CHƯƠNG
CHÍN
Lâu lắm
tôi mới được ăn lại món bánh xèo nên thấy rất ngon miệng, dù
rằng chú Đức chiên bánh không phải là khéo lắm. Ăn xong th́ cũng
vừa khóa lễ Tịnh độ (tụng kinh A Di Đà vào tám giờ tối). Ba đứa
chúng tôi (tính luôn chú Thể) tụng kinh xong, đóng hết các cửa
rồi lên giường nằm đọc sách th́ thầy Trừng Hùng về, gơ cửa.
“Thể! Mở
cửa,” thầy ấy từ ngoài gọi lớn.
Chú Thể
lật đật chạy đến cửa.
“Tao nói
qua mở cửa bên kia chứ không phải mở cửa ở đây.”
Dăy nhà
Tây của thầy ấy không có khóa bên ngoài, chỉ khóa được phía
trong. Mỗi lần thầy ấy xuống núi trở về, muốn vào nhà Tây, nơi
có pḥng riêng của thầy, th́ phải gọi những người bên nhà Đông
băng ngang chánh điện để qua nhà Tây mà mở cửa.
Chú Thể
lại lật đật chạy băng ngang cửa hông chánh điện để qua nhà Tây.
Nhân cửa nhà Đông mở, thầy Trừng Hùng bước vào nh́n chúng tôi,
đôi mắt trừng trừng như giận dữ. Thực ra, tánh thầy vốn nóng
nảy, cúng đám mệt, về tới nơi lại phải leo
một trăm mấy chục bậc
cấp mới đến chùa nên mới sinh quạu quọ, khó chịu. Chẳng phải
chúng tôi có lỗi ǵ, chỉ v́ thầy ấy đi về mệt mà thôi. Thầy hỏi:
“Hồi chiều
mấy đứa bây ăn thứ chi vậy?”
“Dạ ăn
bánh xèo,” chú Đức đáp.
“Tại sao
vậy? tại sao không nấu cơm lại bày đặt nấu bánh xèo cho mất th́
giờ?”
“Dạ… th́
lâu lâu đổi món cho vui vậy mà. Mấy món như vậy thầy đâu có dùng
được nên…” chú Đức nói ngang đó th́ thầy Trừng Hùng ngắt lời:
“Bây ăn
th́ kệ bây chứ, đâu phải tao hỏi cho tao! Rồi bánh xèo ăn với
thứ chi? Phải đi chợ à?”
“Dạ, chạy
xuống chợ chút xíu để mua rau, mua đậu,” chú Đức đáp.
Thầy Trừng
Hùng nguưt chú Đức một cái rồi bước ra, đến ngang cửa th́ dừng
lại:
“Có tiền
không biết giữ, chỉ biết xài tào lao không à! Mà rồi có mua dầu
ăn không?”
“Dầu
ăn?... Dạ không. Dầu ở chùa có rồi, đâu cần mua thêm chi.”
“Dầu của
chùa đâu phải để chiên bánh xèo ăn chơi. Muốn chơi, muốn xài
tiền sao không giỏi mua luôn dầu!”
Chú Đức
cứng họng chẳng biết nói ǵ. Tôi nghe chuyện cũng muốn lên tiếng
nhưng chưa kịp nói ǵ th́ thầy ấy đă bỏ đi qua nhà Tây.
Hôm sau,
đến lượt chú Thể nấu cơm th́ phát giác cơm dư ngày trước c̣n lại
trong nồi đă bị thiu. Cơm ngày trước là do chú Đức nấu, v́ vậy
chú Thể gọi chú Đức, hỏi:
“Cơm chú
nấu dư hôm qua bây giờ thiu rồi, làm sao đây chú?”
“Vậy
hả? Sao mau quá vậy? Chắc tại trời nóng quá,” chú Đức nói.
“Thôi
lỡ rồi, chắc phải đem đổ cho chim sóc ăn chứ làm sao bây
giờ,” tôi góp ư vào.
Chú Đức
suỵt một tiếng:
“Nói
nhỏ á, thầy Trừng Hùng nghe được la chết. Lâu lâu cũng bị thiu
một lần như vầy, đem đổ ngoài bục đá kia ḱa, nhưng lần nào cũng
bị thầy cằn nhằn suốt buổi.”
Vừa nói
đến đó th́ thầy Trừng Hùng bước xuống, đứng ngang cửa bếp hỏi:
“Chi
dó? Cơm thiu phải không?”
Chú Đức
găi đầu đáp:
“Dạ,
thiu. Chắc tại trời nóng quá.”
“Đừng
có đổ hô trời nóng với trời lạnh. Tao bảo bao nhiêu lần rồi, nấu
cơm phải lựa chừng, đừng bao giờ nấu dư.”
“Th́
cũng lựa chừng đó chứ sao không, nhưng có bữa ai cũng ăn ít hết
th́ cơm phải dư. Làm sao biết được bụng dạ mọi người mà nấu cho
đúng để khỏi dư.”
“Chứ
không phải tại hôm qua mi đúc bánh xèo nên để cơm dư bữa trưa
lại cho thiu sao?”
“Có khi
để từ trưa hôm nay đến chiều hôm sau cũng chưa thiu nữa, chắc
tại…”
“Không
có chắc tại ǵ hết. Mi làm cơm thiu th́ đừng có chắc
tại. Bây giờ đem đi đâu đó?”
“Dạ đem
đổ cho chim ăn,” chú Đức đáp.
“Hừm,
khỏe vậy đó hả, cứ nấu cơm nhiều cho dư, để thiu, rồi đem đổ cho
chim ăn! Chà, chùa này giàu quá há. Cơm gạo của tín thí mà phung
phí vậy à?”
“Chứ
bây giờ làm sao, không cho chim sóc ăn th́ c̣n phí của hơn là
đem chôn nữa.”
“Ai bảo
mi là đem chôn?” thầy Trừng Hùng quắc mắt hỏi lại.
“Dạ…
nếu không chôn th́ đem đổ cho chim ăn,” chú Đức nói, lại tính
mang cơm đi đổ.
“Khoan,” thầy Trừng Hùng gọi giật lại, “để đó, tao có biểu mi
đem đổ đâu mà định đem đi.”
Chú Đức
không kềm được bực ḿnh, đặt nồi cơm trên bàn, bước ra ngoài cửa
bếp. Tưởng cũng nên nhắc ở đây rằng chú Đức tuy c̣n là sa-di,
chưa thọ giới tỳ-kheo nhưng tuổi chú cũng khá lớn, chỉ thua thầy
Trừng Hùng chừng vài tuổi. Cho nên, chỉ v́ giới phẩm mà chú
phải kiêng dè không dám căi ngang với thầy Trừng Hùng chứ tính
theo tuổi tác th́ hai người chỉ như huynh đệ với nhau mà thôi.
Tôi biết là chú ấy kềm ḷng, nhịn nhục dữ lắm.
“Đứng
lại, mi định đi đâu?” thầy Trừng Hùng gọi chú Đức lại.
“Có đi
đâu đâu,” chú Đức trả lời, đứng lại ngang cửa sau của bếp.
Thầy
Trừng Hùng nghiêm giọng nói:
“Đức,
nghe tao nói nè: cơm thiu đó mi phải ăn cho hết, không được đem
đổ cho chim sóc ǵ hết.”
Chú Đức
vùng quay lại:
“Thầy
nói sao? Tôi ăn?”
Tôi
cũng bất b́nh nói vào:
“Lỡ
thiu rồi th́ đổ cho chim, chú ấy đâu có cố ư. Chuyện vậy có ǵ
mà thầy bắt chú ấy phải ăn.”
“Không
có nói tới nói lui ǵ hết. Tao bảo thằng Đức phải ăn cho hết mớ
cơm thiu đó!” thầy Trừng Hùng quả quyết nhắc lại.
Chú Đức
h́nh như ức quá không nói được nên lời nữa. Tôi lại xen vào:
“Cơm đó
chim sóc ăn được. Nói rằng đem đổ, thực ra là đem cho chúng nó
ăn chứ không mất ǵ hết. Thầy bắt chú ấy ăn cơm thiu lỡ chú mang
bệnh th́ ai lo? Thầy có lo thuốc men không hay để chú chạy về
xin tiền gia đ́nh?”
“Chuyện
có mắc mớ ǵ đến mi mà mi xía vô? Tao nói với thằng Đức, tao
không nói với mi. Đức, mi nghe không? Tao bảo mi phải ăn cho hết
mớ cơm thiu đó, không được đem đổ. Làm ǵ th́ làm, mi phải ăn
trước mặt tao. Có bệnh có hoạn ǵ tao chịu hết. Mi mà không ăn
mớ cơm thiu đó th́ đừng có bao giờ ngó mặt tao nữa.”
Nói
rồi, thầy Trừng Hùng bỏ lên nhà trên. Chúng tôi hiểu những chữ
“đừng ngó mặt tao” có nghĩa là ǵ. Có lẽ đó là cụm từ nhă
nhặn, khiêm nhường nhất mà thầy Trừng Hùng có được thay v́ dùng
cụm từ “đuổi cổ ra khỏi chùa”. Những năm trước 1975, bọn sa-di
chúng tôi không ở được chùa này có thể xin qua ở chùa khác, nhất
là khi ḿnh không có lỗi ǵ trầm trọng đối với thầy trụ tŕ hay
giáo hội. Trường hợp một chú sa-di bị đuổi khỏi chùa không phải
là hiếm, nhưng chú ấy có thể xin vào bất cứ chùa nào, và có thể
xin thọ giáo từ bất cứ vị thầy nào khác; ngoài ra, chú ấy cũng
có thể xin vào tu học tại các tu viện, Phật học viện có đông
tăng chúng; hoàn cảnh như vậy không có ǵ bức ngặt lắm. C̣n
trường hợp một tu sĩ bị khai trừ bởi giáo hội địa phương hay
trung ương là trường hợp rất hy hữu. Mà giáo hội Phật giáo, v́
không có giáo quyền tuyệt đối nên sự khai trừ đó cũng chỉ có ảnh
hưởng rất giới hạn. Như vậy, chuyện bị đuổi ra khỏi chùa, thực
ra ở cỡ tuổi tôi và chú Đức th́ không đáng ngại. Thậm chí lớp
sa-di chúng tôi có thể tự tạo lấy một cái am tranh chứ không cần
phải ở chùa. Chuyện tu học t́m cầu giải thoát đâu có quan hệ ǵ
với chùa to, chùa nhỏ hay nhà gạch, nhà lá! Từ năm 1975 đến nay,
đă có khá nhiều thầy trẻ và các chú sa-di cỡ tuổi chúng tôi v́
lư do nào đó, đi kinh tế mới, hoặc khai phá đất rẫy để tự túc
sinh sống tu học. Những cḥi tranh, nhà lá rải rác trên các miền
rừng núi đó chẳng mang dáng vẻ ǵ của một ngôi chùa, nhưng không
ai phủ nhận được h́nh thức và cương vị xuất gia của những vị chủ
nhân đang sống trong đó. Dù sao, muốn có được cái am tranh trên
một cái rẫy cũng phải chuẩn bị trước, và liệu rằng có xin được
hộ khẩu hợp pháp ở địa phương đó hay không. Cái hộ khẩu dưới chế
độ cộng sản là bùa hộ mệnh của mỗi người dân. Chú Đức đă xin
được hộ khẩu tại chùa Linh Phong, nếu bất ngờ bị thầy Trừng Hùng
đuổi đi, đ̣i gạch tên khỏi hộ khẩu th́ thực là phiền. Có lẽ thầy
Trừng Hùng đă nắm được chỗ nhược này.
Từ lúc
nghe thầy Trừng Hùng ra lệnh hăm dọa, chú Đức ngồi im ở bàn ăn,
mặt sầm xuống trông rất tội nghiệp. Tướng tá vạm vỡ, vai u thịt
bắp của chú, ai nh́n cũng thấy sợ, mà kỳ thực, chú hiền như cục
đất. Thỉnh thoảng chú cũng nổi chút ngang ngạnh, căi lại với
người khác, nhưng rồi cũng dịu ngay sau đó, để rồi trở lại với
nguyên trạng của một cục đất.
Phải
một lúc sau, h́nh như là để đợi cho cơn nóng giận phẫn uất trong
ḷng lắng xuống hoàn toàn, chú mới đứng dậy trút cơm thiu từ
trong nồi ra một cái rá, đặt vào trong một cái thau, mang ra sau
bếp, chỗ thùng phuy đựng nước. Tôi bước theo chú, hỏi:
“Chú
làm ǵ vậy?”
“Rửa,”
chú đáp.
“Rửa
cơm à? Chi vậy?”
“Rửa
cho bớt chất nhớt rồi để ráo nước một chút, đem vào chiên ăn.”
Tôi
nghe như vậy th́ cổ họng thấy nghẹn lại. Chợt nghĩ, có lẽ khi
năy chú ngồi im để nhớ đến gia đ́nh ruột thịt với sự chăm sóc
yêu thương của cha mẹ, của anh chị em, tận ngoài Huế–mấy
ông thầy tu trẻ thường có cái tâm cảnh đó: một là khi bệnh nặng,
hai là lúc bị hất hủi, thường hay nhớ về gia đ́nh ruột thịt. Chú
có kể tôi nghe, chỉ v́ muốn sống xa gia đ́nh cho dễ tu học nên
khi Phật học viện Nguyên Hương ở Phan Thiết giải tán (v́ cộng
sản toàn chiếm miền Nam) chú mới ghé Nha Trang xin vào chùa Linh
Phong chứ đâu phải ngoài Huế chú không có chỗ ở.
Nh́n
chú cúi gằm mặt xuống rửa cơm thiu, mặt tái xanh, mắt như rướm
lệ, bất giác trong tôi bỗng trỗi dậy một niềm thương cảm vô hạn,
đồng thời một niềm tin trong sạch và cao khiết cũng bừng tỏa
trong tôi như một luồng sáng, trong chớp nhoáng tràn ngập khắp
không gian, hay như một tiếng hét, một tiếng ca hùng tráng vươn
khỏi mấy từng cây cao trên đầu núi… Tôi liền nhớ đến mấy câu thơ
của thiền sư Huyền Giác trong Chứng Đạo Ca do cụ Trúc
Thiên dịch mà tôi thuộc ḷng, cảm hứng đọc cho chú Đức nghe:
“Đi
cũng thiền, ngồi cũng thiền,
Nói
– im, động – tịnh, thảy an nhiên
Phỏng gặp gươm đao thường nhẹ hững
Ví
nhằm thuốc độc vẫn bồng tênh.”
Chú Đức
ngước lên nh́n tôi, cười nói:
“Cái
này chẳng phải thuốc độc đâu. Ăn vào chẳng chết chóc ǵ, nhưng
ớn quá là ớn! Ớn rùng ḿnh đi được.”
Tôi cố
gắng nhắc chú Đức:
“Trong
Chứng Đạo Ca cũng có đoạn nói là những kẻ hại ḿnh, chửi mắng,
dèm pha, báng bổ ḿnh chính là thầy của ḿnh đó. Vị thầy này dạy
cho ḿnh hạnh nhẫn nhục. Phải đón nhận những điều chua cay đó
như uống nước cam lồ. Không những ḿnh không oán mà c̣n phải
cung kính tạ ơn vị thầy đó nữa. Chứng Đạo Ca chú từng đọc
rồi. Tôi chỉ nhắc lại để chú nhớ thôi. Ở chùa này ḿnh cần thiết
phải học cái nhẫn nhục nếu không th́ chịu không thấu đâu.”
Bữa cơm
do chú Thể nấu đă dọn ra, đơn giản. Món đậu hủ kho và canh rau
muống. Chùa có bốn người nên dọn chung một bàn, chia làm hai
mâm. Thầy Trừng Hùng một mâm, ba đứa chúng tôi một mâm. Nhưng
trong mâm cơm của chúng tôi hôm nay, có thêm một tô cơm thiu
chiên lại của chú Đức. Ngồi vào bàn ăn, thầy Trừng Hùng liếc qua
một cái rồi nói:
“Cơm đó
để thằng Đức ăn một ḿnh. Tao không bắt thằng Khang, thằng Thể
ăn.”
“Dĩ
nhiên là ăn một ḿnh chứ có kêu ai ăn phụ đâu,” chú Đức nói lầm
bầm rồi bới cơm thiu vào chén của chú. Tôi cũng kéo tô cơm thiu
về phía ḿnh, chú Đức cố giằng lại nhưng tôi đă giành hẳn tô
cơm, tự động lấy vá xúc cho ḿnh một chén. Vậy mà tô cơm hăy c̣n
lại gần hai chén. Thầy Trừng Hùng nói:
“Tao
bảo để thằng Đức ăn một ḿnh.”
“Chú ấy
ăn không hết đâu.
Con muốn
ăn phụ,” tôi đáp.
Thầy Trừng
Hùng nguưt tôi rồi nói:
“Thôi kệ
bây, muốn làm chi đó th́ làm.”
Tôi chan
nước tương vào chén cơm thiu, và ăn. Dù chú Đức đă rửa bớt, cơm
vẫn c̣n nhớt và dĩ nhiên là hôi chua rất khó nuốt. Tôi chú tâm
đọc bài kinh Bát Nhă, cơm lùa vào miệng chỉ việc nhai rồi
nuốt, không để cho vị giác nẩy sinh phân biệt, vô tâm vô niệm
như nước chảy qua ghềnh, như mây bay qua núi… Chú Đức cũng nhăn
mặt nhăn mày nuốt cơm thiu một lúc rồi chợt ngó qua tôi, cười,
hỏi nhỏ một câu:
“Khi năy
chú nói chỉ cần đọc một đoạn Bát Nhă Tâm Kinh… Vậy có
phải đoạn đó là: Thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt,
bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm…?”
Tôi vừa
mới gật đầu th́ thầy Trừng Hùng la:
“Ăn cơm
không có nói chuyện. Muốn nói ǵ th́ ra ngoài đường mà nói.”
Hết chén
thứ nhất của ḿnh rồi, tôi và chú Đức lại chia nhau phần cơm
thiu c̣n lại. Xong chén cơm thiu thứ hai, chúng tôi không c̣n
bụng dạ nào để ăn thêm cơm mới nấu của chú Thể.
Bữa ăn trôi qua.
Ô
Với ư niệm xem những
nghịch cảnh như là ân nhân, là thầy dạy, là thử thách cần thiết
cho bước đường tu tập của ḿnh, những ngày kế tiếp, tôi đă dễ
dàng chấp nhận nếp sống khô khan, khuôn thước một cách cổ lỗ của
chùa Linh Phong, và tôi cũng đă dễ dàng vui vẻ ḥa nhập với tính
ư của thầy Trừng Hùng. Tôi và chú Đức thường theo thầy Trừng
Hùng đi cúng đám, từ cầu an, an vị Phật cho đến cầu siêu, đám
tang v.v… Không có đám nào ở Nha Trang mời mà thầy Trừng Hùng từ
chối. Hễ ít đám th́ thầy kéo cả tôi và chú Đức cùng theo để hộ
niệm, c̣n nhiều đám cúng chung một giờ trong một ngày th́ thầy
chia mỗi người lănh một đám, không bỏ sót đám nào. Tôi và Đức
sành nghi lễ Huế, lại thêm có hơi giọng mạnh nên thầy Trừng Hùng
rất thích. Có khi trong một ngày, thầy kéo chúng tôi đi cúng ba,
bốn đám, từ sáng sớm đến tối mịt mới về tới chùa. Chỉ có chú Thể
là được cắt ở chùa để lo thỉnh chuông và tụng kinh hàng ngày.
Chính trong thời
gian đi tụng đám khắp Nha Trang đó, tôi có cơ hội t́m hiểu thêm
về sinh hoạt thực tế dưới chế độ mới.
Trong một khóa lễ ở
chùa, có thể có hàng trăm thiện nam tín nữ tham dự. Nhưng con số
hàng trăm người đó chỉ có mặt để tụng niệm, không phải để giải
bày tâm t́nh và hoàn cảnh sống của họ. Khi đến nhà từng người để
tụng kinh, người tăng sĩ mới thực sự lắng nghe và chứng kiến đời
sống thế tục, đời sống thực tế. Có gia đ́nh chẳng than văn ǵ,
nhưng mức sống kham khổ và nỗi đau tinh thần của họ cũng được
phơi bày qua mức chi tiêu, sắm sửa cho một đám tang, một khóa lễ
riêng tại nhà. Bao nhiêu sách vở báo chí nói về chủ nghĩa cộng
sản cũng không thể đầy đủ bằng một giờ một ngày sống dưới chế độ
ấy, nh́n thấy thực trạng xă hội diễn ra trong từng bữa cơm, từng
mẩu đối thoại nhỏ của những người trong gia đ́nh. Và ngay cả
những ǵ tôi được biết về chế độ mới qua những ngày ở chùa Long
Tuyền Hội An, ở viện Hải Đức, chuyện nhà nước chiếm chùa, theo
dơi tăng sĩ, bắt bớ tăng sĩ đi nghĩa vụ quân sự, chuyện đốt sách
báo, chuyện sĩ quan và công chức chế độ trước bị tập trung cải
tạo, chuyện nhà nước chiếm dụng nhà riêng của dân… bao nhiêu
điều đó cũng chỉ là một phần nhỏ trong bức tranh đời sống hiện
thực của xă hội ngày nay. Cứ nh́n những bộ mặt nơm nớp lo âu của
những người trên đường th́ biết. Dường như người dân chung quanh
tôi đă không c̣n cất nổi tiếng cười, thậm chí không c̣n mỉm được
nụ cười chào nhau. Mọi người có vẻ như đang cúi gằm mặt xuống để
cam chịu một gánh nặng trên vai, trên lưng. Với kiến thức nông
cạn của một thanh niên mười tám tuổi, tôi không làm sao hiểu nổi
ngoài hiện trạng là người cộng sản đang cầm quyền, đâu là những
nguyên do chằng chịt liên hệ dẫn đến thảm trạng này cho đất nước
quê hương; nhưng tôi có thể linh cảm được rằng, h́nh như dân tôi
đang bị lùa dần vào một thảm họa. Cái thảm họa kinh khiếp nhất,
ghê tởm nhất, mà ở đó, tất cả ư thức về đạo đức, tất cả niềm tin
và hoài vọng cao đẹp, thậm chí tất cả những ư niệm về chân thiện
mỹ cũng bị lột và vất bỏ đi như những cái vỏ chuối , để lại
những cái máy người cằn cỗi với những cái đầu rỗng tuếch, và với
những trái tim vô hồn, vô cảm.
Cho nên chuyện người
dân bỏ trốn ra khỏi nước–nhà nước mới gọi là vượt biển, vượt
biên và kết tội phản quốc–ban đầu có vẻ như chỉ dành
cho những người giàu có và những người Hoa kiều đi bán chính
thức, nhưng càng ngày nó càng trở nên phổ biến và trở thành giấc
mộng chung của những người yêu chuộng tự do, những người muốn
t́m đường cứu nước, lẫn những người muốn được yên thân hay vinh
thân bằng cơ hội tiến thân dễ dàng ở các nước văn minh tự do. Ai
cũng có thể đi vượt biên được miễn là có chút ít tiền để chung
góp với nhau, kẻ mua lương thực, người mua xăng nhớt, hoặc đóng
tàu đóng ghe. Thậm chí có người không có tiền bạc chi cả nhưng
có tấm hải đồ, hoặc cái hải bàn, hay chỉ một cái ống ḍm là cũng
có thể được đi vượt biên. Những anh hoa tiêu trong hải quân là
hạng ưu tiên số một được các nhóm vượt biển mời đi miễn phí. Sau
này, có người giả xưng hoa tiêu, hoặc chỉ xưng ḿnh là lính hải
quân của chế độ cũ, là cũng được tin tưởng để giao phó công tác
làm hoa tiêu cho một chuyến hải hành. Giấc mộng tự do đă tạo nên
một phong trào hấp dẫn nhất, và có thể nói là quan trọng nhất
trong sinh hoạt quốc gia, thu hút bao nhiêu người dân và kéo
theo cả những cán bộ, bộ đội cộng sản vào. Những người cán bộ
cộng sản nếu không vượt biên theo dân th́ cũng bị cuốn theo ḍng
thác vượt biên bằng các mánh khóe, các cách làm ăn phi pháp: nào
là bán băi, nào là làm giấy tờ giả, giấy phép đánh cá, giấy phép
đi biển, giấy xuất cảnh v.v… Đủ các ngơ ngách để moi móc túi
tiền của những người muốn vượt biên. Rồi trong sự phản diện giữa
một xă hội đói thiếu gạo cơm và viễn ảnh tự do no ấm ở nước
ngoài, tự dưng có một số người nẩy ra những sáng kiến lừa gạt,
tráo trở vô cùng tinh tế, miễn sao thu được tiền bạc hoặc chen
chân được xuống ghe tàu là quí, chẳng màng đến chuyện đạo đức
thị phi ǵ nữa. Trong khi những cán bộ cộng sản lợi dụng sự khát
khao tự do của người dân để làm tiền th́ những người ấy cũng
nhân danh cứu cánh tự do mà không từ bỏ bất cứ một xảo thuật
gian trá, đảo điên nào để thủ lợi cho ḿnh. Nạn nhân của chuyện
lường gạt vượt biên ấy không thiếu ǵ. Chú Đức và tôi cũng là
hai nạn nhân rất buồn cười trong giai đoạn ấy.
Vào một chiều nọ,
chùa có khách từ Sài G̣n ra. Khách là một chàng thanh niên tên
Tâm, cũng người Huế, đâu chừng hai mươi bốn tuổi. Không rơ do ai
giới thiệu, Tâm lên núi, vào chùa hỏi thầy Trừng Hùng và xin
được ở lại đêm. Thầy Trừng Hùng viện lẽ Tâm không có đầy đủ giấy
tùy thân và giấy thông hành nên không cho. Tâm được mời ăn bữa
cơm chiều tại chùa rồi xuống núi. Trước khi rời chùa, Tâm tự
động đến làm quen với Đức và tôi, rủ chúng tôi ra ngồi chơi ở
bậc tam cấp trước chùa để nói chuyện cho thoải mái, rồi tự giới
thiệu ḿnh là thị giả cũ của Ḥa Thượng Già Lam (tức là
Ḥa Thượng Thích Trí Thủ, một vị cao tăng đức độ trong nước mà
ai cũng biết). Thực ra chức thị giả trong chùa chẳng là
ǵ cả, chỉ là người hầu hạ, bưng cơm nước, quét dọn pḥng ốc cho
một vị thầy (thường là trụ tŕ và cao tuổi); nhưng tự
xưng là ‘thị giả của Ḥa Thượng Già Lam’ th́ cũng gây
được chút uy tín đối với người lạ. Không rơ v́ lư do ǵ, Tâm
không c̣n mang h́nh thức tu sĩ nữa. Tâm cho chúng tôi biết rằng
anh đă hoàn tục chừng nửa năm trước để lo chuyện vượt biên. Anh
c̣n nói rằng hiện gia đ́nh mẹ nuôi của anh ở Sài G̣n đang muốn
tổ chức một chuyến vượt biên cho gia đ́nh, tốn bao nhiêu vàng
cũng chịu. Tâm ra Nha Trang để t́m ngơ đi. Nếu có ghe tàu và băi
tốt, Tâm sẽ mang gia đ́nh mẹ nuôi từ Sài G̣n ra. Tất cả chi phí
do gia đ́nh ấy đài thọ.
“Mấy chú có quen ai
ở Hà-Ra hay Xóm Bóng không?” Tâm hỏi.
Đức lắc đầu. Tôi th́
c̣n đang suy nghĩ. Tâm nói tiếp:
“Nếu hai chú mà giới
thiệu được một người nào có ghe đánh cá, bất cứ ở vùng biển nào,
Nha Trang, Xóm Bóng, Hà Ra, Ba Làng, Băi Dương, Đại Lănh, Vạn
Giă, Tu Bông… tôi sẽ cho các chú đi theo, khỏi tốn đồng bạc nào
hết.”
Nghe được chuyện ấy,
cái mộng vượt biên nẩy nở thật nhanh trong tôi. Tôi không ngờ
chuyện vượt biên đơn giản đến như vậy: chỉ cần biết người nào có
ghe, giới thiệu cho người có tiền, vậy là được đi, quá khỏe!
Không cần phải t́m cho ra một cái ống ḍm vốn khan hiếm và đắt
tiền. Không cần phải có hải bàn, hải đồ là dụng cụ chuyên môn
của ngành hàng hải mà cả đời chưa hề nh́n thấy. Không cần phải
là hoa tiêu. Không cần phải là tài công. Không cần phải là một
anh lính hải quân (dù là anh hải quân chưa hề đặt chân xuống
tàu). Không cần phải có tiền hay vàng thật nhiều–điều kiện mà
tăng sĩ tu núi như tôi không bao giờ có thể hội đủ. Không cần
phải là Hoa kiều. Và… không cần phải làm bộ lấy một cô gái Tàu…
Dù háo hức trong
ḷng, tôi cũng không nói ǵ. Chỉ có Đức lên tiếng:
“Anh Tâm hay là chú
Khang đi vượt biên c̣n có lư, chứ tôi đâu có biết tiếng Anh; c̣n
tiếng Pháp th́ sơ sơ dăm ba chữ, đi làm ǵ.”
Tâm quay sang tôi,
hỏi:
“Chú Khang biết
tiếng Anh khá không?”
“Không. Có học chi
nhiều đâu. Chút xíu thôi.”
“Vậy hả. Các chú
đừng lo. Qua bên đó tôi dạy cho hai chú tiếng Anh. Trước năm
1975 tôi học Văn khoa. Tôi đi dạy kèm Anh văn từ lúc mới mười
sáu, mười bảy tuổi kia,” Tâm khoe; ngưng một lúc rồi tiếp, “c̣n
như mấy chú không có thân nhân ở nước ngoài th́ tôi cũng lo được
hết. Ba nuôi tôi trước làm cho ṭa đại sứ Việt Nam tại Mỹ, hiện
ông đang ở bên đó. Bao nhiêu người ổng cũng bảo lănh, lo ǵ. Đi
qua Mỹ tiếp tục tu học chứ ở lại với mấy ông cộng sản này làm ǵ
chứ, phải không? Vả lại, đâu phải biết ngoại ngữ mới đi vượt
biên. Thiếu ǵ người có học hành chi đâu, cũng đi qua Mỹ đó. Dân
đánh cá cũng đi nữa mà, huống chi tụi ḿnh là dân có ăn học.”
Chú Đức nghe chừng
xuôi tai rồi, không kềm được phấn khởi, liền hỏi:
“Vậy bây giờ anh
muốn hai đứa chúng tôi đóng góp ǵ, anh nói lại đi? Chỉ t́m
người nào có ghe tàu đánh cá thôi, phải không?”
“Ừ, t́m người có ghe
nhưng phải là chỗ tin tưởng được, tức là phải có quen biết bằng
cách nào đó. Rồi mấy chú cũng coi thử gia đ́nh nào có tiền mà
muốn đi th́ giới thiệu cho tôi luôn. Có thêm người đi th́ cũng
đỡ vất vả tài chánh cho phía bà mẹ nuôi của tôi chứ. Với lại…
mỗi chuyến tôi từ Sài G̣n ra Nha Trang, tốn kém dữ lắm, nào tiền
xe cộ, nào ăn uống ngoài đường, thuê pḥng trọ… một ḿnh tôi tự
lo, chịu sao thấu. Tôi không muốn lấy tiền của bà mẹ nuôi; chỉ
muốn lo xong việc rồi mới kêu bà ấy bỏ tiền ra mua lương thực,
mua băi này nọ… Mấy chú hiểu chứ ǵ!”
Tôi và Đức gật gù tỏ
ư hiểu, nhưng thực ra th́ chúng tôi chưa hiểu ư Tâm muốn ǵ. Một
lúc lâu, thấy chúng tôi thực sự không hiểu, Tâm mới nói rơ ràng
hơn:
“Bây giờ hai chú có
bao nhiêu tiền góp trước cho tôi để tôi đi xe, đi tàu, lo công
việc chung. Ngày mai tôi vào Sài G̣n nói bà mẹ nuôi đưa trước
mấy cây vàng để khi đi nói chuyện ḿnh mới gây được niềm tin cho
chủ ghe. Trong thời gian tôi vào Sài G̣n, mấy chú ở ngoài này lo
t́m ghe, khi ra lại, tôi sẽ theo mấy chú đến nói chuyện với
người ta. Mà chuyện vượt biên này rất là nguy hiểm, mấy chú đừng
tiết lộ với bất cứ ai, công an mà biết được chúng bắt mấy chú bỏ
tù rục xương đó! Ngay cả với thầy Trừng Hùng, các chú cũng đừng
nói chuyện này. Ông ấy có vẻ khó chịu và bảo thủ lắm, chắc chắn
là không muốn mấy chú vượt biên đâu… À, t́m được mối ghe rồi,
các chú chuẩn bị chút tiền bạc, có thứ ǵ bán được th́ bán. Khi
tôi từ Sài G̣n ra lại là cũng sắp đến ngày lên đường rồi đó. Tuy
rằng người ta sẽ lo liệu mọi thứ, nhưng ḿnh có tiền mang theo
cũng tốt hơn là đi cái mạng không.”
Nghe chuyện Tâm nói
thật rành mạch, hữu lư, tôi chẳng nghi ngờ ǵ nữa, gục gặc nói:
“Để tôi vào trong
coi thử có được bao nhiêu tiền.”
Chú Đức vốn
cũng là bậc
thầy của tôi trong chuyện nhẹ dạ, dễ tin, thấy tôi vào trong lấy
tiền th́ cũng đi theo:
“Anh Tâm ngồi chờ
ngoài này nghe, để tôi với chú Khang vào trong chút rồi ra.”
Vậy là hai đứa chúng
tôi gom hết tiền bạc c̣n sót lại trong túi áo, hộc bàn, gồm tiền
lương tháng trước c̣n lại của hai người, cộng thêm ít tiền riêng
của chú Đức do gia đ́nh gởi cho. Cả thảy được chừng một ngàn
đồng. Tiền của tôi ít hơn v́ giờ làm việc của tôi ít thua Đức,
mà cũng v́ tôi tiêu vào tiền sách nhiều hơn Đức. Một ngàn đồng
đối với chúng tôi lúc ấy khá lớn (lương tháng của tôi chừng năm
trăm đồng) nhưng nếu đem đun vào cái ḷ vượt biên th́ chẳng thấm
vào đâu. Được đi nước ngoài với cái giá đó th́ c̣n ǵ may mắn
hơn. Chúng tôi mang tiền ra, giao hết cho Tâm. Đức nói:
“Hiện giờ chúng tôi
chỉ có bao nhiêu đó thôi. Chưa chuẩn bị trước. Lần sau anh ghé,
chắc đỡ hơn.”
Tâm cầm tiền, liếc
sơ một cái, ngó bâng quơ lên trời, dưới đất, rồi nói giọng cảm
động:
“Mấy chú ở chùa làm
ǵ có tiền có bạc. Tôi từng ở chùa tôi biết chứ. Tụi ḿnh mới
thực là vô sản đó. Cho nên, cầm tiền của mấy chú thấy đau xót
quá. Nhưng đành phải vậy thôi, ḿnh phải chia sẻ với nhau những
đồng tiền tạm bợ này, chứ ít hôm nữa ra nước ngoài tu học, tiền
này có đáng ǵ đâu! Mấy hôm nay chạy lo công việc, tôi nhịn đói
nhịn khát, khổ như chó…” Tâm tằng hắng lấy giọng, rồi nói tiếp,
“Thấy mấy chú chí t́nh thực tội nghiệp, tôi muốn nói thật mấy
chú nghe: thực ra, bây giờ tôi đă có sẵn một chuyến vượt biên
rồi nhưng gấp lắm, trong ṿng tuần lễ đến mười ngày thôi. Tôi sợ
vào Sài G̣n gọi mẹ nuôi tôi mà bà ấy chuẩn bị không kịp, nên mới
nói mấy chú lo t́m một ghe khác để sẵn. Trường hợp bà ấy lo kịp,
tôi sẽ nói bà cho hai chú đi luôn; c̣n không kịp… th́ tôi với
mấy chú đi. Bỏ bà ấy ở lại đi chuyến khác.”
Chú Đưc xen vào:
“Vậy kỳ quá. Lỡ bà
ấy không biết cách lo đi th́ sao?”
“X́, bà ấy có tiền
th́ lo ǵ, trước sau ǵ cũng lọt thôi. Có bọn ḿnh là khổ, là
khó thôi, được cơ hội th́ phải nắm lấy, tại sao phải bỏ. Cho
nên, tôi mới nghĩ ra cách này: nếu mẹ nuôi tôi không kịp đi
chuyến này, tôi xin bà ấy một ít vàng cho phần tôi. C̣n phần hai
chú, ở ngoài này cố chạy sao cho đủ, thiếu th́ tôi bù thêm cho.”
Tôi hỏi:
“Mỗi người cần bao
nhiêu?”
“Mỗi người ba cây,”
Tâm đáp.
Đức bật cười lên ha
hả, rồi nói:
“Tôi với chú Khang
làm ǵ có được số đó!”
Tôi hỏi:
“Ba cây là bao
nhiêu?”
“Là ba lượng vàng
đó,” Đức đáp, “một lượng có mười chỉ, một chỉ có mười phân. Khi
năy ḿnh gom tiền của hai đứa mới được có một phân, mong ǵ gom
đủ sáu cây!”
Tâm nói:
“Đó là nói cái giá
chính thức mà khách muốn đi phải có thôi, chứ hai chú ở chùa th́
tôi biết chứ, làm ǵ có vàng như người ta. Nhưng v́ tôi là người
đứng lo tổ chức, tôi có thể xin cho hai chú được, miễn là hai
chú cố gắng gom hết những ǵ ḿnh có thể gom, được bao nhiêu
cũng quí, rồi tôi nói với người ta. Tôi dàn xếp cho hai chú được
mà. Ủa, chứ bộ hai chú không xin được chút nào từ gia đ́nh hết
sao? Gia đ́nh hai chú ở đâu?”
Đức nh́n tôi, thấy
tôi im lặng, bèn nói:
“Gia đ́nh tôi ở Huế.
C̣n gia đ́nh chú Khang th́ ở đây. Nhưng… có đi th́ cũng tự túc
lo đi chứ ai mà nhờ vả gia đ́nh làm ǵ. Thời buổi này gia đ́nh
nào cũng gặp khó khăn…”
“Dĩ nhiên là ai cũng
gặp khó khăn rồi. Nhưng nghe mấy chú muốn đi ra nước ngoài, chắc
chắn là gia đ́nh cũng túm vén chút ít chi đó cho mấy chú chứ. Ai
lại chẳng muốn con ḿnh được ra nước ngoài tu học nên danh nên
phận. Phải không chú Khang? Nhà chú ở gần đây hả?”
Tôi nói:
“Tôi không có thói
quen xin tiền gia đ́nh. Không phải v́ gia đ́nh đang gặp khó khăn
vào thời buổi này, mà ngay cả những năm trước 1975 nữa kia, tôi
cũng không muốn lấy tiền của gia đ́nh gởi cho, huống chi lại mở
miệng xin. Chuyện vượt biên, nếu may mắn có cơ hội đi th́ đi,
không có th́ thôi, tôi không mơ ước chuyện đó điên cuồng đến độ
phải phiền đến gia đ́nh hay cầu cạnh người nào khác.”
Đức nói:
“Ừ, phải rồi. Ba cây
cho mỗi người th́ không cần phải bàn tán nhiều, mất công. Chắc
chắn là tôi và chú Khang không có khả năng. Hơn nữa, chuyến đó
gấp quá, lo chuyến khác đi. Như anh Tâm đă nói khi năy, tôi và
chú Khang sẽ lo t́m mối ghe, c̣n anh lo chuyện tổ chức này nọ.
Vậy dễ cho chúng tôi hơn.”
Tâm nói:
“Nói như mấy chú th́
khỏe quá. Thực ra khi người ta đă có mộng vượt biên th́ có cơ
hội là chụp ngay, biết chuyến nào là tốt, chuyến nào là xấu mà
chọn lựa! Chuyến nào đến trước th́ lo chuyến đó.”
“Nhưng đây không
phải là cơ hội. Không có đủ tiền đi th́ coi như chẳng có cơ hội
ǵ. C̣n mộng vượt biên hả? Cái mộng đó mới đến với chúng tôi từ
khi anh đề cập đến chuyện vượt biên không cần tốn nhiều tiền,
chỉ cần lo mối ghe thôi… Lâu nay chúng tôi có mơ ước ǵ chuyện
vượt biên, cứ nghĩ đó là chuyện của người ta thôi,” Đức nói
giọng buồn.
Tâm đổi giọng:
“Đă nói các chú cố
gắng lo hết ḿnh, được bao nhiêu th́ được. Thiếu th́ tôi bù đắp
hoặc t́m cách dàn xếp với người ta. Bây giờ phải coi nhau như
anh em, được th́ cùng đi, không th́ cùng ở lại. Tôi lo phần tôi,
hai chú lo phần hai chú, cứ chuẩn bị trước đi, có bao nhiêu gom
bao nhiêu, có thứ ǵ bán được th́ bán, gom tiền lại để đó. Khi
tôi đến gọi mấy chú đi, là có sẵn, khỏi mất công quưnh quáng
chạy lo nữa. Tôi hứa là dàn xếp cho cả hai chú mà.”
Vậy rồi Tâm từ giă
chúng tôi, xuống ga tàu hỏa trở vào Sài G̣n.
Khi chúng tôi quay
vào trong, thầy Trừng Hùng gọi lại hỏi:
“Năy giờ hai đứa mi
ở đâu vậy? Nói chuyện chi với thằng Tâm phải không?”
“Dạ th́ chú Tâm kể
chuyện mấy chùa trong Sài G̣n đó mà,” Đức đáp.
Thầy Trừng Hùng cảnh
cáo:
“Cái thằng Tâm đó
không phải là người có thể tin được. Nh́n qua th́ thấy cao ráo
bảnh trai lắm, nhưng con mắt lươn liếc dọc liếc ngang, cái miệng
th́ nói dẻo đeo, cứ một chốc lại liếm môi như thế th́ chẳng phải
là người ngay thẳng. Ngó mặt hắn là tao thấy ngay là thằng đểu.
Tụi bây liệu hồn mà kết bạn kết bè với hắn.”
Dù thầy Trừng Hùng
nói vậy, chúng tôi vẫn không nghe. Tôi phác vẽ một chương tŕnh
tu học, làm việc cũng như con đường đến xứ Phật sau khi ra được
nước ngoài cho chú Đức nghe, và nó cũng mau chóng trở thành ước
mơ khôn nguôi của Đức. Ước mơ đó làm mờ cả những phán đoán của
chúng tôi. Trong tuần lễ kế tiếp, chúng tôi thực sự gom hết vốn
liếng tài sản của ḿnh để chờ đợi Tâm. Vốn liếng có bao nhiêu
đâu, cũng là tiền lương mới lănh của tháng cộng thêm tiền bán
cây đàn ghi-ta của tôi cất trong pḥng riêng bên viện Hải Đức,
cùng với chiếc xe đạp mới của chú Đức–chiếc xe đạp mà chú nói là
của gia đ́nh từ Huế gởi tiền vào cho chú mua. Cộng hết tiền
lương của chúng tôi với tiền bán đồ chỉ hơn ba chỉ vàng một
chút, chú Đức nói tôi biết như vậy. Trong mấy ngày đó, tôi đi
t́m lại các bạn học cũ ở xóm cầu Hà Ra, Xóm Bóng, và cả những
bạn học cũ ở thành phố Nha Trang mà tôi hy vọng sẽ cho tôi được
chút manh mối ǵ về những ông chủ ghe nào đó. Tôi c̣n đi ra Vạn
Giă, đến chùa Linh Sơn và Giác Hải gặp các bạn tu của ḿnh để
nhờ t́m mối… Các bạn ở chùa Linh Sơn có hứa giới thiệu cho tôi
một vài chủ ghe của xóm chài gần chùa. Ngoài ra c̣n hứa nếu có
chuyến vượt biên nào mời một ông thầy theo để cầu nguyện th́ sẽ
giới thiệu tôi. Kể từ đó tôi biết thêm rằng tu sĩ không tiền như
tôi cũng có giá trị lớn trong một chuyến vượt biên như anh chàng
hoa tiêu hay tài công vậy, chỉ tại nhiều người không dám mời tu
sĩ đi v́ nghĩ rằng tu sĩ không cần vượt biên. Người ta nghĩ rằng
tu hành th́ ở đâu cũng được, bon chen ra nước ngoài để đấu
tranh, để làm giàu hoặc hưởng thụ văn minh làm ǵ!
Quả nhiên đúng tuần
lễ sau, Tâm trở lại. Lần này Tâm có vẻ gấp gáp lắm, bảo chúng
tôi đưa ngay tiền để anh đi nói chuyện với người ta; được th́
anh sẽ quay trở lại gọi chúng tôi chuẩn bị đi, không được anh
cũng mang tiền về đưa trả cho chúng tôi giữ, chờ lo chuyến khác.
Anh vỗ mấy cái nơi lưng quần của anh, nói:
“Tôi có mang vàng
theo đây, c̣n của mấy chú đâu?”
Đức lôi ra nguyên
một gói tiền từ trong túi áo rộng rinh của chú, đưa cho Tâm:
“Chỉ được bao nhiêu
đó thôi, nhưng chúng tôi cũng đă gắng hết sức rồi.”
Tâm cầm gói tiền,
không đếm, nhét vào lưng quần, nói:
“Có thể khuya nay
khởi hành rồi. Bây giờ tôi đi nói chuyện với họ. Được là tôi
quay về báo các chú biết liền. Tối nay đừng có ngủ nha, mất công
tôi gọi cửa lắm đó.”
Rồi Tâm xuống núi
mang theo gói tiền nhỏ chứa cả một trời hy vọng của hai chúng
tôi. Tôi và Đức nghe lời Tâm dặn, thức trắng đêm hôm đó. Cảnh
đồi núi sáng vằng vặc dưới ánh trăng đêm ấy bỗng dưng khiến ḷng
tôi dậy lên một niềm xao xuyến như thể ḿnh sắp sửa phải từ giă
đất nước trong vài giờ sắp tới…
Đang ngồi im, bất
chợt Đức mở miệng nói:
“Khang à, nếu người
ta chỉ đồng ư cho một trong hai đứa thôi th́ chú hăy đi đi, tôi
ở lại cho. Tôi nghĩ chú ra nước ngoài th́ có tương lai hơn tôi,
được chuyện hơn tôi nhiều. Hơn nữa, chú có người chị ruột bên
Mỹ, lại có nhiều thầy, nhiều bạn quen. C̣n tôi, ra ngoài đă
không người thân, lại chẳng quen thầy nào bên đó…”
“Không, gặp trường
hợp chỉ có chỗ cho một người, chú cứ đi đi. Đâu cần phải có thân
nhân hay bạn bè ở nước ngoài. Người ta sống được th́ ḿnh sống
được. Tôi mà ra được bên ngoài cũng không có ư nhờ vả bà chị hay
bạn bè ǵ cả, vậy th́ cũng như chú thôi. Ra được rồi là lo liên
hệ với các chùa bên Pháp, Mỹ hay bất cứ ở nước nào. Tôi tin các
chùa đó sẽ giúp chú. Đừng ngại. Tôi nghĩ là chú nên đi trước nếu
cơ hội này chỉ dành cho một người. Tôi quen biết nhiều người ở
Nha Trang, tôi sẽ t́m cách đi sau. Có mấy thầy ở Vạn Giă hứa
giúp tôi mà.”
Chỉ bàn với nhau
trước vậy cho dễ tính vậy thôi, chứ chúng tôi cứ hy vọng sẽ được
đi hết cả hai. Khi Đức đồng ư với tôi rồi, chúng tôi hết chuyện
nói, im lặng ngó xuống đường. Xe cộ đă thưa thớt. Thỉnh thoảng
mới có chiếc xích lô uể oải chạy ngang. Chúng tôi ngồi đó thật
lâu. Sương khuya lạnh hắt qua những làn gió nhẹ khiến đôi lúc
tôi phải rùng ḿnh.
Rồi gà gáy. Rồi tàu
hỏa kéo c̣i, xùng xịch chạy ngang chân núi. Rồi ngựa xe tấp nập.
Rồi mặt trời mọc. Anh Tâm mang hy vọng xuất dương của chúng tôi
đi luôn, không bao giờ trở lại. Tôi và Đức không cần phải nhường
nhau chuyến đi đó nữa.
Sau này một thầy ở
Sài G̣n ghé ra viện Hải Đức, có kể chuyện về Tâm cho tôi nghe.
Mẹ nuôi của Tâm thực ra chỉ là một góa phụ yêu thương Tâm như
một t́nh nhân trẻ chứ không phải như con nuôi. Nhưng cuối cùng
th́ bà lại gả con gái của bà cho Tâm. Tâm đă mượn danh nghĩa là
“thị giả của Ḥa Thượng” để gạt không biết bao nhiêu tăng sĩ và
bao nhiêu người phật-tử tín tâm khác trong Sài G̣n. Không c̣n
làm ăn được bằng nghề dụ dỗ người vượt biên tại Sài G̣n, Tâm ra
Huế, rồi Nha Trang để t́m mối mới… Nhưng cuối cùng th́ Tâm cũng
tạm chấm dứt những cuộc lường gạt để cùng gia đ́nh vợ vượt biên
qua tới Nhật. Tôi tự nghĩ, con người có nhiều sáng kiến lừa đảo
như Tâm ra ngoài chắc bon chen với xă hội văn minh chẳng thua
kém ai, chứ khờ khạo như tôi và Đức mà ra nước ngoài làm ǵ nhỉ!
Những người chậm chạp, ít bén nhạy như chúng tôi không những vô
dụng cho xă hội mà c̣n làm cản trở bước tiến văn minh của nhân
loại nữa không chừng. Thôi th́ cứ an phận làm thầy chùa núi, sớm
tôi ê a kinh kệ, học hạnh nhẫn nhục bên cạnh vị thầy cố đô bảo
thủ, biết đâu lại chẳng là môi trường tốt nhất để giữ ǵn đạo
hạnh, và thay v́ đi chiêm bái Phật tích tại Ấn Độ, hăy tiến đến
xứ Phật ngay trong chính bản tâm ḿnh!