ bởi vấn đề gạo cơm, điện nước nên kể ra cũng khá
nhiều đối với tôi.
Thời
gian đầu, chưa làm việc trực tiếp ở xưởng, tôi được cắt làm vườn
và làm rẫy với thầy Minh Chiếu trong khuôn viên viện Hải Đức.
Hàng ngày, chúng tôi dọn cỏ, trồng cây, phát hoang những khoảnh
đất ở triền núi để trồng bắp đậu, cũng như trồng rau cải ở một
khoảnh đất màu mỡ dưới chân núi, gần chùa Phước Điền. Có khi
chúng tôi phụ thầy Huệ An, vác củi từ dưới núi lên nhà bếp. Tóm
lại, thầy Minh Chiếu và tôi được cắt cử như là hai người thường
trực làm việc trong viện, bất cứ việc ǵ ở viện cần đến. Có lúc
chúng tôi phải làm việc từ sáng đến chiều tối, liên tục trong
nhiều ngày, nhưng cũng có khi chúng tôi được rảnh tay, nghỉ ngơi
luôn ba bốn ngày, hoặc chỉ làm rất ít giờ. Đâu được vài tháng
th́ bên xưởng vị trai cần thêm người, gọi tôi qua làm. Làm ở
xưởng th́ mất công mỗi ngày phải có mặt đúng giờ để nhận công
tác, nhưng được cái là tăng ni thay phiên nhau nên mỗi người chỉ
làm ba ngày trong tuần, những ngày c̣n lại được nghỉ hoàn toàn.
Ở xưởng, tôi và các chú sa-di trẻ được cắt làm những việc linh
tinh, tức là ngành nào cần th́ chúng tôi đến phụ giúp. Có khi
chúng tôi làm xà-pḥng, có khi rang muối bọt, có khi làm đậu hủ,
có khi chỉ làm có công việc bỗ củi mà thôi. Với sự điều hành có
phương pháp khoa học của Thượng tọa giám đốc, công nhân ở xưởng
thay phiên nhau tham gia đủ các ngành sản xuất trước khi được
vào chuyên môn. Thành thử, công việc nào chúng tôi cũng có thể
làm được, hoặc ít nhất cũng hiểu được việc để làm khi cần thiết.
Một vài tháng làm việc linh tinh không cố định, tôi được Thượng
tọa giám đốc gọi vào văn pḥng, cắt cho việc làm sổ sách cùng
với ban thư kư tại đây. Ban thư kư lúc đó có cả thầy Thông
Chánh. Công việc của tôi là công việc nhàn nhất trong những việc
của hăng, kể cả những việc của toàn ban thư kư văn pḥng. Tất cả
tiền chi thu hàng ngày được hai đến bốn sư cô thay phiên nhau
đảm trách. Cuối ngày các sư cô tính lại toàn bộ rồi đưa qua cho
tôi kiểm tra lại để ghi báo cáo tổng kết vào sổ của tôi. Cuối
tháng cộng sổ bốn tuần lại, báo cáo tổng kết thu chi cho ban
giám đốc (cũng không cần tôi phải báo cáo nữa: tôi chỉ việc đưa
cuốn sổ đó cho thầy Thông Chánh rồi thầy ấy lo chuyện họp hành,
báo cáo).
Hăng vị
trai dưới sự điều hành của Thượng tọa giám đốc, càng lúc càng
phát triển lớn mạnh, trong khi đó, một cơ sở kinh tài khác của
viện th́ lại bị mất luôn cả quyền sở hữu chủ: đó là nhà in và
nhà sách Hoa Sen. Quư thầy bị người ta chiếm đoạt luôn nhà in mà
chẳng biết làm ǵ. V́ hiền lành, v́ từ bi, nên cứ lặng thinh
chịu để cho qua chuyện.
Nhà in
Hoa Sen tọa lạc trên đường phố Độc Lập, được thành lập từ những
năm đầu thập niên sáu mươi để hỗ trợ tài chánh và các công tác
ấn hành kinh sách cho viện Hải Đức. Trước kia nhà in được giao
cho thầy Đức Chơn quản lư. Sau năm 1975, thầy Đức Chơn hăy c̣n
đảm trách một thời gian rồi giao lại cho viện để vào Sài G̣n.
Viện cử thầy Thanh Hương thay thế. Thầy Thanh Hương đang quản lư
nhà in th́ gặp nghịch cảnh, phải hoàn tục, bỏ nhà in lại cho cô
phật-tử tên Thu coi sóc tạm. Cô Thu chỉ là một người được nhà in
thuê đứng bán cho tiệm. Cô có phải phật-tử hay không và do ai
giới thiệu đến làm cho nhà in th́ tôi không rơ. Chỉ thấy lúc cô
ngang nhiên trở thành bà chủ nhà in và tiệm sách Hoa Sen rồi th́
h́nh như cô không muốn có bóng dáng tu sĩ lai văng đến tiệm nữa,
dù là để mua thỉnh kinh sách. Cô tiếp tăng ni một cách không vui
vẻ và bán với giá cắt cổ, cao hơn cả các hiệu sách bên ngoài. Có
lẽ viện cũng có t́m cách bảo tŕ nhà in Hoa Sen nhưng vấn đề
quản lư nhà in vốn đă bị lỏng lẻo hành chánh và tài chánh từ
thời trước năm 1975, nên chi với sự cố t́nh chiếm đoạt của cô
Thu, viện đành lặng thinh mà chịu mất luôn nhà in này. Nhà in
Hoa Sen mấy chục năm của viện nay trở thành nhà in của cô Thu.
Sở dĩ
tôi phải nhắc những chuyện chẳng mấy đẹp đó nơi đây là để mô tả
cặn kẽ cái bối cảnh vô cùng điên đảo của xă hội mới đă phát sinh
bao nhiêu chuyện lộng hành, khó tin, ảnh hưởng đến đời sống của
những nhà tu trên núi như chúng tôi. Tại sao những chuyện ấy chỉ
dồn dập xảy ra trong ṿng những năm đầu của chính quyền mới?
Tịnh nghiệp đường trở thành nhà ông Điệp, nhà in Hoa Sen trở
thành nhà in cô Thu… rồi dăy “nhà mới” của chư tăng trở
thành đồn công an hay đồn lính! Rơ ràng là chỉ ở trong thời đại
mà các vấn đề đạo đức căn bản của con người không c̣n được tôn
trọng nữa th́ sự cướp đoạt trắng trợn có thể xảy ra như chuyện
thường t́nh.
Tôi c̣n
được biết bao nhiêu người dân ở dưới ngọn đồi này, trên khắp đất
nước này, cũng đă chịu, đang chịu những thiệt tḥi vật chất c̣n
to lớn hơn những mất mát của viện rất nhiều. Nhưng dù thế nào
th́ trong tôi cũng dậy lên một nỗi buồn. Nỗi buồn đó không giống
như nỗi đau của những người dân thế tục–có lẽ một phần v́ bản
thân tôi không có tài sản vật chất để bị mất cũng như tôi đă
được nhà chùa trang bị trước tinh thần vô chấp để đón nhận một
cách b́nh thản về những c̣n-mất, được-thua, thịnh-suy của cuộc
đời. Đó không phải là nỗi đau buồn về sự mất mát tài sản. Đó
không phải là niềm nuối tiếc muốn níu kéo hay hồi phục lại những
ǵ đă bị chiếm đoạt. Đó là nỗi băn khoăn, âu lo về một viễn ảnh
đen tối đang trùm phủ lên toàn đất nước quê hương…
Ô
Sáng chủ nhật không
đi làm, tôi ngồi bên cửa sổ nh́n xuống núi tự dưng thấy vừa buồn
vừa băn khoăn chi lạ. Có lẽ chuyện thầy Tuệ Sỹ bỏ viện mà đi từ
hai ngày trước hăy c̣n làm tôi xúc động đồng thời khơi dậy trong
tôi một ư tưởng, một h́nh ảnh đẹp của một trang sử xa xưa nào
đó. Khi thực tế xă hội đă tự chứng minh một cách không thể chối
căi rằng nó đang ở trong một t́nh trạng hoàn toàn rối loạn, dẫn
đến bao khổ đau và bế tắc cho con người, th́ đó chính là lúc kẻ
sĩ phải lên đường. Lịch sử cho thấy trong những lúc vận nước lâm
nguy, bao thiền sư đă tạm cởi áo ca-sa khoác chiến bào để dấn
thân ra trận cứu đời; khi đất nước yên b́nh, các thiền sư mới
cởi bỏ chiến bào, trở về với thiền môn để tiếp tục cuộc
sống an bần giải thoát. Điển h́nh nhất là Tuệ Trung Thượng Sỹ
đời nhà Trần. Trong thiền môn, ông thắp sáng ngọn đèn giác ngộ,
xông ướp hương thơm đạo hạnh, làm thiền tăng b́nh dị tháng ngày
thong dong tiêu sái; khi giặc Nguyên đem quân xâm lấn, ông rời
cửa thiền thân chinh ra trận, thể hiện cái thao lược uy dũng của
một danh tướng Đại Việt, khiến cho quân Nguyên phải kinh hồn bạt
vía. Phải chăng trong vận hành t́nh cờ nào đó của lịch sử, sự ra
đi của thầy Tuệ Sỹ đă vẽ lại h́nh ảnh cao đẹp truyền thống ấy?
Không ai biết thầy
ấy đi đâu. Thầy cũng thường đóng cửa nhập thất, không tiếp xúc
ai nên khi thầy bỏ đi, cũng khó mà biết được thầy đi vào lúc
nào. Cả viện xôn xao, rồi thành phố Nha Trang xôn xao. Nhưng
quay quắt nhất vẫn là các anh công an có bổn phận kiểm soát mọi
sinh hoạt giao tiếp và đi lại hàng ngày của thành phần tu sĩ
trên viện Hải Đức–đặc biệt là đối với thầy Tuệ Sỹ, một thiên tài
lỗi lạc và uy tín của Phật giáo cả nước. Công an cho gọi thầy
quản chúng và cả thầy bổn sư của tôi (đang là chủ hộ của viện)
xuống đồn công an thành phố để hỏi cung, tự kiểm, khai báo, liên
tục mấy ngày. Họ cũng thường xuyên lên viện, lục xét, thăm ḍ,
kiểm soát, bất kể giờ giấc. Cho đến gần nửa tháng sau, khi viện
nhận được một lá thư của thầy Tuệ Sỹ từ Thái Lan gởi về, mới
biết là thầy đă ra khỏi nước, và từ đó, công an mới thôi không
bắt thầy chủ hộ xuống đồn vấn cung nữa. Họ luôn giữ lá thư của
thầy Tuệ Sỹ làm tư liệu, kết tội thầy “phản quốc, trốn ra nước
ngoài”.
Tưởng rằng xong
chuyện thầy Tuệ Sỹ là yên, nào ngờ lại có tin của một đạo hữu
thân tín của viện cho biết nhà nước sắp mở chiến dịch “bài trừ
văn hóa đồi trụy” hay “bài trừ văn hóa Mỹ-Ngụy”… Chiến dịch này,
lúc ở Hội An, tôi có nghe chú Nguyện nói đến nhưng bây giờ mới
thực sự biết là nó sắp xảy ra tại Nha Trang. Trong một bữa cơm,
thầy tôi nhắc cho toàn thể viện biết rằng mọi sách vở nào xét
thấy không thích hợp với chủ trương của nhà nước th́ mỗi người
tự động đem xé, đốt. Sách của thư viện trước đây do thầy Tuệ Sỹ
trông coi th́ bây giờ các thầy Minh Thông, Chơn Trí chịu trách
nhiệm. Nghe đâu rằng ban văn hóa của thành phố cùng với công an
khu vực sẽ lên viện lục xét tất cả các sách vở báo chí hiện có
trong viện, không phải chỉ trong thư viện mà trong từng pḥng
riêng của mỗi người.
Nghe chuyện, một vài
thầy có nêu ư kiến với thầy quản chúng rằng:
“Ḿnh đâu cần phải
đốt xé sách báo trước. Cứ để họ lên đây kiểm soát, thấy sách nào
muốn tịch thu th́ cứ tịch thu, sách nào thông qua th́ để lại.
Tội ǵ phải đốt xé khi ḿnh chưa biết chắc là họ muốn loại bỏ
thứ sách nào. Biết cái nào là đồi trụy theo mắt nh́n của họ?”
Nhưng lệnh của viện
vẫn đưa ra là chỉ giữ lại kinh điển và sách biên khảo về Phật
học, hoặc sách do nhà nước xă hội chủ nghĩa xuất bản nếu có, c̣n
ngoài ra, tất cả sách báo thế tục được in từ thời chế độ cũ đều
đem đốt hết và phải đốt trước khi họ đến chứ không phải đợi họ
chỉ cho thứ nào là đồi trụy rồi mới đốt. Bởi v́, theo lời thầy
quản chúng nhấn mạnh, “lệnh cấm cất giữ sách báo văn hóa đồi
trụy đă có từ lâu chứ không phải bây giờ mới đặt ra, cho nên, ai
c̣n chất chứa th́ coi như có tội, bị bắt ngay, chứ không phải
chỉ đơn giản là tịch thu sách”.
Chưa có cái tin nào
khiến tôi thấy nổi gai ốc như vậy. Tôi mường tượng cảnh một đoàn
thanh niên cộng sản hăng hái đi hết nhà này đến nhà khác, hốt
sách báo đem ra đầu đường, chất đống lên mà đốt, hoặc lên mặt
răn dạy, chất vấn, hạch tội những người v́ yêu sách mà c̣n cất
giấu sách trong nhà… Chưa có cảnh tượng nào man rợ và phản giáo
dục bằng cảnh tượng đó. Phải chăng vết cũ của bạo chúa Tần Thỉ
Hoàng hơn hai ngh́n năm xưa bây giờ lại được tái diễn bởi những
con người thời đại vốn thường tự xưng là minh tiến bộ?
Cho nên khi Thượng
tọa Thiện Siêu, vị viện trưởng Viện Cao Đẳng Phật Học Hải Đức,
cùng hai thầy thị giả thực hiện việc lựa chọn sách để đem đốt,
tôi không đủ can đảm đến thư viện để phụ giúp một tay dù có lời
yêu cầu. Tôi né tránh, bỏ qua chùa Tỉnh hội ngồi chơi với mấy
chú bên đó. Thượng tọa viện trưởng gọi chú Phượng và chú tiểu
tên Đăng lên thư viện, vác mấy bao bố sách, đem xuống nhà bếp,
thảy từng cuốn vào cái ḷ to lớn vốn có khả năng nuốt trửng một
lượt nhiều khúc củi to bự như bắp vế; hết đợt này, lại đến đợt
khác, mỗi đợt hai bao. Bao nhiêu công tŕnh tim óc của các triết
gia, tư tưởng gia, sử gia, học giả, văn thi hào… trên thế giới
từ ngàn năm xưa đổ lại, đă thành tro bụi trong ṿng một giờ đồng
hồ. Chú Phượng kể lại tôi nghe như vậy và khi nghe kể, ḷng tôi
bỗng thấy rưng rưng thế nào đó. Số sách của tôi bỏ lại ở Hội An
cho chú Tửu, tôi đâu có tiếc, v́ chú Tửu cũng yêu quí sách, tưng
tiu sách, mê đọc sách như tôi vậy. Đàng này, sách không phải của
tôi, nhưng tôi lại đau xót vô cùng. Suốt mấy ngày kế tiếp, h́nh
ảnh những cuốn sách bốc lửa cứ lảng vảng trong đầu óc tôi. Những
ngọn lửa ấy cũng đốt cháy luôn cả tâm tư tôi, và h́nh như c̣n
làm bừng lên trong tôi một thứ lửa nào đó khiến cho ḍng máu
nóng trong cơ thể tôi sôi lên sùng sục. Đă có lúc trong pḥng
riêng, đang ngồi im nơi bàn viết, tôi bỗng thấy hai bàn tay ḿnh
nắm chặt lại như muốn bóp nát một cái ǵ. Và chỉ ngay sau đó,
tôi giật ḿnh như tỉnh một giấc mộng. Tôi biết từ ngày về Nha
Trang, hay có thể nói rằng, từ ngày đất nước thay đổi chế độ,
tâm tính tôi cũng đă thay đổi khá nhiều. Cái tính mềm mỏng, nhẹ
dạ như con gái mà đă nhiều lần tôi bị thầy bổn sư rầy la, bây
giờ h́nh như đă chuyển dần thành một vực lửa, hừng hực bên
trong, dễ sinh bực bội, bất măn… Tôi lấy tay vuốt lấy mặt ḿnh,
rót một ly nước lạnh, vừa niệm Phật, vừa uống vào một hớp thật
đầy.
Kể cũng buồn thật.
Không ai lại muốn thay đổi tánh t́nh như vậy, nhất là thay đổi
từ chỗ ngoan ngoăn, hiền lành sang cứng đầu, hung dữ… Một ông
thầy tu mà dữ dằn, sân hận nhiều th́ dù có độ lượng cách mấy
cũng không ai có thể tha thứ, chấp nhận được. Có thể trong mắt
người khác tôi vẫn c̣n hiền, chưa hại ǵ ai, chưa làm ai bực
ḿnh khó chịu, nhưng chính tôi mới thấy trong tôi một tiềm lực
kinh khiếp, cơ hồ nếu nó được tự do bùng vỡ th́ sẽ không ai chịu
nổi. Cũng may, tôi có thể niệm một câu danh hiệu Phật là đă trấn
áp được tiềm lực dữ dội đó.
Chưa đầy tuần lễ
sau, đúng vào ngày chủ nhật, công an phối hợp với ban văn hóa
thành phố liên tục lên viện lục xét, kiểm kê sách báo… Tôi vắng
mặt lúc đó. Khi về, nghe kể lại là họ đă lục xét khắp các pḥng,
tịch thu một số sách của thư viện (các sách biên khảo văn học mà
quí thầy tưởng là sẽ vô hại!), một số sách từ các pḥng cá nhân.
Pḥng tôi đă không bị lục xét, có lẽ v́ không ai nghĩ đó là một
căn pḥng. Nhưng nếu họ có vào pḥng tôi chăng nữa th́ cũng
không t́m thấy được ǵ ngoài mấy cuốn tự điển–tôi đă bắt chước
chú Hải, một sư huynh của tôi, tẩu tán hết sách của ḿnh bằng
cách bao sách trong bịch ni-lông, giấu trên hàng máng xối dọc
theo hông chánh điện.
Tôi tự hỏi, khi việc
đọc và cất giữ sách vở bị xem như tội lỗi th́ phải chăng những
việc đồi bại phi luân nhất sẽ trở thành những điều cần khích lệ?
Rồi đây, trên đất nước này, trong cuộc sống này, đâu sẽ là ranh
giới giữa chân và giả, giữa thiện và ác, giữa đẹp và xấu?
Ô
Trước khi xuất gia
tôi có vài người bạn học chung lớp nhưng cũng chẳng thân mấy nên
từ khi về lại Nha Trang, tôi đă không hề gặp lại bất cứ người
nào; mà cũng chẳng người bạn nào của tôi biết tôi đă về lại Nha
Trang để đến thăm. Như vậy, có thể nói là khi xuất gia, không
những tôi đă hầu như cắt đứt mối liên hệ thân thuộc với gia đ́nh
mà c̣n cắt đứt luôn t́nh bằng hữu với những người bạn thế tục
cũ.
Cúi đầu sống theo
qui tắc của viện, tôi đă quên luôn rằng ḿnh hăy c̣n những người
bạn ở ngoài đời, phía dưới chân núi. Khi chúng tôi c̣n học chung
lớp với nhau, chúng tôi là những con chim non chỉ biết ca hát,
và học theo những ǵ người lớn chỉ dạy, hướng dẫn. Bây giờ,
chúng tôi bắt đầu trưởng thành, muốn góp công sức ḿnh cho đời
th́ đất nước đang ở trong một hoàn cảnh mới. Hoàn cảnh đó không
cần đến sự góp sức của chúng tôi, nếu có chăng th́ chỉ cần sự
ngoan ngoăn tuân phục mà thôi. Nhiều năm xa cách Nha Trang, tôi
nào biết các bạn cũ của tôi bây giờ thế nào. Họ đang tiếp tục
học ở một trường đại học nào đó hay đă lăn vào cuộc sống lao
động–vốn là điều vinh quang chói lọi một cách giả trá, mai mỉa
của chế độ–để kiếm sống, để tồn tại? Họ đang là những anh cán
bộ, công an, bộ đội như thầy Thiện Phước, chú Sáng, chú Tân hay
đang là những người thuộc con em thành phần bị chính quyền loại
trừ ra khỏi cuốn sổ đỏ chói của đời sống?
Thắc mắc của tôi
được giải đáp phần nào vào một buổi trưa, khi chú Đăng cho biết
là có một anh thanh niên vào hỏi t́m tôi. Không gặp tôi, anh
thanh niên đó đă đi ṿng ṿng quanh viện rồi ngồi chơi ở bậc tam
cấp gần nhà bếp. Theo lời chú Đăng, tôi đến gặp anh th́ biết đó
là Đức–hồi nhỏ Đức có cái tật là cứ vài phút lại tự lắc cái cổ
qua bên trái một cái, rồi qua bên phải một cái, xương kêu răng
rắc, (giống như cách người lớn tập thể dục trong động tác vặn
xương cổ), nên có đứa gọi nghịch là Đức cổ; sau này cái
tật đó không biết do đâu mà hết, nhưng rồi Đức lại được mang
biệt danh là Đức trọc, v́ thường hay nổi hứng cạo trọc mà
sự cạo trọc của anh ta hoàn toàn không có ư nghĩa ǵ dính dáng
với sự cạo trọc của mấy sư tăng ở chùa. Đức là một người bạn học
cũ của tôi ở trường trung học Vơ Tánh. Tôi không bao giờ gọi Đức
bằng bí danh Đức trọc cả, nhưng chính Đức lại thích được
bạn bè gọi như thế (có lẽ v́ cái biệt danh đó cũng thay Đức nói
lên được phần nào thái độ ngạo nghễ, bất cần của anh đối với
cuộc đời).
Đức ăn mặc xốc xếch,
áo sơ mi đứt gần hết nút, dơ bẩn; quần ka ki xanh đă chuyển sang
một màu không thể gọi tên, c̣n hai lai quần th́ rách tươm để lộ
đôi ban chân dơ hầy bám đầy bụi đất. Mặt mày anh lem luốc, bơ
phờ, mệt mỏi. Đầu tóc anh th́ rối bù và trông dơ đến nỗi tôi có
cảm tưởng là phải có chí ḅ lúc nhúc trên ấy. Người nào từng
quen biết anh chắc đều có cảm nghĩ rằng đây là lúc tốt nhất để
anh cạo trọc, vậy mà lúc này anh không cạo. Đứng trước mặt tôi
là một Đức có tóc ổ quạ chứ không phải là Đức trọc. Dù
sao, tôi cũng nhận ra anh dễ dàng là do khuôn mặt xương xương
với cái mũi cao và đầy đặn như một dăy núi hùng vĩ nổi bật giữa
hai hồ mắt lớn nép dưới hai g̣ xương mày cao với đôi hàng lông
mày dày rậm. Tôi đă nhận ra Đức dễ dàng hơn là Đức nhận ra tôi,
điều này không thể trách Đức được, v́ đă hơn sáu năm trước, hai
đứa chúng tôi gặp lại nhau có một lần lúc tôi c̣n là chú tiểu có
để cái chỏm trên đầu. Bây giờ cái chỏm của tôi đă mất trong khi
Đức th́ vẫn vậy.
“Đức phải không?”
“A, Khang, Đức đây,”
Đức vui mừng đứng dậy bắt tay tôi.
Tôi rủ Đức đến pḥng
tôi ngồi tṛ chuyện. Đức không nói ǵ nhiều về bản thân của anh
ta từ khi chúng tôi chia tay nhau năm 1972 khi Đức đến viện Hải
Đức thăm tôi và sau đó tôi đi Hội An. Nhưng từ Đức, tôi cũng
biết thêm chút ít về t́nh trạng của một số các bạn học cũ của
ḿnh. Trả lời dăm ba câu hỏi của tôi xong, Đức mệt mỏi nằm xuống
cái đi-văng của tôi rồi ngủ. H́nh như Đức vừa bị một cú xốc nào
đó chưa hoàn hồn. Anh t́m đến tôi không phải để giải bày mà để
được yên tĩnh. Tôi tôn trọng anh, để anh nằm đó một ḿnh, khép
cửa nhè nhẹ rồi đi ăn trưa. Ăn xong, tôi bưng một mâm cơm vào
pḥng cho Đức. Thức dậy, Đức ăn, xong lại ngủ. Đến chiều th́ Đức
từ giă. Vài ngày sau, Đức lại trở lên viện t́m gặp tôi. Cũng như
lần trước, Đức chẳng có ǵ để nói với tôi, chỉ đến rồi mệt mỏi
nằm xuống ngủ. Khi thức dậy, Đức kể tôi nghe là Đức có tham gia
một nhóm hoạt động chính trị, đa phần là giáo sư với sự hưởng
ứng của sinh viên và học sinh lớp mười hai. Tổ chức bị tan vỡ,
hầu như các thành viên đều bị bắt. Đức không cho biết là do đâu
mà Đức thoát. Tôi nghe chuyện đó th́ bỗng dưng niềm hào khí
trong ḷng cất lên. Tự dưng ngay lúc ấy, tôi bỗng có niềm tin
rằng công việc mà Đức và những người trong nhóm anh đă làm chính
là công việc lâu nay tôi băn khoăn, có nghĩ, có t́m kiếm mà vẫn
mơ hồ chưa nhận ra được nó là cái ǵ. Với bầu nhiệt huyết tuổi
trẻ, tôi thực t́nh hỏi Đức:
“Vậy bây giờ c̣n
nhóm nào khác đang hoạt động nữa không?”
Câu hỏi của tôi có
lẽ là quá ngây thơ đối với Đức. Trong chế độ mới, hai người
thanh niên không nên hỏi nhau một câu như thế, cho dù đó là bạn
bè, huống chi tôi và Đức là bạn bè không được thân lắm, lại xa
cách nhau nhiều năm. Dù sao, Đức cũng tin tôi là thực ḷng chứ
không phải hỏi Đức để rồi đi báo cáo công an bố ráp. Đức nói:
“Dĩ nhiên là c̣n,
nhưng Khang à, Khang đừng dính vô mấy vụ đó làm chi. Ư tôi nói…
mấy tổ chức đó chẳng có ǵ đáng kể lắm đâu.”
Dù nói vậy, lúc ra
về, Đức lại tặng tôi cuốn Quân Vương (The Prince) của
Machiavelli. Đức không nói là tặng tôi, chỉ lặng lẽ bỏ lại trên
bàn tôi. Ban đầu tôi tưởng là Đức bỏ quên, nhưng sau đó, thấy
Đức không bao giờ trở lại nữa, tôi đoán là Đức tặng tôi.
Tôi không rơ Đức có
muốn nói ǵ hay nhắn nhủ ǵ với tôi qua cuốn sách gối đầu giường
của các chính trị gia Tây phương này không. Buổi tối cùng ngày,
tôi có đọc Lời Giới Thiệu của Raymond Aron trong cuốn
Quân Vương mà Đức tặng (sau này t́m đọc lại tôi mới nhớ đó
là bản dịch của Phan Huy Chiêm, chuyển ngữ từ bản tiếng Pháp Le
Prince). Cuốn sách quả thật là khô khan, khó nuốt đối với tôi.
Đọc xong lời giới thiệu rồi là tôi cất nó vào kệ sách, hầu như
không bao giờ đụng tới nữa. Khoan bàn đến vấn đề nội dung cuốn
sách (v́ tôi có đọc đâu mà bàn!), chỉ nói đến cái tựa sách và
thể loại của nó cũng đủ thấy rằng tâm hồn đơn sơ của tôi lúc ấy
đă không có một chút cảm hứng nào để đọc. Nếu lúc ấy, Đức mang
cho tôi một cuốn thơ th́ hẳn là tôi đọc say mê hơn. Dù tôi có
nhiệt huyết muốn làm một cái ǵ đó, hay tham gia một tổ chức nào
đó để đóng góp cho quê hương, tâm tư tôi vẫn chưa sẵn sàng để
đọc loại sách chính trị khô khan đó. Cũng có thể là tôi chưa
liên kết được sự quan hệ giữa cuốn sách Quân Vương với thái độ
và hành động chính trị của những người chí sĩ muốn làm cách
mạng. Trong ư thức, hay trong cảm xúc mơ hồ của ḿnh, tôi chỉ
thấy rằng nếu có tổ chức nào v́ thương yêu dân tộc đứng lên
chống lại chính quyền, tôi sẽ sẵn sàng đi theo họ cho dù tôi
chưa trang bị cho ḿnh bất cứ tư tưởng, ư niệm, hay kiến thức ǵ
về chính trị.
Và do v́ Đức không
bao giờ trở lại, ư niệm sơ khai về một cuộc đấu tranh cũng như
nhiệt huyết cách mạng của tôi dần dần lắng dịu. Tuy thế,
tôi cũng loáng thoáng thấy rằng, trong tôi đă có những thay đổi
lớn từ khi đất nước đổi thay chế độ. Từ đời sống êm đềm của một
chú tiểu, một học sinh, chỉ biết tu học và suốt ngày trau luyện
tâm chí ḿnh bằng những tiếng kệ câu kinh và sự thiền định, bây
giờ tôi đă có thể nghĩ đến chuyện dấn thân vào một tổ chức chính
trị nào đó để mưu cầu hạnh phúc cho dân tộc. Việc dấn thân như
thế, tôi xem như là nghĩa vụ dẹp trừ những điều xấu ác, cũng như
xưa nay, tôi cũng đă từng học theo các nhà sư đi trước, cầm chổi
quét sạch lá vàng và rác rưởi rơi rụng đầy ở sân chùa mỗi sáng.
Ô
Có tin mới từ Sài G̣n mang ra:
thầy Tuệ Sỹ bị bắt giam ở trại giam trên đường Phan Đăng Lưu,
một trại giam khét tiếng của Sở Công An thành phố Sài G̣n (tên
mới là thành phố Hồ Chí Minh). Điều này có nghĩa rằng lá thư
trước đây từ Thái Lan gửi về với thủ bút của thầy ấy chỉ là ngụy
tạo. Thư ấy gửi về với mục đích đánh lạc hướng mấy anh công an
đang chằm hăm theo dơi thầy ấy mà thôi. Trong Sài G̣n, thầy Tuệ
Sỹ đă kết hợp với một số người khác, thành lập một tổ chức chính
trị ǵ đó, rồi bị bắt. Tin đưa về không được chi tiết lắm.
Thượng tọa Đổng Minh, giám đốc hăng vị trai, trên đường từ Sài
G̣n về Nha Trang cũng đă bị công an Hàm Tân bắt giữ một thời
gian. Từ trại tù ra, có lẽ chính Thượng tọa giám đốc là người
mang theo cả tin tức về thầy Tuệ Sỹ th́ phải. Cũng theo lời
Thượng tọa giám đốc, t́nh h́nh các chùa trong Sài G̣n có vẻ căng
thẳng lắm. Chuyện mấy thầy tu bị bắt bỏ tù không phải là lạ ǵ
trên đất nước này. Nhưng chuyện lúc nầy làm tôi xúc động nhiều
nhất. Có lẽ một phần v́ Thượng tọa giám đốc, và nhất là thầy Tuệ
Sỹ, đều là những người khá gần gũi với tôi, ít nhất cũng trong
liên hệ sống chung dưới một mái viện và làm việc chung nơi hăng
vị trai.
Mà sự kiện thầy Tuệ Sỹ vào Sài
G̣n hoạt động chính trị ở một khía cạnh khác, đă làm tăng thêm
niềm tin tưởng trong tôi rằng, ư tưởng tham gia một tổ chức
chính trị nào đó của tôi trước đây rơ ràng là điều hợp lư, có
chính nghĩa. Đâu phải là đến lứa tuổi thanh niên th́ con người
bỗng bồng bột nẩy sinh những ư niệm hơn thua, muốn thi thố tài
năng và sức lực của ḿnh! Có một nguyên nhân, không, ở đây khoan
hăy nói đến nguyên nhân, cứ nh́n và nói về những ǵ cụ thể: cái
hậu quả thống khổ cùng cực mà người dân Việt Nam đang phải gánh
chịu là một thực trạng bất toàn, cần phải được điều chỉnh, thay
đổi hoặc phải xóa bỏ đi.
Tôi suy nghĩ đến điều đó, nhưng
rồi tôi lại cúi đầu xuống, tiếp tục sống an phận với sinh hoạt
thường nhật của viện, v́ trước mắt, tôi có c̣n con đường nào
khác đâu. Tổ chức nào đó của nhóm giáo sư sinh viên mà Đức có
tham gia, đă bị tan ră. Thầy Tuệ Sỹ mới xuống núi chưa đầy một
năm đă bị bắt. H́nh như chưa đến lúc, hoặc v́ những tổ chức
chính trị ấy chưa đủ tầm vóc để tập trung sự hưởng ứng của nhiều
người.
Không khí các chùa Nha Trang và
đặc biệt ở viện Hải Đức càng lúc càng trở nên buồn tẻ, ngột
ngạt. Công an đă rút khỏi dăy nhà mới, nhưng giao lại cho bộ đội
lên trú đóng. Mấy anh bộ đội th́ dễ chịu hơn, không thèm để ư ǵ
đến chuyện trong chùa viện như mấy anh công an trước đó. Dù sao,
sự hiện diện của họ cũng không khác chi mấy về bản chất: vẫn là
một h́nh thức của sự chiếm đoạt ngang ngược, chẳng đem lại niềm
vui tươi thoải mái ǵ cho không khí thơ mộng của ngọn đồi này
cả. Tôi chỉ c̣n biết tự khuây khỏa ḷng ḿnh bằng cách thường
lui tới chùa Diên Thọ ở Diên Khánh, cách viện Hải Đức non mười
cây số.
Từ viện ra dến đường lộ chính
mất chừng năm phút, đứng đón xe lam đi Thành, chạy khoảng nửa
giờ là đến chùa Diên Thọ. Nhưng thường th́ tôi đi xe đạp, thấy
thú vị hơn.
Chùa Diên Thọ được coi là ngôi
chùa trung ương của Quận giáo hội Diên Khánh. Người ta quen gọi
là chùa Quận hội, hay gọi tắt là chùa Quận. Chùa này do thầy tôi
trụ tŕ, nhưng người trực tiếp trông coi là chú Quyết, một sư
huynh của tôi. Đầu tiên, tôi theo thầy tôi đến chùa Diên Thọ để
lo phụ giúp chú Quyết sửa soạn cho ba ngày Tết; rồi về sau, thầy
tôi c̣n nhiều lần gọi tôi đi theo để phụ thầy làm lễ sám hối mỗi
nửa tháng cho Phật tử ở quận Diên Khánh, cho nên càng lúc tôi
càng thân với chú Quyết nhiều hơn. Nhiều khi không đợi tới dịp
lễ, tôi tự động đạp xe lên Diên Khánh ở chơi với chú Quyết vài
hôm.
Nhưng ở chùa Diên Thọ, vui nhất
vẫn là vào mấy ngày Tết. Ngoài chú Quyết và tôi, c̣n có chú Hải,
chú Phượng, hai sư huynh khác của tôi, từ viện Hải Đức lên chơi
nữa. Chỉ có dịp này huynh đệ đồng môn chúng tôi mới có cơ hội
tụng kinh, tṛ chuyện, trao đổi và t́m hiểu nhau nhiều hơn. Ở
vùng quê như quận Diên Khánh, không khí ngôi chùa không bị căng
thẳng như các chùa Nha Trang. Chùa cũng có sân rộng, cây cao
bóng mát, nên tôi thích thú vô cùng.
Chú Quyết là người rất giỏi
dang, một ḿnh chú lo chu tất mọi công việc trong chùa từ trong
ra đến ngoài. Huynh đệ chúng tôi có đến đó th́ cũng chỉ phụ giúp
thêm mà thôi. Tuy nhiên, trong số môn đồ của thầy, tôi là đệ tử
rành nghi thức tụng niệm hơn cả (theo nghi lễ Huế, tức là phải
biết cả các điệu tán xắp, tán rơi, tán trạo, thỉnh…), nên mỗi
khi chùa Diên Thọ có lễ lớn hoặc cần cúng quải ǵ thầy tôi cũng
gọi tôi đi theo. Không biết với dụng ư thăm ḍ tâm ư hay v́ lư
do nào khác, đă có lần thầy cười cười nói với tôi:
“Sau này con thay thầy làm trụ
tŕ chùa Diên Thọ này được đó.”
Thực ra tôi chưa lúc nào nghĩ
đến chuyện trụ tŕ một ngôi chùa, dù là chỉ dự phóng cho tương
lai. Các tăng sĩ trẻ tuổi như tôi h́nh như cũng đều như vậy.
Chúng tôi xuất gia là để t́m cái ǵ khác chứ không phải cưu mang
cái mộng làm trụ tŕ hay tu viện trưởng… Nói vậy không có nghĩa
là xem nhẹ trách vụ của trụ tŕ hay tu viện trưởng như thứ ǵ
tầm thường, nhưng v́ đó là những trách vụ khá nhiều ràng buộc mà
tôi tự biết tâm chí cũng như sở thích của ḿnh không thể thích
hợp. Huống chi, thầy tôi có vẻ chỉ nh́n nơi khả năng ứng phó đạo
tràng–tức là năng khiếu về nghi lễ, thường là bao gồm luôn cả
khả năng quản lư một tự viện–của tôi so với các sư huynh để mớm
thử đề nghị đó. Đó là điều chẳng có ǵ đáng hănh diện. Nếu chỉ
căn cứ vào khả năng ứng phó đạo tràng để đề nghị tôi trụ tŕ th́
chẳng khác nào ngầm ư rằng tôi có khả năng làm một ông thầy làng,
một ông thầy cúng! Những ông thầy đám ở nhà quê đâu có thiếu khả
năng đó. Có thể tôi đă hiểu sai thiện ư của thầy tôi, nhưng dù
sao th́ chuyện trụ tŕ cũng không phải là điều thích hợp đối với
tâm chí tôi lúc đó. Tôi đáp:
“Dạ… c̣n chú Quyết, chú Hải,
chú Phượng… Hơn nữa, con sợ con không thể trụ măi một chỗ…”
“Bộ muốn làm đạo sĩ hành cước
lang thang sao?”
Tôi cười không đáp. Tôi nghĩ là
thầy tôi phải biết rằng tôi đâu có cái mộng làm vị thầy trụ tŕ
một ngôi chùa. Và làm sao tôi có thể quên được giấc mộng khôn
nguôi của chính thầy tôi đă ảnh hưởng đến tôi từ lúc nhỏ qua câu
thơ bất hủ của thi sĩ Huyền Không mà thầy tôi treo ở vách gần
bàn viết: “Gót đạo sĩ bốn phương trời rảo bước…” Thầy tôi
đă một đời dính mắc vào các trách vụ ứng phó đạo tràng, quản lư
tự viện, phải chôn chân một chỗ, không gỡ ra được, thầy đâu muốn
tôi phải tiếp nối bước chân thầy theo ngả ấy. Hay là trong mắt
thầy, chỉ có con đường ràng buộc đó mới có thể giữ được chân tôi
với nẻo đạo? Tôi băn khoăn suy nghĩ, có niềm tin rằng xưa nay
thầy tôi thường căn cứ vào tâm tính của mỗi đệ tử để chỉ dạy, có
thể thầy đă nh́n thấy trước là tôi chỉ có thể thành công hay ít
nhất là giữ được đạo trong cương vị một ông trụ tŕ, tu viện
trưởng, ở trụ một chỗ để tiếp dẫn đồ chúng… Tôi đang c̣n nghi
hoặc trong ḷng nên không nói ǵ. Thầy tôi tiếp:
“Coi bộ trong chế độ này ḿnh
cũng khó ḷng thực hiện chuyến du hóa bốn phương đó nghe. Ai ở
đâu ở yên một chỗ chứ có đi đâu được. Cái hộ khẩu giữ chân người
ta lại mà. À, nếu ở đây mà cho con vô được hộ khẩu th́ tốt đó
chứ. Sống ở đây thoải mái hơn Nha Trang, phải không? Để thầy hỏi
xem người ta có lo hộ khẩu cho con ở đây được không.”
Tôi thưa ngay:
“Bạch thầy không cần đâu.
Con ở viện
cũng quen rồi. Với lại, con cũng đă lo được hộ khẩu bên chùa
Linh Phong.”
Thầy lặng thinh rồi
bỏ qua chuyện đó, không bao giờ nhắc tới vấn đề lo hộ khẩu ở
chùa Diên Thọ hay tương lai trụ tŕ ǵ nữa. Vậy có thể tôi đă
hiểu sai ư thầy. Và bây giờ, cái tâm sinh chuyện của tôi lại nẩy
sinh cảm giác là h́nh như thầy tôi không muốn tôi ở viện. Tôi ôn
lại thời gian c̣n làm chú tiểu, đă có lần thầy đưa tôi qua chùa
Linh Phong, rồi cho tôi đi học xa tận Hội An; bây giờ, thầy lại
đề nghị tôi rời viện để lên Diên Khánh… Tôi không rơ thầy có chủ
ư ǵ. Phải chăng trong sự xét đoán của thầy, tôi là đứa đệ tử
cần phải xa thầy thật xa mới có thể nên người được?
Cái nghi vấn đó chưa
kịp phai nhạt trong ư thức tôi th́ một hôm, sau bữa cơm chiều ở
viện, thầy bỗng gọi tôi vào pḥng riêng của thầy, nói:
“Khi sáng thầy Trừng
Hùng có qua đây thưa chuyện với thầy. Thầy ấy nói t́nh h́nh bây
giờ căng thẳng quá, công an có đến xét chùa tối qua, họ hỏi con
và yêu cầu thầy Trừng Hùng phải gọi con về ở bên đó thường xuyên
chứ không thể kéo dài t́nh trạng vắng mặt hoài được. Nếu con
muốn ở đây th́ cũng phải xin phép công an bên đó, nếu không…
thầy Trừng Hùng đ̣i gạch tên con khỏi sổ hộ khẩu. Thầy cho con
biết vậy, con coi có thể tính được làm sao không?”
Tôi thưa ngay:
“Dạ không sao, bạch
thầy, Thầy Trừng Hùng muốn vậy th́ con phải qua đó.”
“Ừ, qua cho nó khỏe
chứ không thôi lại bị rắc rối với chính quyền rồi lại bị thầy
Trừng Hùng gạch mất tên trong hộ khẩu nữa. Con cứ qua đó, khi
nào có việc ǵ cần th́ về đây. Pḥng và đồ đạc của con th́ cứ để
đó, khi nào thích th́ về nghỉ ngơi. Đem theo cái ǵ cần thiết
thôi. Bên đó bên này cũng gần chứ có xa xôi ǵ. Chạy qua chạy về
cho vui.”
“Dạ,” tôi đáp, bụng
nghĩ thầm, “bây giờ mới thiệt đúng là oan gia đường hẹp, chạy
trời không khỏi nắng… cuối cùng cũng quay trở lại với thầy
Trừng Hùng đây!”
Ngay hôm sau, tôi thu
tóm mùng màn, áo quần và dăm ba cuốn sách của ḿnh để qua chùa
Linh Phong. Ống sáo và cây đàn ghi–ta, tôi để lại trong pḥng
riêng v́ trước đây có nghe chú Đức nói rằng thầy Trừng Hùng đă
đập bể ống sáo của chú ấy. Mặc dù ở viện tôi cũng không dám công
khai đàn hay thổi sáo trước mặt thầy tôi hay các vị thượng tọa
khác, nhưng trong pḥng riêng để cất mấy nhạc cụ đó th́ vẫn tốt
hơn là mang qua nộp cho thầy Trừng Hùng.
Thu xếp xong hành lư,
tôi ngồi lại một lúc trong căn pḥng nhỏ của ḿnh. Cảm thấy một
điều ǵ đó vừa buồn nhẹ mà cũng vừa phấn khởi. Buồn v́ xa khung
cảnh đẹp đẽ của viện Hải Đức; phấn khởi v́ chợt thấy chuyến đi
qua chùa Linh Phong lần này không chừng lại là một nhân duyên
tốt để tôi bắt đầu sắp xếp lại cuộc sống giới hạnh nghiêm túc mà
gần một năm nay tôi có vẻ lơ là buông thả. Tôi mím môi tự dặn
ḷng: “Kể từ nay, phải lấy lại những ǵ đă mất.”
Rồi tôi vui vẻ lên
đường. Lần này tôi chỉ đi một ḿnh, không có thầy Thông Chánh
đưa tiễn hay dẫn dắt giới thiệu, v́ như đă nói, giữa tôi và thầy
Thông Chánh không c̣n mối liên hệ thân mật như xưa nữa.
Chú Đức thấy tôi qua
th́ vui lắm, vỗ vai tôi, nói:
“Cha, đỡ quá, từ nay
đi cúng có chú tiếp hơi, không thấy mệt nữa.”
Tôi chỉ cười. Câu
chào vui của chú ấy cũng nói lên được phần nào sinh hoạt thường
nhật của chùa Linh Phong rồi. Khi tôi vào pḥng khách để chào
thầy Trừng Hùng, thầy dặn ḍ:
“Thầy mi gởi mi cho
tao trông coi. Từ nay mọi sinh hoạt cứ theo mấy chú ở đây mà
làm. Có ba đứa thôi, thay phiên nhau tụng kinh, thỉnh chuông,
quét tước dọn dẹp, nấu cơm nấu nước. Ăn uống th́ ở đây kham khổ
lắm, tu hành mà, có chi ăn nấy, không sướng như bên viện đâu.
Ngủ nghỉ th́ cũng có giường riêng như bất cứ chùa nào, nhưng
không có pḥng riêng như bên viện Hải Đức. Ba chú ở chung dăy
nhà Đông bên kia. Đúng giờ th́ lên giường, đúng giờ th́ thức dậy
công phu khuya… Chịu được th́ ở, không được th́ nói cho biết để
tao tính.”
Tôi thưa:
“Dạ được chớ. Sinh
hoạt chùa nào cũng như nhau. Có khác chăng là khác ở cảnh chùa
rộng chùa hẹp mà thôi.”
“Hẹp, dĩ nhiên là
chùa này hẹp hơn bên viện rồi đó. Sao, ở hẹp không được hả? Muốn
chỗ trời cao, biển rộng để vẫy vùng cho thỏa thích hả?”
Tôi lặng thinh, tự
nhủ: “Đây là khóa học nhẫn nhục thứ hai, cũng diễn ra trong cùng
ngôi trường nhỏ năm xưa. Nhưng lần này, ta phải quyết tâm làm
cho được nhiệm vụ của ḿnh; nhiệm vụ đó không những là phải tự
thắng mà c̣n phải cảm hóa luôn cả ông thầy thủ cựu khó tính này
nữa!”
Tự nhắc ḿnh như vậy,
tôi thấy trong ḷng có nhiều hứng thú hơn. Tôi thay đổi thái độ
ngay lập tức, mỉm cười, rồi lễ phép thưa với thầy Trừng Hùng:
“Con đến đây để cùng
với mấy chú nương thầy tu học. Đâu có dám đ̣i hỏi chỗ rộng, chê
chỗ hẹp. Thầy dạy sao, con theo vậy. Cái ǵ không đúng th́ xin
thầy chỉ bảo cho.”
Nghe tôi thưa như
vậy, thầy Trừng Hùng mới dịu xuống, bảo chú Đức đưa tôi qua dăy
nhà Đông để cất đồ đạc. Qua đến nhà Đông, chú Đức quay lại nói
với tôi:
“Sao khi không đang ở
bên đó mà lại chui đầu vào đây? Tôi đang tính chuyện… bỏ đây th́
chú lại đến!”
“Chú tính đi chùa
khác à? Vậy chuyện hộ khẩu làm sao?”
“Suỵt, coi chừng
thầy ấy biết. Nếu ḿnh lo được hộ khẩu chỗ khác th́ mới bỏ đây
được. Bây giờ cứ tạm thời ở đây thôi. Nhưng nói thực là ở đây
ngán lắm, ê ẩm lắm! Tôi sợ chú ở viện quen rồi, chịu không nổi ở
đây đâu.”
“Dữ vậy sao. Tôi
cũng chịu cực chịu khổ giỏi lắm chứ bộ chú tưởng… Hơn nữa, nh́n
qua thấy chùa bây giờ cũng thay đổi nhiều lắm, có nhiều tiến bộ
lắm. Chắc không đến nỗi nào. Chùa có điện nước, pḥng ốc cho
tăng chúng… vậy là thoải mái hơn mấy chùa quê quá rồi.”
“Vấn đề không phải
ở chỗ chịu được cực khổ hoặc có tiện nghi tối thiểu hay không mà
là… thôi, khỏi cần phải nói, để một vài ngày rồi tự khắc chú
biết. Ủa, tôi nhớ chú có kể là hồi xưa chú có ở đây mà?”
“Có. Nhưng bây giờ
quên hết rồi. À, nhớ chứ. Nhớ là h́nh như thầy Trừng Hùng hơi
khó tính.”
Chú Đức bật cười
lên một tràng:
“Nhớ vậy là quá đủ
rồi. Có chừng đó thôi chứ mấy. Nhưng bao nhiêu chuyện khác cũng
sinh ra từ đó mà thôi.”
“Tôi biết chứ. Gặp
thầy ấy mấy lần lúc lo chuyện hộ khẩu là biết rồi. Nhưng tôi vẫn
hy vọng là tụi ḿnh nói vô nói ra, góp ư kiến, nhiều lần, có thể
thầy ấy sẽ thay đổi dần.”
“Chú nói thiệt hay
nói chơi vậy? Thay đổi thầy ấy? Đừng có ḥng. Thầy ầy chỉ muốn
thay đổi tụi ḿnh thôi. Trong mắt thầy ấy, tụi ḿnh vẫn là những
chú tiểu.”
“Cũng được, làm
chú tiểu hoài sướng chứ!”
“Nhưng chú tiểu
th́ phải… thôi, nói ra mệt lắm. Bây giờ phải xuống bếp nấu cơm
cái đă. Bữa nay phiên tôi. Mai phiên chú Thể. Có chú nữa th́
thêm một phiên há. Chú làm bếp nấu cơm được chứ hả?”
“Được. Chỉ sợ là
không khéo thôi. Nấu món ǵ đơn giản th́ không sợ.”
“Đây th́ nấu đơn
giản rồi, chẳng có ǵ rườm rà hết. Này nhé, nêm thức ăn th́
thường chỉ bỏ muối hay chút đường, không bao giờ dùng bột ngọt.
Chiên hay xào th́ đổ chút xíu dầu cho có lệ vậy thôi, đúng ra
phải nói là chiên xào thức ăn bằng nước chứ không phải bằng dầu.
Thiệt đó, đổ chút nước cho khỏi cháy chảo, rồi nêm muối. Vậy là
xong.”
“Ǵ kỳ vậy! À, tại
chùa nghèo không có tiền mua dầu, bột ngọt chứ ǵ. Th́ từ năm
1975 đến giờ mấy thứ đó khan hiếm lắm mà.”
“Không phải, dầu
ăn, bột ngọt, dù thầy ấy chưa bao giờ bỏ tiền ra mua nhưng bá
tánh đem cúng từ lâu nay dồn chứa lại cũng đầy cả kho ở dưới đó
chứ. Nhưng thầy Trừng Hùng không cho xài. Chỉ khi nào có lễ
lược, Phật tử dưới núi lên nấu nướng, lúc đó thầy mới lấy cái lọ
nhỏ, chắt ra chút dầu ăn, rồi xé một tờ giấy nhỏ để sớt ra chút
bột ngọt.”
“Khiếp! Tiết kiệm
dữ vậy!”
“Cho nên mấy bà
Phật tử phụ trách nấu nướng lúc nào cũng mua thêm dầu, bột ngọt
đem theo để khỏi phiền thầy trụ tŕ phải mất công san sớt. Nhiều
người không biết, tưởng chùa không có dầu và bột ngọt nên cúng
cả thùng dầu bự, bột ngọt th́ cúng cả kư lô, nhưng rồi thầy ấy
cũng đâu cho xài.”
“Nhưng những thứ
đó để trong kho hả? Để tôi lấy xài coi thầy ấy nói sao!”
“X́, chú tưởng chú
mới dám nói c̣n tôi th́ lặng thinh lâu nay đó hả? C̣n lâu. Nói
thiệt, ăn chay mà không có dầu ăn với bột ngọt thấy ngán quá
trời. Tôi có cằn nhằn cái vụ đó hoài đó chứ, nhưng thầy ấy nói
thầy bệnh bao tử không ăn dầu, không ăn bột ngọt được. Vậy chú
nói làm sao? Không lư cứ nấu đại theo ư ḿnh để thầy nhịn ăn? Mà
nấu đại cũng khó, v́ dầu ăn thỉnh thoảng ḿnh c̣n lấy ra nấu khi
thầy ấy đi vắng, v́ có nguyên một thùng bự nằm trong kho. Chứ
bột ngọt th́ thầy ấy đem cất vào tủ riêng, khóa lại, làm sao mà
lấy. Cái tủ đựng ba cái đồ quư của thầy ấy đó mà.”
“Kỳ cục! Thầy ấy
bệnh chứ có phải tăng chúng bệnh đâu mà bắt tăng chúng ăn theo,
kiêng cữ dầu, bột ngọt!”
“Th́ tôi cũng nói
như vậy đó. Nhưng có thay đổi ǵ được đâu. Thầy ấy bây giờ là
trụ tŕ mà, lại là chủ hộ nữa, ḿnh căi cho lắm rồi thầy đuổi
thôi chứ có ích ǵ. Tôi và chú Thể đều bị thầy ấy hăm đuổi mấy
lần rồi đó chứ.”
“Thiệt t́nh…”
Vừa lúc đó, thầy
Trừng Hùng từ nhà Tây bước qua, nói:
“Chiều nay tao
không ăn cơm chùa. Phải đi cúng đám, đến tối mới về tới. Mấy đứa
bay lo nấu cơm ăn với nhau, khỏi để phần. Thằng Khang cũng luân
phiên với mấy đứa kia nấu cơm nghe chưa.”
Nói rồi thầy ấy
xuống núi. Chú Đức kéo tôi qua phía bếp:
“Chiều nay thầy ấy
đi vắng để tôi đăi chú ăn bánh xèo!”
“Chú biết đúc bánh
xèo sao?”
“Biết chứ, dễ thôi
chứ khó ǵ. Chút nữa chạy ra chợ mua bột gạo, đậu hủ chiên, nấm
rơm, giá, boa–rô là ḿnh có một bữa bánh xèo ngon rồi. Tôi đăi
ăn mừng chú đến chùa mới… à không, trở về mái chùa xưa!”
“Để học bài học
nhẫn nhục…”
“Bài học nhẫn nhục
hả? Hy vọng chú học được đó, chứ tôi th́ học chẳng nổi rồi, phải
bỏ ngang một ngày gần đây, chú đến thay thế tôi há.”
Giọng chú Đức có
vẻ cay đắng. Tôi thấy
tội nghiệp thay cho chú. Một tăng sĩ trẻ của giáo hội đang học
tại Phật học viện đầy hứa hẹn, trong xă hội mới, phải chui đầu
vào cái xó xỉnh này để học lại những bài học vỡ ḷng của tuổi để
chóp năm xưa! Thương cho chú ấy tức là cũng tự thương cho thân
phận ḿnh. Tôi thấy buồn vô hạn, nhưng tôi cũng tự dặn ḷng, tôi
phải vượt qua tất cả những thử thách nào đang giăng ra trước mắt.
Dù có trường lớp hay không, con đường của người xuất gia vẫn là
t́m cầu giải thoát giác ngộ. Hoàn cảnh xă hội đổi thay nhưng mục
đích đó vẫn vậy, cái mục đích tối hậu đó dường như chẳng dính
nhập ǵ đến các chương tŕnh của trường lớp. Biết đâu chung sống
với vị thầy thủ cựu một cách thái quá này mà có thể t́m được cái
ḿnh muốn t́m!
“À, chú Đức, tôi quên hỏi chú…
cầu tiêu ở đâu. Tôi có ở đây một thời gian hồi nhỏ rồi mà tự
dưng quên mất là cầu tiêu nằm chỗ nào.”
“Cầu tiêu đó hả?...
Ha ha, cầu tiêu? Danh từ ǵ mà nghe lạ quá, h́nh như tôi mới
nghe lần đầu, ở đây chưa hề xài danh từ đó. Nó là cái ǵ vậy?”
“Đừng có giỡn nữa.
Tôi hỏi thiệt đó, nhà cầu đâu, phía sau bếp hả? A, nhớ rồi, hồi
tôi ở đây… h́nh như là phải vác cuốc ra sau núi… Không, có chứ,
có một con đường ṃn chạy ngoằn ngoèo dẫn tới một cái hầm với
miếng ván bắc ngang… Chao ôi, lại gặp cái địa ngục đó dài dài
nữa rồi!”
Chú Đức cười phá ra,
cười tràn cả nước mắt.
Chùa Linh Phong từ
nhiều năm rồi vẫn chưa xây được cái cầu tiêu. Và nhà tắm cũng
không nốt. Trải qua bao nhiêu thăng trầm lịch sử (gần hai trăm
năm từ thời mới lập chùa) mà rồi chùa Linh Phong vẫn nhất quyết
là không xây cầu tiêu và buồng tắm! Vậy là phải tắm ban đêm,
đứng sau b́a núi, dội nước lạnh và run trước gió. Chú Đức nói
thầy Trừng Hùng là vị trụ tŕ có thừa tiền để lo chuyện xây cất
nhà tiêu và buồng tắm nhất, nhưng thầy đă không làm mà cũng
chẳng đưa ra lư do ǵ về quyết định đó. Và như vậy, nhiều năm
nay, từ thầy trụ tŕ đến tăng chúng, cho đến khách thập phương,
đều phải đi ra ngoài núi, nơi có một cái hầm lớn có miếng ván
bắc ngang. Nhắm mắt th́ sợ lọt xuống hầm, mà mở mắt th́ dĩ nhiên
là phải thấy, ôi, cả một cái địa ngục nhầy nhụa với hằng hà sa
số sinh linh đang ngoi ngóp, quằn quại!...